CHƯƠNG 1 - NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. KHÁI NIỆM KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ KHÁI NIỆM KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO YÊU CẦU CỦA NGƯỜI BỊ HẠI
1.1.1. Khái niệm khởi tố vụ án hình sự
“Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu của tố tụng hình sự, trong đó cơ quan có thẩm quyền xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm để ra quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án.”
* Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu của tố tụng hình sự
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu quá trình tố tụng và là giai đoạn tố tụng độc lập bởi giai đoạn này có nhiệm vụ riêng mang đặc thù về chủ thể tố tụng, hành vi tố tụng và văn bản tố tụng. Chủ thể có quyền khởi tố vụ án hình sự là những cơ quan có thẩm quyền theo quy định của BLTTHS 2003. Nhiệm vụ của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm để từ đó ra quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự – những văn bản tố tụng đặc trưng của giai đoạn này. Tuy nhiên, tính độc lập của giai đoạn khởi tố vụ án cũng như các giai đoạn khác trong quá trình tố tụng chỉ mang tính tương đối, giữa chúng có mối quan hệ qua lại, tác động lẫn nhau; giai đoạn trước là tiền đề cần thiết cho việc thực hiện nhiệm vụ của giai đoạn sau, giai đoạn sau kiểm tra giai đoạn trước. Quyết định khởi tố vụ án là cơ sở pháp lý đầu tiên để thực hiện các hoạt động điều tra. Khi chưa có quyết định khởi tố vụ án thì không được tiến hành các hoạt động điều tra cũng như áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Quyết định khởi tố vụ án làm phát sinh quan hệ pháp luật TTHS giữa cơ quan có thẩm quyền, người tiến hành tố tụng với người tham gia tố tụng.
* Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự
Cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự bao gồm cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án) và các cơ quan khác (Cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, đơn vị Bộ đội biên phòng, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra):
- Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự:
+ Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra:
Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với tất cả các tội phạm trừ những tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân và Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự.
Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với những tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc cơ quan tư pháp.
+ Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Viện kiểm sát quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp: Khi thấy quyết định không khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra, cơ quan khác trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, lực lượng Cảnh sát biển, đơn vị Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan, Kiểm lâm không có căn cứ thì Viện kiểm sát huỷ bỏ quyết định đó và ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Viện kiểm sát cũng có quyền quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp Hội đồng xét xử yêu cầu khởi tố vụ án.
+ Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của Hội đồng xét xử
Hội đồng xét xử khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên toà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra.
- Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của các cơ quan khác
+ Đơn vị Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự trong lĩnh vực quản lý của mình thì có thẩm quyền khởi tố vụ án.
+ Các cơ quan khác trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự khi thực hiện nhiệm vụ mà phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của mình.
* Nhiệm vụ của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
Nhiệm vụ của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là xác định có hay không có dấu hiệu của tội phạm để ra quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án. Để thực hiện nhiệm vụ này cơ quan có thẩm quyền sau khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố, trong phạm vi thẩm quyền của mình và thời hạn luật định phải tiến hành các hoạt động kiểm tra, xác minh các tin tức về tội phạm bằng những biện pháp như:
- Kiểm tra giấy tờ tuỳ thân, hộ khẩu, đăng ký tạm trú của người bị tố cáo; yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội hoặc công dân có liên quan đến sự việc cung cấp những tài liệu cần thiết.
- Yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội có liên quan giải thích rõ sự việc nhằm mục đích làm rõ dấu hiệu tội phạm. Khi yêu cầu giải thích, cơ quan có thẩm quyền không được áp dụng các biện pháp hỏi cung hoặc cưỡng chế tố tụng đối với người được yêu cầu giải thích.
- Khi cần thiết phải kiểm tra nội bộ cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội thì phải yêu cầu cơ quan, tổ chức hữu quan tự kiểm tra hoặc yêu cầu cơ quan thanh tra tiến hành thanh tra để làm rõ sự việc.
- Nếu bắt người trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang thì tiến hành lấy lời khai của người bị bắt.
- Trong trường hợp cần thiết thì khám nghiệm hiện trường và tiến hành các biện pháp khác theo quy định của BLTTHS để xác định dấu hiệu tội phạm.
* Quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự
Quyết định khởi tố vụ án hình sự được ra khi cơ quan có thẩm quyền khởi tố xác định có dấu hiệu tội phạm. Đây là cơ sở pháp lý để thực hiện việc điều tra. Trong quyết định khởi tố vụ án, bên cạnh thời gian, điều khoản của BLHS, họ tên, chức vụ của người ra quyết định còn phải ghi rõ căn cứ khởi tố vụ án. Việc ghi rõ căn cứ khởi tố vụ án trong quyết định giúp cho người có thẩm quyền ra quyết định phải cân nhắc kỹ, tránh sự hời hợt, qua loa, đồng thời nâng cao trách nhiệm của người có thẩm quyền. Để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, Điều 100 BLTTHS 2003 chỉ quy định một căn cứ duy nhất để khởi tố đó là dấu hiệu tội phạm đã được xác định. Đồng thời điều luật cũng quy định các cơ sở để xác định dấu hiệu tội phạm. Các cơ sở đó bao gồm: Tố giác của công dân; Tin báo của cơ quan tổ chức; Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng; Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án, Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan, cơ quan Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội phạm; Người phạm tội tự thú.
