04/11/2014
Chủ trương của Đảng về đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại

Nước ta là một bộ phận không thể tách rời của thế giới, gắn liền với tiến trình phát triển của thế giới. Hiểu biết sâu sắc tình hình thế giới là điều kiện không thể thiếu để xác định những mục tiêu, nhiệm vụ cho đất nước. Xa rời với sự vận động chung, tự cô lập mình với thế giới bên ngoài là những sai lầm nguy hại, có thể ảnh hưởng đến sự sinh tồn của cả dân tộc. Việt Nam chúng ta đã từng có một thời kỳ như vậy, chỉ bó hẹp quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa mà không quan tâm đến tình hình của các nước khác cũng như thế giới nói chung, bị bảo vậy, cô lập bởi chính các nước trong khu vực. Nhưng rất may, Đảng ta đã có những điều chỉnh kịp thời trong chính sách ngoại giao, giúp đưa đát nước thoát khỏi tình thế đó. trong đó phải kể đến chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại.


Hoàn cảnh lịch sử

Tình hình thế giới

Từ giữa những năm 80 của thế kỷ XX tình hình thế giới có nhiều biến động. Sự phát triển nhanh chóng của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã tác động sâu sắc đến nền kinh tế thế giới. Xu thế chạy đua phát triển kinh tế đã dẫn đến cục diện hòa hoàn giữa các nước lớn. Các nước đang phát triển cũng dần đổi mới chính sách đối ngoại, thực hiện chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế để tranh thủ sự hỗ trợ về vốn, kỹ thuật và công nghệ. Hai xu hướng toàn cầu hóa và khu vực hóa cũng có những ảnh hưởng không nhỏ đến chính sách ngoại giao của các nước, trong đó có các nước Đông Nam Á.

Trong khi đó, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng sâu sắc. Đến đầu những năm 90, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ hoàn toàn. Trật tự thế giới hai cực theo đó cũng tan rã, mở ra thời kỳ mới với việc hình thành trật tự thế giới đa cực.

Tình hình trong nước và những tác động của tình hình thế giới đến việc hình thành chính sách đổi mới.

Về mặt chính trị - ngoại giao, do không nắm bắt kịp thời xu thế phát triển của thế giới mà chính sách đối ngoại của chúng ta mười năm trước đổi mới đã bộc lộ nhiều hạn chế. Việt Nam vẫn trong thế bị bao vây, cô lập: lấy cớ “Sự kiện Campuchia” các nước ASEAN và một số nước khác thực hiện cấm vận chúng ta; Mỹ ba lần phủ quyết chúng ta gia nhập Liên hợp quốc… bị cô lập lại bị các thế lực thù địch chống phá, cộng với các chính sách phát triển sai lầm, không phù hợp với hoàn cảnh khiến nước ta lâm vảo cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng.

Những biến động của tình hình thế giới cũng tác động sâu sắc đến nhận thức và tư duy của Đảng, là cơ sở cho sự đổi mới các chính sách. Đặc biệt sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa đứng đầu là Liên Xô là bài học quý giá cho chúng ta. Đảng nhận định rằng sự sụp đổ đó không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội nói chung mà là sự sụp đổ của một mô hình xã hội chủ nghĩa đã bị biến dạng, mang nhiều khuyết tật. Từ đó Đảng đã rút ra nhiều kinh nghiệm cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Đối với xu hướng toàn cầu hóa, Đảng khảng định: toàn cầu hóa là một xu thế khách quan, có cả mặt tích cực và tiêu cực. Chúng ta cần phải tham gia quá trình toàn cầu hóa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực nhưng vẫn đảm bảo độc lập, tự chủ.

Xuất phát từ tình hình cụ thể trong và ngoài nước và nhu cầu phát triển của nước ta, những đánh giá về cục diện thế giới và khu vực nói trên, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng diễn ra vào tháng 12/1986, Đảng ta bắt đầu đã có những đổi mới sâu sắc và mang tính chiến lược về đường lối và chính sách đối ngoại.

