Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế tất yếu khách quan của quá trình phát triển của thế giới. Để không bị gạt khỏi lề xu hướng ấy các quốc gia đều phải nỗ lực tập trung vào cải các kinh tế, đổi mới chính sách pháp luật sao cho phù hựp với trình độ phát triển chung của thế giới và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó. Đặc biệt khi chúng ta đã tham gia rất nhiêu khu vực mậu dịch tự do, gia nhập WTO thì vấn đề này lại càng cấp thiết hơn bao giờ hết. Tuy Việt Nam đã thực hiện chính sách “mở cửa” cho khá nhiều ngành, nhưng đối với một số ngành, lĩnh vực nhất định vẫn còn mang nặng dấu ấn của nền kinh tế bao cấp và còn quá non yếu trong đó có lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm thì việc phải cạnh tranh trong hội nhập quốc tế và tham gia sân chơi chung quả là một thách thức lớn. Tuy nhiên lĩnh vực bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói riêng của nước ta cũng đã thu được một số thành tựu đáng ghi nhận trong thời gian qua khi cho ra nhiều sản phẩm bảo hiểm đa dạng đáp ứng được nhu cầu của người mua. Một trong những sản phẩm của bảo hiểm nhân thọ hiện nay được khá nhiều người quan tâm đó là bảo hiểm nhân thọ nhóm. Để hiểu rõ hơn về sản phẩm bảo hiểm nhân thọ nhóm này em xin đi sâu làm rõ đề bài “Tìm hiểu về sản phẩm bảo hiểm nhân thọ nhóm và thực tiễn kinh doanh sản phẩm bảo hiểm nhân thọ nhóm.”
NỘI DUNG
I, Khái quát về bảo hiểm
1, Khái niệm về bảo hiểm
Theo Luật kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam (ban hành ngày 09/12/2000) thì “ Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm."
Như vậy, để có một khái niệm chung nhất về bảo hiểm, chúng ta có thể đưa ra định nghĩa: “Bảo hiểm là một sự cam kết bồi thường của người bảo hiểm với người được bảo hiểm về những thiệt hại, mất mát của đối tượng bảo hiểm do một rủi ro đã thoả thuận gây ra, với điều kiện người được bảo hiểm đã thuê bảo hiểm cho đối tượng bảo hiểm đó và nộp một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm”
2. Bản chất của bảo hiểm
Bằng sự đóng góp của số đông người vào một quĩ chung, khi có rủi ro, quĩ sẽ có đủ khả năng trang trải và bù đắp cho những tổn thất của số ít. Mỗi cá nhân hay đơn vị chỉ cần đóng góp một khoản tiền trích từ thu nhập cho các công ty bảo hiểm. Khi tham gia một nghiệp vụ bảo hiểm nào đó, nếu gặp tổn thất do rủi ro được bảo hiểm gây ra, người được bảo hiểm sẽ được bồi thường. Khoản tiền bồi thường này được lấy từ số phí mà tất cả những người tham gia bảo hiểm đã nộp. Tất nhiên, chỉ có một số người tham gia bảo hiểm gặp tổn thất, còn những người không gặp tổn thất sẽ mất không số phí bảo hiểm. Như vậy, có thể thấy, thực chất của bảo hiểm là việc phân chia tổn thất của một hoặc một số người cho tất cả những người tham gia bảo hiểm cùng chịu. Do đó, một nghiệp vụ bảo hiểm muốn tiến hành được phải có nhiều người tham gia, tức là, bảo hiểm chỉ hoạt động được trên cơ sở luật số đông (the law of large numbers), càng nhiều người tham gia thì xác suất xảy ra rủi ro đối với mỗi người càng nhỏ và bảo hiểm càng có lãi.
Với hình thức số đông bù cho số ít người bị thiệt hại, tổ chức bảo hiểm sẽ giúp giảm thiểu thiệt hại kinh tế của từng cá nhân hay đơn vị khi gặp rủi ro, tiết kiệm được nguồn chi cho ngân sách nhà nước. Như vậy, thực chất mối quan hệ trong hoạt động bảo hiểm không chỉ là mối quan hệ giữa người bảo hiểm và người được bảo hiểm, mà suy rộng ra, nó là tổng thể các mối quan hệ giữa những người được bảo hiểm trong cộng đồng xoay quanh việc hình thành và sử dụng quĩ bảo hiểm. Quỹ bảo hiểm được tạo lập thông qua việc huy động phí bảo hiểm, số người tham gia càng đông thì quĩ càng lớn. Quỹ được sử dụng trước hết và chủ yếu là để bù đắp những tổn thất cho người được bảo hiểm, không làm ảnh hưởng đến sự liên tục của đời sống xã hội và hoạt động sản xuất – kinh doanh trong nền kinh tế. Ngoài ra, quĩ còn được dùng để trang trải chi phí, tạo nên nguồn vốn đầu tư cho xã hội. Bảo hiểm thực chất là hệ thống các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình phân phối lại tổng sản phẩm xã hội dưới hình thái giá trị, nhằm hình thành và sử dụng quĩ bảo hiểm cho mục đích bù đắp tổn thất do rủi ro bất ngờ xảy ra với người được bảo hiểm, đảm bảo quá trình tái sản xuất được thường xuyên, liên tục.