Như vậy, 5 nguồn thông tin trên đây mới chỉ là những cơ sở ban đầu để cơ quan có thẩm quyền xác minh, thẩm tra để từ đó xác định có hay không có căn cứ để khởi tố vụ án. Hay nói cách khác, những nguồn thông tin đó chưa phải là căn cứ khởi tố mà chỉ là nguồn, là cơ sở hàm chứa những thông tin cho phép đi đến kết luận có dấu hiệu tội phạm hay không để khởi tố vụ án hình sự. Điều này phù hợp với quy định của Điều 100 BLTTHS 2003 vì điều luật chỉ quy định 5 nguồn thông tin này là cơ sở để xác định dấu hiệu tội phạm từ đó làm căn cứ khởi tố vụ án.
Theo quy định của BLTTHS 2003 khi xác định có sự việc xảy ra và sự việc đó có dấu hiệu tội phạm thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án. Còn nếu thấy có một trong bảy căn cứ được quy định tại Điều 107 BLTTHS 2003 thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Quyết định không khởi tố vụ án hình sự là văn bản pháp lý của người có thẩm quyền khởi tố xác định thông tin về tội phạm hoặc một sự việc nào đó không có căn cứ khởi tố vụ án hình sự. Các căn cứ đó bao gồm: Không có sự việc phạm tội; Hành vi không cấu thành tội phạm; Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật; Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; Tội phạm được đại xá; Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác.
1.1.2. Khái niệm khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại
Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại lần đầu tiên được quy định trong BLTTHS 1988 và sau đó, trên cơ sở kế thừa, BLTTHS 2003 tiếp tục quy định với những sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với đòi hỏi của thực tế. Tuy nhiên, cả hai BLTTHS đều không đưa ra khái niệm khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại. Mặc dù vậy, khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại được xem là trường hợp đặc biệt của khởi tố vụ án hình sự, cho nên nó sẽ có những đặc điểm chung của khởi tố vụ án hình sự.
Đối với các vụ án hình sự được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, giai đoạn khởi tố vẫn được xác định là giai đoạn mở đầu của quá trình tố tụng. Tuy nhiên, trong giai đoạn khởi tố của những vụ án hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại cần có yêu cầu khởi tố vụ án từ phía người bị hại. Nếu không có yêu cầu khởi tố của người bị hại thì Cơ quan điều tra không được ra quyết định khởi tố vụ án. Đây là điểm khác biệt so với giai đoạn khởi tố của các vụ án hình sự khác.
Về thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại. Như đã phân tích ở trên, cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án gồm các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan khác. Nhưng với những vụ án hình sự được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, không phải cơ quan nào trong số các cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự đều được khởi tố. Các cơ quan như đơn vị Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển… do chỉ có thẩm quyền khởi tố vụ án khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm trong lĩnh vực quản lý của mình nên có thể khẳng định các cơ quan này không có thẩm quyền khởi tố vụ án do người bị hại yêu cầu. Còn về phía các cơ quan tiến hành tố tụng, thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại chỉ thuộc về một số cơ quan nhất định, đó là Cơ quan cảnh sát điều tra trong Công an nhân dân và Cơ quan điều tra hình sự trong Quân đội nhân dân. Viện kiểm sát, Toà án, Cơ quan an ninh điều tra trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân và Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao không có thẩm quyền khởi tố những vụ án hình sự chỉ được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại do các cơ quan này chỉ được quyền khởi tố vụ án trong những trường hợp nhất định hoặc đối với một số loại tội phạm cụ thể theo quy định. Chẳng hạn như Cơ quan an ninh điều tra trong Công an nhân dân ra quyết định khởi tố vụ án đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia hay Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thẩm quyền khởi tố vụ án về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp. Từ đây có thể thấy, mặc dù luật không quy định rõ nhưng có thể khẳng định rằng chỉ những cơ quan nào có thẩm quyền khởi tố đối với 11 trường hợp phạm tội được quy định tại khoản 1 Điều 105 BLTTHS 2003 thì cơ quan đó mới có thẩm quyền khởi tố đối với các vụ án chỉ được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại.