Nội dung đường lối đối ngoại thời kì đổi mới

Những nội dung chính

Có thể nêu ra một số chủ trương, chính sách lớn được đề cập trong các văn kiện của Đảng liên quan đến đối ngoại như:

Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững;

Mở rộng thêm các quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa;

Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp;

Bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế kinh tế phù hợp với các nguyên tắc, quy định của WTO;

Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy nhà nước;

Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm trong hội nhập kinh tế quốc tế;

Giải quyết các tốt các vấn đề văn hóa, xã hội và môi trường trong quá trình hội nhập;

Tăng cường hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực an sinh xã hội như giáo dục, bảo hiểm, y tế, từ đó đẩy mạnh công tác xóa đói giảm nghèo;

Giữ vững và tăng cường quốc phòng, an ninh trong quá trình hội nhập;

Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân; chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại;

Đối mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lí của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại.

Chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại

Trong đường lối ngoại giao thời kì đổi mới của Đảng không thể không nhắc đến chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại. Đây là một trong những chủ trương quan trọng, thể hiện rõ nét sự đổi mới của Đảng trong quan điểm và tư duy về công tác đối ngoại. Có thể nói việc đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại là cơ sở tiền đề để chúng ta thực hiện được các chủ trương khác như hội nhập kinh tế quốc tế hay nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Nội dung

Trước thời kì đổi mới, chúng ta đánh giá các quốc gia, các dân tộc khác chỉ đơn thuần theo tiêu chí chính trị; cách mạng và phản cách mạng, xã hội chủ nghĩa và phi xã hội chủ nghĩa, tốt và xấu, bạn và thù; có khuynh hướng đánh giá một cách chủ quan về sức mạnh tuyệt đối của chủ nghĩa xã hội mà không nhận thấy chủ nghĩa tư bản với khoa học công nghệ đã và đang phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là nền kinh tế. Do đó, Đảng chủ trương tập trung phát triển quan hệ ngoại giao với các nước trong khu vực Đông Nam Á và các xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô – coi quan hệ với Liên Xô là hòn đá tảng trong chính sách ngoại giao. Điều này khiến cho quan hệ đối ngoại của Việt Nam bị bó hẹp trong hệ thống xã hội chủ nghĩa và trong khu vực.

Tại Đại hội VI, lần đầu tiên Đảng đặt cơ sở cho việc mở rộng quan hệ kinh tế ra ngoài các nước xã hội chủ nghĩa bằng chủ trương: “Chúng ta cần tranh thủ những điều kiên thuận lợi mới về hợp tác kinh tế và khoa học kĩ thuật, tham gia ngày càng rộng rãi việc phân công và hợp tác trong Hội đồng tương trợ kinh tế, đồng thời tranh thủ mở rộng quan hệ với các nước khác”. Triển khai chính sách này, tháng 12/1987, ta đã ban hành Luật đầu tư nhằm thu hút vốn từ các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội. Đại hội VI cũng đưa ra nhiều điều chỉnh quan trọng khác trong đó có chủ trương bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc. Đây là những chủ trương mở đầu cho quá trình đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại.

Nối tiếp tinh thần của Đại hội VI, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 Khóa VII tháng 6/1992 về chính sách đối ngoại là một Nghị quyết hết sức quan trọng, đã cơ bản hoàn chỉnh đường lối, chính sách đối ngoại đổi mới của nước ta. Mục tiêu đối ngoại của ta là giữ vững hòa bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Để thực hiện được mục tiêu đó một trong những việc chúng ta cần làm đó là đẩy mạnh đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế song song với giữ vững nền độc lập tự chủ. Độc lập tự chủ, phát huy cao độ nội lực là nền tảng để phát triển các quan hệ quốc tế và hội nhập quốc tế. độc lập tự chủ không có nghĩa là biệt lập, trái lại, phải mở rộng, đa dạng hóa và đa phương hóa các quan hệ quốc tế, xây dựng được thế đứng vững chắc trên trường quốc tế.