3. Các nguyên tắc cơ bản của bảo hiểm
3.1. Nguyên tắc chỉ bảo hiểm sự rủi ro, không bảo hiểm sự chắc chắn (fortuity not certainty)
Nguyên tắc này chỉ ra rằng người bảo hiểm chỉ bảo hiểm một rủi ro, tức là bảo hiểm một sự cố, một tai nạn, tai hoạ, xảy ra một cách bất ngờ, ngẫu nhiên, ngoài ý muốn của con người chứ không bảo hiểm một cái chắc chắn xảy ra, đương nhiên xảy ra, cũng như chỉ bồi thường những thiệt hại, mất mát do rủi ro gây ra chứ không bồi thường cho những thiệt hại chắc chắn xảy ra, đương nhiên xảy ra.
Như vậy, người ta chỉ bảo hiểm cho những gì có tính chất rủi ro, bất ngờ, không lường trước được, nghĩa là không bảo hiểm cái gì đã xảy ra hoặc chắc chắn sẽ xảy ra. Bởi lẽ, bảo hiểm được thực hiện chính là nhằm giải quyết hậu quả của những sự cố rủi ro ngoài ý muốn của con người, những rủi ro mà con người không thể hạn chế được hoặc chỉ hạn chế được phần nào. Người khai thác không nhận bảo hiểm khi biết chắc chắn rủi ro được bảo hiểm sẽ xảy ra, ví dụ như xe cơ giới không đảm bảo an toàn kỹ thuật, con tàu không đủ khả năng đi biển… Người ta cũng không bảo hiểm cho những gì đã xảy ra, ví dụ như bảo hiểm cho tàu, xe sau khi chúng đã gặp tai nạn.
3.2. Nguyên tắc trung thực tuyệt đối (utmost good faith)
Tất cả các giao dịch kinh doanh cần được thực hiện trên cơ sở tin cậy lẫn nhau, trung thực với nhau. Tuy nhiên, trong bảo hiểm, điều này được thể hiện trên một nguyên tắc chặt chẽ hơn, và ràng buộc cao hơn về mặt trách nhiệm. Theo nguyên tắc này, hai bên trong mối quan hệ bảo hiểm (người bảo hiểm và người được bảo hiểm) phải tuyệt đối trung thực với nhau, tin tưởng lẫn nhau, không được lừa dối nhau. Các bên chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của thông tin cung cấp cho bên kia. Doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm giữ bí mật về thông tin do bên mua bảo hiểm cung cấp. Nếu một bên vi phạm thì hợp đồng bảo hiểm trở nên không có hiệu lực. Nguyên tắc này thể hiện như sau:
- Người bảo hiểm phải công khai tuyên bố những điều kiện, nguyên tắc, thể lệ, giá cả bảo hiểm… cho người được bảo hiểm biết. Ví dụ, trong bảo hiểm hàng hải, mặt 1 của đơn bảo hiểm bao gồm các nội dung như điều kiện bảo hiểm, giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm, tỷ lệ bảo hiểm… mặt 2 bao gồm quy tắc, thể lệ bảo hiểm của công ty bảo hiểm có liên quan. Khi giao kết hợp đồng bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến hợp đồng bảo hiểm, giải thích các điều kiện, điều khoản bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm. Người bảo hiểm cũng không được nhận bảo hiểm khi biết đối tượng bảo hiểm đã đến nơi an toàn
- Người được bảo hiểm phải khai báo chính xác các chi tiết liên quan đến đối tượng bảo hiểm. Họ cũng phải thông báo kịp thời những thay đổi về đối tượng bảo hiểm, về rủi ro, về những mối đe dọa nguy hiểm hay làm tăng thêm rủi ro…mà mình biết được hoặc đáng lẽ phải biết. Người được bảo hiểm cũng không được mua bảo hiểm cho đối tượng bảo hiểm khi biết đối tượng bảo hiểm khi biết đối tượng bảo hiểm đó đã bị tổn thất.
Sở dĩ có nguyên tắc này là vì trong giao dịch bảo hiểm, chỉ có người chủ (hoặc người quản lý, sử dụng) mới biết được tất cả mọi yếu tố của đối tượng bảo hiểm, biết rủi ro mình yêu cầu bảo hiểm, còn người bảo hiểm thường không biết rõ rủi ro mà chỉ dựa vào những thông tin do người yêu cầu bảo hiểm cung cấp để xét đoán mức độ rủi ro và quyết định thái độ của mình đối với rủi ro: nhận hay không nhận bảo hiểm, nhận bảo hiểm theo điều kiện, điều khoản như thế nào và tính tỉ lệ phí bảo hiểm bao nhiêu… Do đó, người yêu cầu bảo hiểm phải có trách nhiệm khai báo mọi yếu tố liên quan một cách đầy đủ và trung thực và phải khai báo sự phát sinh các yếu tố quan trọng, có ảnh hưởng đến đối tượng được bảo hiểm trong suốt thời gian hợp đồng có hiệu lực hoặc khi tái tục hợp đồng.