Trong các vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, để xác định dấu hiệu tội phạm thì sau khi có yêu cầu khởi tố vụ án của người bị hại Cơ quan Điều tra phải tiến hành các hành vi tố tụng như đối với các vụ án thông thường. Nếu chưa có yêu cầu của người bị hại, Cơ quan điều tra vẫn có thể xác minh, kiểm tra tin báo, tố giác về tội phạm nhưng không được ra quyết định khởi tố vụ án. Trong một số trường hợp, người bị hại không biết họ có quyền yêu cầu khởi tố vụ án thì Cơ quan điều tra phải thông báo cho người bị hại biết, hỏi họ có yêu cầu khởi tố vụ án không và hướng dẫn họ làm các thủ tục cần thiết.
Đối với các vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, một vấn đề được đặt ra là yêu cầu của người bị hại là cơ sở để xác định dấu hiệu tội phạm hay là căn cứ để khởi tố vụ án hình sự?
Có quan điểm cho rằng "yêu cầu của người bị hại là một dạng đặc biệt của tố giác". Giữa yêu cầu của người bị hại và tố giác của công dân có nhiều điểm tương đồng: Một là,"tố giác hay yêu cầu của người bị hại đều là việc thông báo với các cơ quan có trách nhiệm về một tội phạm đã xảy ra". Hai là, chủ thể tố giác và người yêu cầu khởi tố đều là cá nhân; Ba là, cả tố giác và yêu cầu của người bị hại đều được thể hiện dưới dạng văn bản hoặc lời nói. Bên cạnh đó, BLTTHS 2003 cũng chỉ quy định trình tự, thủ tục để giải quyết tố giác của công dân, nên "nếu cho rằng yêu cầu của người bị hại không phải là một dạng của tố giác thì yêu cầu đó sẽ được giải quyết theo trình tự, thủ tục nào?". Tuy nhiên, yêu cầu của người bị hại không hoàn toàn là tố giác: Chủ thể yêu cầu khởi tố vụ án chỉ có thể là người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại, còn chủ thể tố giác có thể chính là người bị hại hoặc bất kỳ người nào biết về sự việc đó; Yêu cầu khởi tố vụ án là quyền của người bị hại còn tố giác vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của công dân; Nội dung của yêu cầu khởi tố ngoài báo tin về tội phạm còn là sự mong muốn pháp luật trừng trị kẻ phạm tội còn nội dung tố giác là báo tin về tội phạm (thời gian, địa điểm…). Nhưng cũng có quan điểm cho rằng yêu cầu khởi tố vụ án là căn cứ để cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án vì "trong quyết định khởi tố phải ghi rõ căn cứ khởi tố, một trong những căn cứ khởi tố các tội quy định tại Điều 88 BLTTHS là yêu cầu của người bị hại". Quan điểm này chưa thực sự hợp lý vì theo quy định tại Điều 100 BLTTHS 2003, dấu hiệu của tội phạm đã được xác định là điều kiện cần và đủ để cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án. Đối với các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 105 BLTTHS 2003 cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án trên cơ sở sự kết hợp của hai yếu tố: có dấu hiệu của tội phạm và có yêu cầu của người bị hại. Nếu không có dấu hiệu của tội phạm thì dù người bị hại có yêu cầu, cơ quan có thẩm quyền cũng không được ra quyết định khởi tố vụ án và ngược lại, nếu không có yêu cầu của người bị hại thì dù xác định có dấu hiệu của tội phạm cơ quan thẩm quyền cũng không được khởi tố vụ án. Hay nói cách khác, với vụ án hình sự khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, điều kiện cần là yêu cầu khởi tố của người bị hại và điều kiện đủ đó là có dấu hiệu tội phạm đã được xác định. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là nếu không có yêu cầu của người bị hại thì Cơ quan điều tra phải ra quyết định không khởi tố vụ án vì quyết định không khởi tố vụ án chỉ đựoc ra khi có một trong bảy căn cứ được quy định tại Điều 107 BLTTHS 2003.
Từ những phân tích trên đây có thể nói khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại là việc ra quyết định khởi tố do cơ quan có thẩm quyền tiến hành theo yêu cầu của người bị hại sau khi xác định một sự việc xảy có dấu hiệu của một số tội phạm theo quy định của BLHS 1999.
1.2. KHÁI NIỆM CHẾ ĐỊNH KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO YÊU CẦU CỦA NGƯỜI BỊ HẠI VÀ CƠ SỞ CỦA VIỆC THIẾT LẬP CHẾ ĐỊNH KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO YÊU CẦU CỦA NGƯỜI BỊ HẠI
1.2.1. Khái niệm chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại
Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại là một chế định pháp luật. “Chế định pháp luật bao gồm một số quy phạm có những đặc điểm chung giống nhau nhằm để điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội tương ứng”. Như vậy, theo định nghĩa này, chế định pháp luật bao gồm một số quy phạm pháp luật có đặc điểm chung và cùng điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội nhất định, không đòi hỏi các quy phạm này phải được sắp xếp trong cùng một chương, mục. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại là một chế định như thế. Thuật ngữ chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại đã được một số tác giả đề cập.