Chúng ta mở rộng quan hệ đối ngoại theo các nguyên tắc: tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực; giải quyết các mâu thuẫn bằng biện pháp hòa bình; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi. Chúng ta mở rộng quan hệ với mọi quốc gia và mọi vùng lãnh thổ trên thế giới không phân biệt chế độ chính trị - xã hội và ý thức hệ; trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học – công nghệ, văn hóa, giáo dục, y tế, quốc phòng, an ninh…; cả quan hệ song phương và đa phương; cả quan hệ ngoại giao của Quốc hội, Chính phủ, quan hệ đối ngoại của Đảng và đối ngoại nhân dân. Chúng ta coi trọng phát triển quan hệ hòa bình, hợp tác, hữu nghị với các nước lánh giềng, khu vực, mở rộng quan hệ ngày càng sâu, ổn định, bền vững với các nước lớn, các trung tâm kinh tế - tài chính quốc tế lớn là những lực lượng ảnh hưởng đáng kể đến an ninh và phát triển của nước ta. Đồng thời ta không xem nhẹ phát triển quan hệ với các nước khác, các nước bè bạn truyền thống, các lực lượng cách mạng và tiến bộ, những người yêu chuộng hòa bình và công lí trên thế giới.

Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng tháng 6/1996 quyết định đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, hướng hoạt động đối ngoại sang phục vụ phát triển kinh tế là chủ yếu và Nghị quyết Đại hội IX tháng 4/2001 nâng lên một mức cao hơn, chủ trương “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”.

Từ chính sách đối ngoại chủ yếu dựa vào Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, ta đã chuyển sang chính sách đối ngoại mở rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, với phương thức tập hợp lực lượng rất linh hoạt, theo từng vấn đề và từng thời điểm cụ thể. Trong quan hệ quốc tế chúng ta không đơn giản phân định đích – ta, thù – bạn mà nhận định một cách biện chứng hơn: những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hoạt động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh. Trong mỗi đối tượng vẫn có mặt cần tranh thủ hợp tác; trong một số đối tác quan trọng nhưng vẫn có thể có sự khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta thì vẫn phải đấu tranh; xác định đối tương, đối tác tùy theo tình huống, hoàn cảnh, tránh mơ hồ, cứng nhắc.

Với chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa trong các quan hệ ngoại giao của Đảng, chúng ta đã đạt được một số thành tựu nhất định cũng như gặp phải một số hạn chế.

Kết quả

Ta đã phá được thế đất nước bị bao vây, cấm vận, cô lập; thiết lập quan hệ ngoại giao với hầu hết các nước trên thế giới không phân biệt chế độ chính trị, trên mọi phương diện từ chính trị, kinh tế đến an ninh, quốc phòng. Đến nay, VIệt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 180 quốc gia, có quan hệ thương mại với gần 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, là thành viên tích cực của hơn 70 tổ chức khu vực và quốc tế. Chúng ta đã có 98 cơ quan đại diện tại các quốc gia và vùng lãnh thổ khắp 5 châu lục trên thế giới. Đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử ngoại giao dân tộc, chúng ta đã đảm nhiệm thành công cương vị ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009 và Chủ tịch ASEAN năm 2010. Thế và lực của đất nước ngày càng vững mạnh, vai trò và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao hơn bao giờ hết. Tất cả đều là minh chứng cho chủ trương đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế.

Ta đã đi từ bình thường hóa quan hệ đến xác lập khuôn khổ quan hệ ổn định, lâu dài với các nước lớn như Trung Quốc, Mỹ, Liên minh châu Âu. Nhìn chung, quan hệ giữa ta với các nước lớn đã có những tiến bộ rõ rệt. Các nước lớn, trong đó có cả Mỹ, đều đã cử nguyên thủ sang thăm chính thức nước ta và các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước ta ngược lại cũng đã đi thăm chính thức các nước đó. Với Trung Quốc, ta đã ký Tuyên bố chung, Thông cáo chung Việt Nam – Trung Quốc với phương châm “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”. Với Mỹ, ta đã ký Hiệp định Thương mại Việt Nam – hoa kỳ và nhiều văn bản hợp tác khác. Ta cũng đã ký Hiệp định về hợp tác với Liên minh châu Âu, Tuyên bố về quan hệ đối tác chiến lược với Nga và Khuôn khổ quan hệ đối tác tin cậy và ổn định lâu dài với Nhật Bản.