3.3. Nguyên tắc quyền lợi có thể được bảo hiểm (insurable interest)
Quyền lợi có thể được bảo hiểm, hay lợi ích bảo hiểm, là quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền tài sản; quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối tượng được bảo hiểm. Như vậy, quyền lợi có thể được bảo hiểm là lợi ích hoặc quyền lợi liên quan đến, gắn liền với, hay phụ thuộc vào sự an toàn hay không an toàn của đối tượng bảo hiểm. Người nào có quyền lợi có thể được bảo hiểm ở một đối tượng bảo hiểm nào đó có nghĩa là quyền lợi của người đó sẽ được đảm bảo nếu đối tượng đó được an toàn, và ngược lại, quyền lợi của người đó sẽ bị phương hại nếu đối tượng bảo hiểm đó gặp rủi ro. Nói khác đi, người có quyền lợi có thể được bảo hiểm là người bị thiệt hại về tài chính khi đối tượng bảo hiểm gặp rủi ro. Người có quyền lợi có thể được bảo hiểm là người có một số quan hệ với đối tượng bảo hiểm được pháp luật công nhận. Đó có thể là người chủ sở hữu của đối tượng bảo hiểm đó, người chịu trách nhiệm quản lý tài sản hoặc người nhận cầm cố tài sản. Quyền lợi có thể được bảo hiểm có ý nghĩa rất to lớn trong bảo hiểm, có quyền lợi có thể được bảo hiểm thì mới được ký kết hợp đồng bảo hiểm. Khi xảy ra tổn thất, người được bảo hiểm đã phải có quyền lợi có thể được bảo hiểm rồi mới được bồi thường.
Nguyên tắc quyền lợi có thể được bảo hiểm chỉ ra rằng, người được bảo hiểm muốn mua bảo hiểm phải có lợi ích bảo hiểm. Quyền lợi có thể được bảo hiểm có thể là quyền lợi đã có hoặc sẽ có trong đối tượng bảo hiểm. Trong bảo hiểm hàng hải, quyền lợi có thể được bảo hiểm không nhất thiết phải có khi ký kết hợp đồng bảo hiểm, nhưng nhất thiết phải có khi xảy ra tổn thất.
3.4. Nguyên tắc bồi thường (indemnity)
“Bồi thường” có thể được hiểu là “sự bảo vệ hoặc đảm bảo cho thiệt hại hoặc tổn thất phát sinh từ trách nhiệm pháp lý”. Ở đây, “đảm bảo” và “bảo vệ” rất phù hợp với ý nghĩa của bảo hiểm. Mục đích của bảo hiểm chính là nhằm khôi phục vị trí tài chính như ban đầu cho người được bảo hiểm ngay sau khi tổn thất xảy ra. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, có rất nhiều trường hợp các công ty bảo hiểm không thể khôi phục được hoàn toàn vị trí tài chính ban đầu cho người được bảo hiểm mà chỉ có thể cố gắng khôi phục được gần như thế.
Theo nguyên tắc bồi thường, khi có tổn thất xảy ra, người bảo hiểm phải bồi thường như thế nào đó để đảm bảo cho người được bảo hiểm có vị trí tài chính như trước khi có tổn thất xảy ra, không hơn không kém. Các bên không được lợi dụng bảo hiểm để trục lợi. Trong bảo hiểm, số tiền bồi thường mà một công ty bảo hiểm trả cho người được bảo hiểm trong một rủi ro được bảo hiểm không vượt quá số tiền bảo hiểm, không được lớn hơn thiệt hại thực tế. Người được bảo hiểm cũng không thể được bồi thường nhiều hơn thiệt hại do tổn thất, không được kiếm lời bằng con đường bảo hiểm, tối đa người được bảo hiểm cũng chỉ được bồi thường đầy đủ, chứ không thể nhiều hơn thiệt hại.
Ở đây, ta thấy có mối liên hệ giữa bồi thường và quyền lợi được bảo hiểm. Khi xảy ra trường hợp phải bồi thường, số tiền trả cho người được bảo hiểm không được vượt quá mức độ quyền lợi của người đó. Tuy nhiên, đôi khi, người được bảo hiểm chỉ được nhận số tiền ít hơn giá trị lợi ích của họ. Cùng với quyền lợi được bảo hiểm, nguyên tắc bồi thường phụ thuộc chủ yếu vào việc đánh giá tài chính, và như vậy, khi xem xét giá trị sinh mạng, hoặc bồi thường thương tật con người, chúng ta không thể đưa ra được số tiền chính xác.
3.5. Nguyên tắc thế quyền (subrogation)
Theo nguyên tắc thế quyền, người bảo hiểm sau khi bồi thường cho người được bảo hiểm, có quyền thay mặt người được bảo hiểm để đòi người thứ ba có trách nhiệm bồi thường cho mình. Tất cả các khoản tiền nào có thể thu hồi được để giảm bớt thiệt hại đều thuộc quyền sở hữu của người bảo hiểm, tức là người đã trả tiền bồi thường tổn thất. Khi số tiền phải bồi thường càng lớn thì việc áp dụng nguyên tắc thế quyền càng quan trọng và có ý nghĩa. Thế quyền có thể được thực hiện trước hoặc sau khi bồi thường tổn thất. Trong trường hợp này, người bảo hiểm được thay mặt người được bảo hiểm để làm việc với các bên liên quan. Để thực hiện được nguyên tắc này, người được bảo hiểm phải cung cấp các biên bản, giấy tờ, chứng từ, thư từ… cần thiết cho người bảo hiểm.