Trong BLTTHS 2003, chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu người bị hại không được quy định thành một chương riêng và các quy định của chế định tập trung xung quanh hai vấn đề là yêu cầu khởi tố vụ án hình sự và rút yêu cầu khởi tố vụ án của người bị hại.
Thứ nhất, vấn đề yêu cầu khởi tố vụ án của người bị hại được quy định tại khoản 1 Điều 105 BLTTHS 2003 với nội dung “Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1, các Điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.” Quy định này đã chỉ ra chủ thể có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự và các trường hợp chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại. Ngoài ra vấn đề này còn được điều chỉnh bởi khoản 3 Điều 51 BLTTHS 2003, theo đó nếu vụ án do người bị hại yêu cầu được Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố và giải quyết theo thủ tục chung thì tại phiên tòa, người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội. Trong trường hợp Hội đồng xét xử tuyên bị cáo vô tội thì người đã yêu cầu phải nộp tiền án phí theo quy định tại khoản 3 Điều 99 BLTTHS 2003.
Thứ hai là vấn đề rút yêu cầu khởi tố vụ án của người đã yêu cầu. Khoản 2 Điều 105 BLTTHS 2003 quy định người đã yêu cầu khởi tố có quyền rút yêu cầu của mình. Việc rút yêu cầu khởi tố vụ án của người đã yêu cầu dẫn đến hai hậu quả pháp lý là vụ án được đình chỉ và người đã yêu cầu phải nộp tiền án phí. Theo quy định tại khoản 2 Điều 164 BLTTHS 2003 thì Cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra nếu người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trong giai đoạn điều tra. Viện kiểm sát và Toà án sẽ ra quyết định đình chỉ vụ án nếu trong giai đoạn truy tố và giai đoạn xét xử nhưng trước ngày mở phiên toà sơ thẩm người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu của mình (khoản 1 Điều 168 và Điều 180 BLTTHS 2003). Riêng với việc nộp án phí thì theo quy định tại khoản 3 Điều 99 BLTTHS 2003, nếu vụ án bị đình chỉ theo khoản 2 Điều 105 thì người bị hại phải nộp áp phí.
Như vậy, xét một cách tổng thể các quy phạm trong chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại không có sự tập trung. Trong số các quy phạm pháp luật của chế định này, Điều 105 BLTTHS 2003 được xem là quy phạm trung tâm của chế định. Không chỉ quy định về chủ thể có quyền yêu cầu khởi tố vụ án, các trường hợp chỉ được khởi tố theo yêu cầu, rút yêu cầu khởi tố, Điều 105 BLTTHS 2003 còn quy định căn cứ để Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án được tiếp tục tiến hành tố tụng khi người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu và căn cứ để người bị hại yêu cầu khởi tố lại vụ án hình sự. Bên cạnh đó, Điều 105 BLTTHS 2003 còn là điều luật dẫn chiếu. Khoản 3 các Điều 51, Điều 99, khoản 2 Điều 164, khoản 1 Điều 169, Điều 180 BLTTHS 2003 khi quy định về các vấn đề khác của chế định đều có sự dẫn chiếu đến Điều 105 BLTTHS 2003.
Vậy, chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình giải quyết yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của người bị hại và việc rút yêu cầu khởi tố vụ án của họ nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị hại, đồng thời đảm bảo lợi ích Nhà nước, xã hội.
1.2.2. Cơ sở của việc thiết lập chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại
a. Cơ sở lý luận
Con người là mục tiêu giải phóng của sự nghiệp cách mạng. Vấn đề quyền con người luôn là trung tâm của mọi cuộc cách mạng và tiến bộ xã hội. Với quan điểm duy vật về lịch sử, triết học Mác- Lênin nói riêng, chủ nghĩa Mác- Lênin nói chung đã đề cập đến những vấn đề cơ bản về quyền con người, khẳng định mối quan hệ gắn bó biện chứng giữa các quyền tự do cơ bản với các điều kiện và biện pháp đảm bảo thực hiện quyền con người trong thực tế.