Trong khu vực, việc rút quân tình nguyện khỏi Campuchia và chủ động tham gia giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia là bước đi lớn, tạo tiền đề thuận lợi để gia nhập ASEAN. Các vấn đề về biên giới, lãnh thổ, biển đảo với các nước trong khu vực như Philippine, Thái Lan, Malaysia…phần lớn cũng được chúng ta giải quyết trong hòa bình bằng các biện pháp ngoại giao, góp phần xây dựng một khu vực Đông Nam Á hòa bình, ổn định và thịn vượng lâu dài. Đồng thời cùng với ASEAN, chúng ta cũng tích cực giải quyết các tranh chấp trên biển Đông với Trung Quốc.

Trong lĩnh vực kinh tế, việc mở rộng quan hệ với nhiều nước, đặc biệt là các nước lớn đã giúp chúng ta tranh thủ được nhiều nguồn vốn ODA và FDI, mở rộng thị trường ngoài nước, tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế. Năm 2011, giải ngân ODA của Việt Nam đạt 3,65 tỷ USD. Con số này chỉ chiếm chưa đầy một nửa số vốn 7,9 tỷ USD cam kết tại Hội nghị CG năm 2010, nhưng đã tăng 10% so với mức giải ngân hơn 2,9 tỷ USD của năm 2010. Tại Hội nghị CG tháng 12/2011, các nhà tài trợ tiếp tục cam kết cho Việt Nam trong năm tài khoá 2012 là 7,4 tỷ USD.[footnoteRef:2] Không chỉ vậy, chúng ta còn tiếp thu các kĩ thuật khoa học, công nghệ tiên tiến của nước ngoài để áp vào trong nước, tăng sức sản xuất và cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong nước. Tất cả là động lực to lớn thúc nền kinh tế của chúng ta không ngừng phát triển với tốc độ nhanh chóng trong suốt thời gian qua, kể từ khi Đảng thực hiện chính sách đổi mới. Theo thống kê tốc độ tăng trưởng kinh tế của chúng ta tăng tương đối đồng đều quá các năm, nhất là về cuối năm. GDP cả nước năm 2011 tăng 5,89%; quy mô nền kinh tế ước đạt 119 tỷ USD, với mức GDP bình quân đầu người đạt 1.300 USD/năm[footnoteRef:3]. [2: Thống kê của viện chiến lược và chính sách tài chính] [3: ]

Những thực tế trên đã chứng tỏ đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng là đúng đắn, thể hiện sự trưởng thành về nhận thức, quan điểm. Tuy nhiên không phải là không có những khó khăn, thử thách mà chúng ta phải đối mặt. Thứ nhất, cùng với quá trình mở rộng quan hệ ngoại giao những lo ngại về an ninh trong nước cũng gia tăng với nhiều mầm mống nguy hại như sự can thiệp từ bên ngoài, các lực lượng khủng bố, cực đoan…Thứ hai, trong quan hệ với các nước, đặc biệt là các nước lớn, chúng ta còn lúng túng, bị động, dễ bị chi phối, áp đặt. Thứ ba, hội nhập kinh tế quốc tế cũng đem lại nhiều thách thức cho nền kinh tế trong nước như sự cạnh tranh của hàng ngoại, hàng giả, hàng nhái…Thứ ba, việc mở rộng giao lưu văn hóa khiến du nhập vào Việt Nam nhiều yếu tố văn hóa không lành mạnh, không phù hợp với văn hóa truyền thống người Việt, thậm chí còn mang tính chất phản động. Và còn rất nhiều khó khăn, thách thức nữa chờ chúng ta khi tiến hành mở rộng quan hệ ngoại giao, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, đòi hỏi Đảng phải thật tỉnh táo, đúng đắn khi đề ra các chính sách, đường lối tiếp theo.

No comments:

Post a Comment