II, Khái quát về bảo hiểm nhân thọ và sản phẩm bảo hiểm nhân thọ nhóm
1, Bảo hiểm nhân thọ
1.1. Khái niệm bảo hiểm nhân thọ
Theo quy định tại khoản 12 Điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 quy định: “Bảo hiểm nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống hay chết.”
Bảo hiểm nhân thọ là sự cam kết giữa công ty bảo hiểm với người tham gia bảo hiểm mà trong đó công ty bảo hiểm có trách nhiệm trả số tiền bảo hiểm (số tiền bảo hiểm) cho người tham gia khi người tham gia có những sự kiện đã định trước còn người tham gia bảo hiểm có trách nhiệm nộp phí bảo hiểm đầy đủ và đúng thời hạn. Ví dụ:bảo hiểm sức khỏe…
1.2. Đặc điểm của bảo hiểm nhân thọ
Bảo hiểm nhân thọ là một loại nghiệp vụ bảo hiểm cho người được bảo hiểm sống hoặc chết. Chính vì vậy mà bảo hiểm nhân thọ mang những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, tuổi thọ, tính mạng, sức khỏecon người không xác định được giá trị.
Thứ hai, sự kiện bảo hiểm không không hoàn toàn gắn liền với rủi ro.
Sự kiện bảo hiểm là sự kiện khách quan do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật quy định mà khi sự kiện đó xảy ra thì doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm.
Thứ ba, chỉ công ty bảo hiểm nhân thọ mới được cung cấp. Bảo hiểm nhân thọ là bảo hiểm con người đây là thuộc tính cơ bản nhất của bảo hiểm thọ các loại bảo hiểm khác không khác. Ví dụ: bạn tham gia bảo hiểm tính mạng, sức khỏe thì bạn phải đóng phí khi tham gia bảo hiểm. Trong khoản thời gian tham gia bảo hiểm nếu bạn gặp rủi ro như tai nạn thì bạn sẽ được bên bảo hiểm chi trả các chi phí phát sinh trong việc gặp rủi ro này.
Thứ tư, đây là loại hợp đồng dài hạn và thường mang tính tiết kiệm.
Thứ năm, bảo hiểm nhân thọ là loại hợp đồng với các điều khoản mẫu nên yêu cầu rất cao về tính linh hoạt và tính minh bạch.
2, Sản phẩm bảo hiểm nhân thọ nhóm
2.1. Khái niệm bảo hiểm nhân thọ nhóm
Bảo hiểm nhân thọ đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau của con người tuỳ theo mục đích của người tham gia là gì. Trong thực tế để phân loại bảo hiểm người ta chia ra các hình thức cơ bản sau:
• Phân loại theo rủi ro bảo hiểm
- Bảo hiểm trong trường hợp tử vong.
- Bảo hiểm trọn đời
- Bảo hiểm trong trường hợp sống (sinh kỳ)
- Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp.
• Phân loại theo phương thức tham gia bảo hiểm
- Bảo hiểm cá nhân
Là loại bảo hiểm con người thực hiện dưới hình thức người tham gia bảo hiểm là cá nhân. Thông thường loại bảo hiểm tự nguyện đều do cá nhân tham gia bảo hiểm
- Bảo hiểm nhóm
Là loại bảo hiểm con người theo hình thức tập thể có kèm theo danh sách cá nhân được bảo hiểm. Thí dụ tập thể cán bộ, công nhân viên của một doanh nghiệp đều được mua bảo hiểm con người có kèm theo danh sách các cá nhân được bảo hiểm rủi ro chết hoặc bảo hiểm tai nạn bất ngờ nhằm đảm bảo an toàn sản xuất, lao động.
=> Như vậy thì bảo hiểm nhân thọ nhóm nhóm cũng là một loại bảo hiểm nhân thọ mang nhiều đặc điểm tương tự như hợp đồng bảo hiểm nhân thọ dành cho cá nhân nhưng có đặc điểm khác biệt dễ nhận thấy nhất là: hợp đồng bảo hiểm nhóm bảo hiểm cho một nhóm người, thay vì chỉ bảo hiểm cho một người hay người trong một gia đình như trong hợp đồng bảo hiểm cá nhân. “Nhóm” ở đây phải thoả mãn điều kiện là một nhóm người được thành lập không vì mục đích tham gia bảo hiểm.
2.2. Đặc điểm của bảo hiểm nhân thọ nhóm
- Đối tượng có thể tham gia bảo hiểm nhân thọ nhóm: Theo nguyên tắc, những người thuộc các nhóm nhân viên trong một doanh nghiệp (hoặc một đơn vị, tổ chức), nhóm công đoàn lao động, nhóm người vay - người cho vay có thể tham gia bảo hiểm nhóm. Trên thực tế, hầu hết các hợp đồng bảo hiểm nhóm là của nhóm nhân viên trong một doanh nghiệp. Hợp đồng bảo hiểm nhóm sẽ cung cấp quyền lợi cho những người thuộc nhóm đó.