Pháp luật là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, là công cụ sắc bén được Nhà nước sử dụng để quản lý và duy trì trật tự xã hội. Chính vì vậy, mọi công dân đều phải nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, mọi hành vi vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời. Có như vậy, mới giữ vững được kỷ cương phép nước, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Trong xã hội đó, con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng. Chính vì vậy mà họ luôn được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Họ không chỉ được bảo đảm các quyền tự do dân chủ mà còn “có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm”. Còn riêng với người bị hại, họ là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần hoặc tài sản do hành vi phạm tội gây ra, quyền lợi của họ bị xâm hại, vì vậy Nhà nước đã quy định cho họ có một quyền đặc biệt, đó là quyền được yêu cầu khởi tố vụ án hình sự. Quy định này nhằm mục đích tạo điều kiện cho người bị hại được cân nhắc, tính toán việc khởi tố vụ án hình sự có gây bất lợi cho họ hay không? Tuy nhiên, những trường hợp người bị hại được yêu cầu khởi tố cũng chỉ nằm trong giới hạn mà Nhà nước và xã hội chấp nhận được nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều được xử lý kịp thời, việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Trước khi có BLTTHS 1988, người bị hại không được pháp luật quy định có quyền yêu cầu khởi tố vụ án mà thậm chí trong nhiều trường hợp người bị hại làm đơn xin giảm nhẹ hoặc miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt một cách có tình, có lý cho người phạm tội cũng không được Toà án chấp nhận. Quan niệm phổ biến lúc đó không chấp nhận việc khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại bởi: “Quan hệ pháp luật hình sự là quan hệ giữa Nhà nước và người phạm tội, trong đó với tư cách là người bảo vệ lợi ích của toàn xã hội, Nhà nước có quyền khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử người phạm tội, buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm tương ứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm mà họ đã gây ra”. Bên cạnh đó, các nhà làm luật cũng cho rằng, những vụ án hình sự được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại là các vụ án tư tố, quyền yêu cầu của người bị hại là quyền tư tố bởi đó “là việc nhân danh lợi ích cá nhân, riêng tư để tố giác hành vi sai phạm, tội phạm nào đó" và "tư tố là một hình thức… mà pháp luật dành cho những người bị hại hoặc người thân thích của họ sử dụng để khởi kiện, khởi tố chống lại người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, hành vi phạm tội, xâm phạm các quyền và lợi ích cá nhân”. Như vậy, quyền yêu cầu khởi tố của người bị hại sẽ mâu thuẫn với quyền công tố của Nhà nước, vì quyền công tố là nhân danh lợi ích công cộng, lợi ích Nhà nước để phát giác, tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật. Một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật TTHS Việt Nam là nguyên tắc công tố, tức là mọi hành vi phạm tội đều phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước và Nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân bằng Hiến pháp, bằng pháp luật và bằng cơ chế đảm bảo thực hiện. Mọi hành vi vi phạm pháp luật, xâm hại đến quyền và lợi ích của công dân đều sẽ bị Nhà nước xử lý nghiêm minh.
Tuy nhiên, khi nghiên cứu, tham khảo pháp luật của một số nước đặc biệt là pháp luật tố tụng của Liên Xô, các nhà lập pháp cũng nhận thấy “quyền tư tố” của người bị hại được xã hội chấp nhận khi nó ở trong giới hạn nhất định và không làm ảnh hưởng đến quyền công tố của Nhà nước. Do đó, BLTTHS 1988 đã chính thức ghi nhận chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại.
Khởi tố theo yêu cầu của người bị hại theo quy định của BLTTHS 1988 chỉ áp dụng đối với những hành vi phạm tội có mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và thuộc hai nhóm tội là các tội xâm phạm sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người và các tội xâm phạm quyền tự do dân chủ của công dân. Sau đó khi BLHS 1999 ban hành, do có sự sửa đổi bổ sung trong phân nhóm tội phạm cũng như khi áp dụng vào thực tế, chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại có những điểm hạn chế, thiếu sót nên khi xây dựng BLTTHS 2003, bên cạnh việc ghi nhận chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại trên cơ sở kế thừa các quy định của BLTTHS 1988, chúng ta đã có những sửa đổi, bổ sung nhất định.
Việc BLTTHS 2003 tiếp tục ghi nhận chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại cho thấy sự cần thiết của chế định này trong hệ thống pháp luật tố tụng hình sự của nước ta. Một mặt góp phần bảo vệ quyền và lợi ích của người bị hại, mặt khác, vẫn bảo vệ được lợi ích của Nhà nước, xã hội. Chế định này thể hiện tính dân chủ, sự tôn trọng và cảm thông trước những thiệt hại mất mát của người bị hại.
b. Cơ sở thực tiễn
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng có nhiệm vụ quan trọng, có tính chất quyết định đến các hoạt động, các giai đoạn khác của quá trình tố tụng. Tuy nhiên, không phải cứ phát hiện có dấu hiệu tội phạm rồi khởi tố vụ án là cơ quan có thẩm quyền sẽ bảo vệ lợi ích của người bị hại một cách tốt nhất. Trong thực tế, có những người bị hại chỉ bị thiệt hại về thể chất, có người bị hại chỉ bị thiệt hại về tài sản, nhưng cũng có những người bị thiệt hại cả về thể chất, tinh thần và tài sản. Đối với những thiệt hại về tài sản do tội phạm gây ra thì có thể khôi phục được, còn đối với thiệt hại về tinh thần hoặc thể chất thì chỉ có thể bù đắp được phần nào mà không thể khôi phục lại được như cũ. Trong đó, thiệt hại về tinh thần là thiệt hại không thể tính toán được vì đó là những tổn thương vô hình, những sợ hãi hoặc ám ảnh mà người bị hại không muốn nhắc lại và càng không muốn bị công khai. Đối với những trường hợp này, cách tốt nhất là để cho người bị hại và người gây thiệt hại chủ động giải quyết với nhau. Còn nếu người bị hại thật sự muốn kẻ gây thiệt hại phải bị pháp luật trừng phạt thì sẽ yêu cầu cơ quan có thẩm quyền khởi tố và giải quyết vụ án.
Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu người bị hại là một chế định được quy định và áp dụng khá phổ biến trong pháp luật một số nước.
Tại khoản 2 Điều 20 BLTTHS Liên Bang Nga quy định: “Các vụ án hình sự về các tội phạm quy định tại các Điều 115, 116, khoản 1 Điều 129 và Điều 130 BLHS Liên Bang Nga được coi là các vụ án tư tố. Các vụ án này chỉ được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ”. Còn Điều 105 BLTTHS Trung Quốc quy định: “Những vụ án hình sự do người bị hại tố cáo hoặc có tình tiết giảm nhẹ sẽ do một thẩm phán điều hành việc xét xử”. Như vậy, pháp luật TTHS Trung Quốc cũng đã gián tiếp ghi nhận quyền yêu cầu khởi tố vụ án của người bị hại.
Bên cạnh những quốc gia ghi nhận chế định khởi tố theo yêu cầu của người bị hại trong Luật TTHS thì có những quốc gia lại quy định yêu cầu khởi tố của người bị hại là một yếu tố cấu thành tội phạm. Điều 22 Bộ luật hình sự Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào quy định: “Chỉ bị coi là tội phạm khi có đơn kiện của người bị hại. Nếu hành vi không nguy hiểm cho xã hội và nếu người bị hại không có đơn kiện thì toà án sẽ không kết tội trong các trường hợp: Xâm phạm thân thể giữa những người thân (nếu không gây thương tích nặng hay gây thiệt hại về sức khoẻ), xúc phạm, vu khống, có hành vi thô bạo đối với thi thể hay danh dự của người đã chết, xâm phạm tài sản của họ hàng thân thiết, xâm phạm thô bạo đối với danh dự, bí mật riêng tư của gia đình, cá nhân. Việc người bị hại rút đơn kiện sẽ chấm dứt quá trình tố tụng tại toà án”. Hay Điều 135 BLHS Nhật Bản quy định: “Các tội phạm quy định tại chương các tội xâm phạm bí mật chỉ được khởi tố theo đơn yêu cầu của người bị hại”. Còn luật hình sự Cộng hoà dân chủ Đức đã đưa yêu cầu khởi tố của người bị hại như một yếu tố cấu thành tội phạm đối với một số tội như: Vô ý gây thương tích, xâm phạm đến sở hữu riêng, sử dụng xe không có giấy phép, xâm phạm sở hữu giữa những người thân thuộc.
Như vậy, dù được quy định trong luật TTHS hay luật hình sự thì chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại vẫn thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đến nguyện vọng và lợi ích chính đáng của người bị hại.
ở Việt Nam, qua thực tiễn xét xử cũng như thực tế cho thấy, mặc dù bị thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra nhưng có trường hợp người bị hại không muốn đưa ra xử lý vì có thể ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm, uy tín và tương lai của họ hoặc giữa người bị hại và kẻ gây thiệt hại có những mối quan hệ nhất định. Trong quá trình áp dụng chế định này cho thấy, mặc dù còn có nhiều vướng mắc nhưng quy định này đã từng bước phát huy hiệu quả, quyền và lợi ích của người bị hại đã được bảo vệ tốt hơn.
CHƯƠNG 2 - NỘI DUNG CHẾ ĐỊNH KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO YÊU CẦU CỦA NGƯỜI BỊ HẠI
2.1. YÊU CẦU KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
2.1.1. Chủ thể có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự
Chủ thể có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự là người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
a. Người bị hại
Khái niệm người bị hại lần đầu tiên được quy định trong Thông tư số 16/TATC ngày 27/09/1974 của TANDTC. Theo đó, người bị hại được định nghĩa "là công dân đã bị kẻ phạm pháp trực tiếp xâm phạm đến thể chất, tài sản, hoặc xâm phạm về tinh thần (như bị lăng nhục, đánh, giết, trộm cắp, lừa đảo...)". Định nghĩa đã chỉ ra người bị hại là cá nhân, không thể là cơ quan, tổ chức, đồng thời đối tượng tác động của tội phạm là thể chất, tinh thần hoặc tài sản của cá nhân đó.
Sau đó, BLTTHS 1988 đã đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm người bị hại tại khoản 1 Điều 39 như sau: "Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc về tài sản do tội phạm gây ra".
Theo quy định tại khoản 1 Điều 51 BLTTHS 2003, "người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra".
Như vậy, giữa hai khái niệm về người bị hại trong hai BLTTHS không có sự thay đổi về chất mà chỉ có sự thay đổi về hình thức, văn phạm ngắn gọn hơn. Đây có thể được coi là một quy phạm định nghĩa nêu ra khái niệm pháp lý về người bị hại. Quy phạm này chứa đựng các dấu hiệu để xác định người bị hại.
Về chủ thể, người bị hại chỉ có thể là cá nhân - một con người cụ thể. Pháp nhân hay tổ chức không được coi là người bị hại.
Về thiệt hại, người bị hại bị tội phạm xâm phạm đến thể chất, tinh thần hoặc tài sản. Thiệt hại về thể chất là bị xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ như bị giết, bị gây thương tích… Thiệt hại về tinh thần là bị xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín như bị xỉ nhục, vu khống, thoá mạ, miệt thị… Thiệt hại về tài sản là tài sản của người bị hại bị cướp, bị cưỡng đoạt, bị trộm cắp…
Về nguồn gốc, thiệt hại của người bị hại do tội phạm trực tiếp gây ra bởi cái mà tội phạm hướng đến chính là thể chất, tinh thần hoặc tài sản của người bị hại. Nhưng thế nào là "do tội phạm gây ra?", theo tác giả Đinh Văn Quế: "khoa học luật hình sự chỉ coi là tội phạm khi có đủ 4 yếu tố cấu thành và khi đã là tội phạm rồi thì lúc đó mới có người bị hại trong vụ án hình sự".
Bên cạnh ba dấu hiệu luật định thì xét về mặt hình thức, người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra chỉ trở thành người bị hại trong TTHS khi họ được cơ quan tiến hành tố tụng công nhận là người bị hại thông qua hành vi triệu tập họ đến khai báo với tư cách người bị hại. Trong nhiều trường hợp, hành vi phạm tội không bị phát hiện và xử lý hoặc không xác định được người bị thiệt hại thì mặc dù trên thực tế có người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do hành vi phạm tội trực tiếp gây ra nhưng người đó cũng không thể trở thành người bị hại trong vụ án hình sự.
b. Người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
So với Điều 88 BLTTHS 1988, Điều 105 BLTTHS 2003 có quy định thêm một chủ thể có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, đó là người đại diện hợp pháp của người bị hại. Đây được coi là một tiến bộ trong kỹ thuật luật pháp. Không phải tất cả những người đại diện hợp pháp của người bị hại đều có quyền yêu cầu khởi tố vụ án. Người đại diện hợp pháp của người bị hại chỉ có quyền yêu cầu khởi tố vụ án khi người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
Thứ nhất, khi người bị hại là người chưa thành niên. "Những người bị hại chưa thành niên là những người theo quan điểm lập pháp của chúng ta chưa có đầy đủ năng lực hành vi để thực hiện quyền chủ thể của mình. Họ chưa ý thức được một cách đầy đủ những thiệt hại mà hành vi phạm tội gây ra cho họ và thiếu các điều kiện chủ quan để tự bảo vệ những lợi ích của mình”. Do đó, việc người đại diện hợp pháp của người bị hại tham gia tố tụng là cần thiết và việc họ có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự để bảo vệ quyền lợi cho người bị hại là hợp lý.
Thứ hai, khi người bị hại có nhược điểm về tâm thần. Khoản 1 Điều 105 BLTTHS 2003 sử dụng thuật ngữ "[người bị hại] có nhược điểm về tâm thần" là không chính xác vì trên thực tế, người bị hại có thể trong tình trạng tâm thần hoặc có nhược điểm về tâm thần. Nhược điểm về tâm thần là hạn chế trong việc nhận thức hoặc điều khiển hành vi. Còn trong trường hợp người bị hại hoàn toàn không có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi thì phải xác định là người bị hại tâm thần chứ không phải là người bị hại có nhược điểm về tâm thần. Những người bị hại tâm thần hoặc có nhược điểm về tâm thần bị hạn chế về khả năng hoặc không có khả năng tự thể hiện được ý chí để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình nên người đại diện hợp pháp của họ có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự.
Thứ ba, khi người bị hại là người có nhược điểm về thể chất. Người có nhược điểm về thể chất là những người bị khuyết tật về thể chất như bị mù, bị câm, bị điếc… Nhược điểm này tuy không làm mất khả năng nhận thức, điều khiển hành vi của người bị hại nhưng có thể làm cho người bị hại không thể hiện được hoặc thể hiện không đầy đủ yêu cầu của mình. Do đó, pháp luật quy định cho người đại diện hợp pháp của họ có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại.