- Quyền lợi của người được bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm nhóm về cơ bản là gống với quyền lợi của người được bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ dành cho cá nhân, chỉ có một số khác biệt cơ bản như: Thông th¬ườngng hợp đồng bảo hiểm nhóm có mức phí thấp hơn so với hợp đồng bảo hiểm cá nhân; mặt khác người được bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm nhóm có quyền chỉ định người thụ hưởng trong trường hợp mỡnh qua đời. Trong khi đó, một điều thường thấy đối với các hợp đồng bảo hiểm cá nhân là người tham gia bảo hiểm - người chủ hợp đồng - chính là người có quyền chỉ định người thụ hưởng (Tất nhiên, trong bảo hiểm nhân thọ cá nhân, người tham gia bảo hiểm và người được bảo hiểm có thể là một).
2.3. Chủ thể tham gia ký kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ nhóm
Tham gia ký kết hợp đồng bảo hiểm nhóm gồm có hai bên là:
+ Công ty bảo hiểm
+ Người tham gia hợp đồng bảo hiểm nhân thọ nhóm. Trong đó, người tham gia hợp đồng bảo hiểm nhóm là người hoặc tổ chức quyết định mua loại hình bảo hiểm nhóm cho các thành viên thuộc nhóm mình. Đây chính là người đàm phán về điều khoản hợp đồng với công ty bảo hiểm.
2.4. Phí trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ nhóm
Phí bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ nhóm được đóng góp thế nào phụ thuộc vào việc hợp đồng đó thuộc loại nào.Trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ nhóm không cùng đóng phí, toàn bộ số phí do người sử dụng lao động đóng, nhân viên (người được bảo hiểm nhóm) không phải đóng phí. Trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ nhóm cùng đóng phí, các thành viên (người được bảo hiểm nhóm) phải đóng toàn bộ hoặc một phần nào đó phí bảo hiểm, phần còn lại do người sử dụng lao động nộp.
III, Thực tiễn kinh doanh sản phẩm bảo hiểm nhân thọ nhóm
1, Lợi ích của việc tham gia bảo hiểm nhân thọ nhóm
Thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam đã có những bước phát triển ấn tượng trong 10 năm qua với doanh thu tăng gấp 3 lần, từ 6.500 tỷ đồng (năm 2003), lên 18.400 tỷ đồng (năm 2012). Được hỗ trợ bởi các điều kiện thuận lợi như dân số trẻ, đạt đến 90 triệu người và vẫn còn đang gia tăng; tăng trưởng GDP ổn định; tỉ lệ tiết kiệm cao…, thị trường này đang có những điều kiện thuận lợi để tiếp tục phát triển trong những năm tới . Việc những điều kiện thuận lợi để phát triển bảo hiểm nhân thọ thì các nhà kinh doanh bảo hiểm đã tận dụng nó một cách triệt để để “tung” ra những sản phẩm bảo hiểm đáp ứng được nhu cầu của người mua bảo hiểm hiện nay trong đó có bảo hiểm nhân thọ nhóm. Như đã trình bày khái niệm của bảo hiểm nhân thọ nhóm ở phần trên thì bảo hiểm nhân thọ nhóm là sản phẩm dành cho một nhóm các đối tượng chứ không phải chỉ cho một cá nhân nữa. Chính vì điều này mà bảo hiểm nhân thọ nhóm được chủ yếu các chủ doanh nghiệp ưa chuộng sử dụng cho nhân viên của mình. Ngoài ra sản phẩm này cũng được nhiều đối tượng khác ngoài các doanh nghiệp sử dụng như: Bảo hiểm nhân thọ cho cặp vợ chồng và trả tiền cho người qua đời sau cùng…Cho dù đối tượng nào tham gia thì bảo hiểm nhân thọ nhóm cũng mang lại trạng thái an tâm về tinh thần, giảm bớt lo âu khi có rủi ro xảy ra. Đồng thời còn giúp khắc phục khó khăn về tài chính khi có rủi ro…
Tiềm năng của bảo hiểm nhóm phúc lợi nhân viên tại Việt Nam lớn hơn những gì chúng ta có thể nhìn thấy được. 51 triệu người đang làm việc tại nhiều ngành nghề, lĩnh vực khác nhau và đa số các doanh nghiệp đang sử dụng lực lượng lao động này là những khách hàng đầy tiềm năng.
Bảo hiểm nhân thọ nhóm là một giải pháp tốt giúp doanh nghiệp giữ chân nhân viên. Hiện nay vấn đề thuyên chuyển nhân sự đang diễn ra ngày càng thường xuyên tại các doanh nghiệp. Nguyên nhân của vấn đề này khá đa dạng, có khi xuất phát từ bản thân người lao động, nhưng cũng có khi do chính sách giữ chân người tài của doanh nghiệp chưa thỏa đáng. Tình trạng này thôi thúc các doanh nghiệp tìm kiếm các cách thức để giữ chân người tài. Một trong những giải pháp hữu hiệu hiện nay được các doanh nghiệp áp dụng để giữ lại nguồn tài sản quí giá nhất của công ty là sản phẩm bảo hiểm nhóm dành cho doanh nghiệp. Bảo hiểm nhân thọ nhóm là sản phẩm bảo hiểm mà doanh nghiệp mua cho nhân viên. Đối với chủ doanh nghiệp, sản phẩm này như là một món quà có giá trị tinh thần để giữ chân nhân viên, nhất là đối với cácnhân viên chủ chốt. Đối với người lao động, đây là một quyền lợi tăng thêm nhằm đảm bảo cuộc sống cho bản thân và gia đình. Một khi nhân viên được công ty quan tâm hơn đến đời sống vật chất và tinh thần thì sẽ gắn bó lâu dài hơn với “ngôi nhà thứ hai” của mình.
2, Thực tiễn kinh doanh sản phẩm bảo hiểm nhân thọ nhóm
2.1. Thành quả đạt được
Ở Việt Nam, bảo hiểm nhóm vẫn chưa thực sự "bùng nổ" dù đã xuất hiện khá lâu. Nhưng theo các chuyên gia trong ngành bảo hiểm thì thời kỳ "ngủ đông" của dòng sản phẩm này sẽ không còn lâu nữa, bởi nhiều doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đã nhận thấy tiềm năng rất gần của phân khúc này.
Ở Việt Nam, không ít công ty bảo hiểm triển khai sản phẩm này, nhưng mới chỉ có một số ít doanh nghiệp tham gia. Nhiều công ty bảo hiểm nhân thọ đã cho ra đời dòng sản phẩm bảo hiểm nhóm như: Phú bảo nghiệp - Prudential, An nghiệp bảo nhân – AIA, An nghiệp thành công - Bảo Việt. Tổng CTCP Bảo hiểm Bưu điện (PTI), thông qua nhà môi giới bảo hiểm AON, đã triển khai sản phẩm bảo hiểm chăm sóc sức khỏe cho các doanh nghiệp lớn như Công ty FPT, Ngân hàng Hàng hải, Ngân hàng Bưu điện Liên Việt, Hãng hàng không AirMekong…Tập đoàn Bảo hiểm Generali của Ý đã khai trương Công ty Bảo hiểm nhân thọ Generali Vietnam, với sản phẩm bảo hiểm cho cá nhân và doanh nghiệp, trong đó có bảo hiểm nhân thọ tử kỳ nhóm Bảo nhân hưng nghiệp. Trong nước, Công ty cổ phần PVI trong năm 2012 đã ra mắt công ty bảo hiểm nhân thọ trên cơ sở hợp tác với đối tác châu Mỹ và có thể triển khai sản phẩm bảo hiểm nhóm .
Mấy năm gần đây nền kinh tế Việt Nam phát triển với tốc độ cao, khoảng 8%/năm. Không ít doanh nghiệp còn có tốc độ phát triển cao hơn thế. Việc hình thành các công ty con, việc mở rộng mạng lưới chi nhánh hoạt động ra toàn quốc và nước ngoài, việc thành lập doanh nghiệp mới đòi hỏi một nguồn nhân lực lớn vừa thành thạo kỹ năng quản lý vừa thành thạo kỹ năng chuyên môn. Với đội ngũ này, doanh nghiệp đào tạo tuyển dụng rất công phu, có thể 5 năm, 10 năm mới có người xứng tầm ở vị trí được giao. Nhất là các doanh nghiệp có vốn nước ngoài, họ luôn phải tuyển dụng và đào tạo người lao động Việt Nam dần dần thay thế vị trí của các chuyên gia nước ngoài (người từ nước có vốn đầu tư hoặc người từ các chi nhánh của công ty mẹ đến). Chính vì vậy mà các doanh nghiệp luôn đưa ra những đối sách để giữ chân nguồn nhân lực mà họ đã mất nhiều công sức đào tạo và một trong những đối sách được các doanh nghiệp áp dụng đó là mua bảo hiểm nhân thọ nhóm cho nhân viên. Khác với bảo hiểm nhân thọ dành cho cá nhân, mức phí của bảo hiểm nhân thọ nhóm được tính toán dựa vào các đặc tính rủi ro của toàn nhóm như tuổi và nghề nghiệp, giới tính. Mức phí đối với sản phẩm bảo hiểm này chỉ chiếm một vài phần trăm tổng quỹ lương hàng năm của doanh nghiệp
Hiện nay, đã có rất nhiều doanh nghiệp bảo hiểm của Việt Nam đưa ra thị trường loại bảo hiểm này.Như Dai-ichi Life Việt Nam đã có sản phẩm bảo hiểm nhân thọ nhóm với phí bảo hiểm rất linh hoạt và nhiều quyền lợi thiết thực. Ngoài ra, Công ty còn có một sản khác là An Thịnh chu toàn là sản phẩm thuộc dòng bảo hiểm liên kết chung (Universal Life). Đại diện Dai-ichi Life Việt Nam cho biết, An Thịnh chu toàn là sản phẩm dành cho mọi đối tượng khách hàng và các doanh nghiệp cũng có thể mua sản phẩm này cho nhân viên của mình . Hay AIA Life Việt Nam cũng có gói bảo hiểm nhóm có tính bảo vệ cao và linh hoạt (không mang tính tiết kiệm), dành cho một nhóm 30 người trở lên không cần thẩm định sức khỏe...
Tuy nhiên, thị trường bảo hiểm nhóm thực sự nóng lên khi đầu tháng 10/2009, ACE Life chính thức giới thiệu sản phẩm mới Kế hoạch tài chính trọn đời - Quyền lợi nhân sự cấp cao và Bảo hiểm tử kỳ nhóm. Số lượng thành viên tối thiểu để được tham gia các sản phẩm này là 10 người. Sau hơn 1 tháng ra mắt sản phẩm, nguồn tin từ ACE Life cho biết đã có rất nhiều doanh nghiệp quan tâm tìm hiểu, đặc biệt là sản phẩm dành cho nhân sự cấp cao. Điều này chứng tỏ nhu cầu thị trường về sản phẩm này rất lớn, dù ở nước ngoài mua bảo hiểm cho nhân sự cấp cao dã trở thành một thói quen của các doanh nghiệp.
Cuối tháng 10/2009, Prévoir Việt Nam và ABBANK cũng ký kết hợp đồng hợp tác bảo hiểm cho cán bộ chủ chốt của khách hàng doanh nghiệp gửi tiền tại ABBANK. Đây là gói sản phẩm bảo hiểm nhóm, được thiết kế cho các thành viên chủ chốt (kế toán trưởng, thành viên ban giám đốc...) của khách hàng doanh nghiệp tham gia sản phẩm tiền gửi của ABBANK. Theo Phòng kinh doanh kênh Bancassurance của Prévoir Việt Nam, đây là sản phẩm dành cho khối DN liên kết với ngân hàng đầu tiên trên thị trường. Prévoir Việt Nam hy vọng, sản phẩm này sẽ được phát triển mạnh trong tương lai.
Tại AAA Việt Nam, những sản phẩm bảo hiểm nhóm mà công ty này đang triển khai là bảo hiểm nhóm dành cho toàn bộ nhân viên, bảo hiểm nhóm dành cho đội ngũ nhân sự chủ chốt, chương trình giữ chân người tài cho toàn bộ nhân viên, chương trình giữ chân người tài cho người chủ chốt. Ngoài ra, AIA Việt Nam còn có các sản phẩm bảo hiểm nhóm có tính bảo vệ cao, như bảo hiểm hưu trí dành cho nhân sự cấp cao. Các sản phẩm này đều có chung ưu điểm là bảo vệ nhân viên suốt 365 ngày/năm, 24 giờ/ngày trên toàn thế giới…
Theo nhận định của một lãnh đạo một doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ: "Phát triển bất cứ sản phẩm nào cũng phải đi theo từng giai đoạn của thị trường và nhu cầu khách hàng. Thời điểm này là lúc các doanh nghiệp đã nhận thấy sự cần thiết của các chính sách giữ chân nhân sự cấp cao. Và thị trường sản phẩm bảo hiểm nhóm trong thời gian tới sẽ thực sự ‘’bùng nổ’’ bất chấp một vài trở ngại về chính sách"
2.2. Những hạn chế và nguyên nhân
Bảo hiểm nhân thọ nhóm là chương trình bảo hiểm dành cho nhân viên được các doanh nghiệp quan tâm rộng rãi khắp nơi trên thế giới. Việc tham gia bảo hiểm cho nhân viên được xem như là một hình thức tăng thêm phúc lợi của doanh nghiệp dành cho các nhân viên của mình. Chương trình bảo hiểm này cũng sẽ góp phần gia tăng sự trung thành của nhân viên đối với doanh nghiệp, vì họ cảm thấy được đánh giá đúng và tưởng thưởng xứng đáng cho những đóng góp của mình đối với doanh nghiệp… Ở Việt Nam, bảo hiểm nhóm xuất hiện đã khá lâu, nhưng thời gian qua vẫn chưa thực sự “bùng nổ”, bởi rất nhiều lý do, dù các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đều đã nhận thấy tiềm năng phát triển mạnh mẽ trong tương lai của loại sản phẩm này.
Bảo hiểm nhân thọ nhóm tại Việt Nam chưa phát triển, vì trên thực tễ là các sản phẩm bảo hiểm chính bán cho cá nhân, các công ty bảo hiểm nhân thọ còn chưa khai thác hết tiềm năng. Chính vì thế mà sản phẩm bảo hiểm nhân thọ nhóm chưa thực sự được quan tâm. Nhiều doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ xếp bảo hiểm nhóm vào phân khúc tiềm năng trong tương lai. Đặc biệt, các sản phẩm bảo hiểm nhóm bán cho doanh nghiệp có mức phí bảo hiểm không bằng phí bán cho cá nhân. Khách hàng không phải thẩm định sức khỏe cũng là một yếu tố gây rủi ro cho doanh nghiệp bảo hiểm.
Theo Tiến sĩ Hoàng Thị Bích Hồng, Phó trưởng khoa Bảo hiểm, Trường đại học Lao động - Xã hội cho biết, tình hình kinh tế khó khăn, cắt giảm chi phí là cách mà nhiều doanh nghiệp đang làm. Thêm vào đó, các doanh nghiệp phải cùng đóng bảo hiểm xã hội (BHXH) với người lao động. Mức đóng bảo hiểm của người lao động hiện nay là BHXH 24%, bảo hiểm y tế 4,5%, bảo hiểm thất nghiệp 2%, tổng cộng là 30,5%. Trong đó, doanh nghiệp phải đóng 22% trên quỹ tiền lương, tiền công đóng BHXH của người lao động và được tính vào chi phí, còn người lao động phải đóng 8,5% mức tiền lương, tiền công. Như vậy, người chủ sử dụng lao động đóng gần gấp 3 lần so với người lao động. Mức đóng BHXH của doanh nghiệp tại Việt Nam tương đối cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đây là nguyên nhân chính xảy ra tình trạng hàng loạt doanh nghiệp nợ BHXH, trốn đóng BHXH hiện nay. Đây cũng là một nguyên nhân khiến đa số doanh nghiệp chưa “mặn mà” với bảo hiểm nhân thọ nhóm, mặc dù Nghị định số 122/2011/NĐ-CP của Chính phủ đã tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trong việc quyết toán các khoản chi để mua thêm bảo hiểm cho nhân viên .Nghị định 122 tạo điều kiện thuận lợi cho chủ sử dụng lao động mua bảo hiểm cho người lao động được tính vào chi phí trước thuế sẽ tạo tiền đề cho sản phẩm bảo hiểm nhân thọ nhóm hướng tới doanh nghiệp nhiều hơn.
Tại các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới, sản phẩm bảo hiểm nhóm được bán rất chạy, vì đây chính là một giải pháp tốt giúp doanh nghiệp giữ chân nhân viên. Tuy nhiên, ở Việt Nam, dù đã được không ít doanh nghiệp triển khai, nhưng đến nay, dòng sản phẩm này không phải là dòng sản phẩm chủ lực của các công ty bảo hiểm nhân thọ. Bởi lẽ, chỉ có một số ít doanh nghiệp Việt Nam nghĩ tới giải pháp mua bảo hiểm nhóm cho nhân viên. Các doanh nghiệp vẫn chưa quan tâm đến giải pháp để giữ chân nhân sự, mà mới chỉ tập trung làm đúng theo quy định của pháp luật về chính sách phúc lợi cho người lao động.
Đại diện một doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ nước ngoài đã hoạt động 10 năm ở Việt Nam cho biết, tỷ lệ tái tục sản phẩm bảo hiểm nhóm của Công ty khá cao, với mức hiện tại là trên 80%. Tuy nhiên, sản phẩm bảo hiểm nhóm của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ mới chủ yếu bán cho doanh nghiệp nước ngoài, lãnh sự quán và đại sứ quán… mua cho nhân viên của mình. Các doanh nghiệp Việt Nam tham gia mua sản phẩm này chủ yếu là công ty cổ phần, doanh nghiệp liên doanh và một số ngân hàng lớn, nhưng tỷ lệ tham giavẫn còn khá khiêm tốn.
IV. Một số giải pháp giúp nâng cao hiệu quả kinh doanh của sản phẩm bảo hiểm nhân thọ nhóm
* Về phía nhà nước
- Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm nhân thọ để tạo điều kiện tốt nhất cho doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm được phát huy những lợi thế về thị trường và hoàn thiện hơn nữa các sản phẩm bảo hiểm có chất lượng trong đó có bảo hiểm nhân thọ nhóm
- Thứ hai, nhà nước cần có những chính sách khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển và đa dạng hóa sản phẩm bảo hiểm.
- Thứ ba, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm.
* Về phía Doanh nghiệp bảo hiểm
- Thứ nhất, cần đa dạng và chuyên nghiệp hóa các kênh phân phối bảo hiểm.
- Thứ hai, hoàn thiện hơn những nội dung liên quan tới hợp đồng bảo hiểm nhân thọ nhóm nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho người mua bảo hiểm được hưởng những chính sách ưu đãi từ loại bảo hiểm nhân thọ nhóm này
- Thứ ba, chuyên nghiệp hóa đội ngũ nhân viên nghiên cứu thị trường và tìm hiểu thị trường để cải tiến những chính sách liên quan đến bảo hiểm nhân thọ nhóm sao cho phù hợp hơn với người mua bảo hiểm đặc biệt là đối với các doanh nghiệp mua bảo hiểm nhóm cho nhân viên của mình
KẾT LUẬN
Từ thực tế kinh doanh sản phẩm bảo hiểm nhân thọ nhóm ta có thể nhận thấy sản phẩm này tuy có nhiều tiềm lực phát triển tại thị trường Việt Nam nhưng trên thực tế nó vẫn chưa có sự bùng nổ và không phải là sản phẩm chủ chốt của các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm. Những hạn chế trên được chi phối bởi rất nhiều lý do trong đó có lý do là bảo hiểm nhân thọ nhóm chưa đáp ứng được sự mong đợi của người mua bảo hiểm, đồng thời các doanh nghiệp bảo hiểm cũng chưa phổ biến rộng rãi sản phẩm này đến người mua. Đối tượng chủ yếu mà doanh nghiệp bảo hiểm hướng tới cho sản phẩm bảo hiểm nhân thọ nhóm nay là các doanh nghiệp do đó mà tính phổ biến của nó chưa cao. Vì vậy, để phát huy được những thế mạnh từ thị trường mang lại các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm cần nâng cao hơn nữa trình độ của mình đồng thời nhà nước cũng cần hoàn hiện hơn về pháp luật kinh doanh bảo hiểm nhằm tạo nền tảng cho thị trường bảo hiểm của Việt Nam ngày càng lớn mạnh. Bài làm của em không thể tránh khỏi những thiếu sót do đề tài trên khá mới mẻ và vốn hiểu biết thực tế còn có hạn. Rất mong nhận được sự sửa đổi của thầy cô để bài làm của em hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, Bảo hiểm và kinh doanh bảo hiểm theo pháp luật Việt Nam – TS Phạm Văn Tuyết – NXB Tư pháp
2, Luật kinh doanh bảo hiểm
No comments:
Post a Comment