2.1.2. Các trường hợp chỉ được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại
Khoản 1 Điều 105 BLTTHS 2003 quy định 11 trường hợp mà cơ quan có thẩm quyền chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại:
a. Tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 104 BLHS: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác
Hậu quả của tội cố ý gây thương tích theo quy định tại khoản 1 là gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác có tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp được quy định từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 104 BLHS như: dùng hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn gây nguy hại (điểm a), thực hiện hành vi nhiều lần đối với cùng một người hoặc với nhiều người (điểm c)… Mức hình phạt cao nhất đối với những trường hợp phạm tội thuộc khoản này là cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. Như vậy, đây là hành vi phạm tội ít nghiêm trọng, có thể giải quyết bằng bồi thường dân sự hoặc biện pháp khác… Do đó, pháp luật quy định đối với những trường hợp này chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại.
b. Tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 105 BLHS: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
So với hậu quả của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác được quy định tại Điều 104 – BLHS, thì hậu quả của tội phạm này ở mức nghiêm trọng hơn (tỉ lệ thương tật là từ 31% trở lên). Tuy nhiên, đây lại là hậu quả của trạng thái tinh thần bị kích động mạnh - do lỗi của người bị hại nên pháp luật hình sự quy định đây là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và chế tài áp dụng cho những trường hợp phạm tội ở khoản 1 có thể là hình phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến hai năm. Vì vậy mà BLTTHS 2003 quy định đây là một trong những trường hợp chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại.
c. Tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 106 BLHS: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng được quy định là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Chủ thể thực hiện hành vi phạm tội là nhằm bảo vệ lợi ích của mình, của Nhà nước hoặc của tổ chức…nhưng do vượt quá giới hạn phòng vệ cho phép. Người bị hại là người có lỗi vì họ đã gây ra tình huống nguy hiểm trước. Do đó, mặc dù hậu quả của hành vi nguy hiểm là nghiêm trọng nhưng chủ thể tội phạm chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu có đơn yêu cầu khởi tố của người bị hại
d. Tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 108 BLHS: Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác
Hành vi này do chủ thể tội phạm thực hiện với lỗi vô ý, vi phạm các quy tắc đảm bảo an toàn về sức khoẻ con người trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Tỷ lệ thương tật tối thiểu là 31% và phải là hậu quả của hành vi phạm tội. Mức hình phạt cao nhất của tội phạm này là đến hai năm tù (có thể có hình phạt bổ sung). Người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi có yêu cầu khởi tố vụ án từ người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại.
đ. Tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 109 BLHS: Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính
Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội do lỗi vô ý; họ không cố tình và cũng không có mâu thuẫn với người bị hại. Họ không mong muốn hậu quả xảy ra.
Quy tắc an toàn trong trường hợp này là quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính. Do đó, đòi hỏi chủ thể phải có trách nhiệm cao hơn trong việc tuân thủ các quy tắc này. Đây được xem là trường hợp phạm tội nặng hơn so với trường hợp phạm tội do vô ý được quy định tại Điều 108 BLHS. Chính vì vậy, khung hình phạt của tội này được quy định nặng hơn. Mức hình phạt cao nhất có thể đến ba năm tù (có thể có hình phạt bổ sung). Tuy nhiên, tội phạm này vẫn thuộc trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 105 BLTTHS 2003.
e. Tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 111 BLHS: Tội hiếp dâm
Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi giao cấu với phụ nữ trái ý muốn của họ bằng các thủ đoạn: dùng vũ lực (dùng sức mạnh vật chất để đè bẹp sự kháng cự của nạn nhân như xô ngã, bóp cổ nạn nhân…); đe doạ dùng vũ lực (đe doạ gây thương tích, đe doạ giết…) nhằm làm tê liệt ý chí của nạn nhân; lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được (người phụ nữ bị ốm, bị say rượu…); thủ đoạn khác (cho dùng chất gây mê, lợi dụng sự kém hiểu biết…).
Điều 111 BLHS quy định 3 khung hình phạt. Chỉ khi nào tội phạm thuộc khung hình phạt cơ bản được quy định tại khoản 1 (có mức hình phạt là từ hai đến bảy năm tù) thì người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ mới có quyền yêu cầu khởi tố vụ án.
f. Tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 113 BLHS: Tội cưỡng dâm
Người phạm tội có hành vi ép buộc bằng các thủ đoạn khác nhau người phụ nữ lệ thuộc mình hoặc người phụ nữ đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu. Người bị hại là người phụ nữ bị lệ thuộc (sự lệ thuộc về công tác, về kinh tế, nuôi dưỡng, tôn giáo) hoặc người phụ nữ đang trong tình trạng quẫn bách (hoàn cảnh khó khăn, éo le…). Các thủ đoạn mà người phạm tội sử dụng để khống chế nạn nhân có thể là đe doạ hoặc hứa hẹn… Từ đó, người phụ nữ buộc phải giao cấu trong khi mình không muốn.
Điều 113 BLHS quy định ba khung hình phạt. Những tội phạm quy định ở khoản 1 (mức hình phạt từ 6 tháng đến 5 năm tù) chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại.
g. Tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 121 BLHS: Tội làm nhục người khác
Hình thức biểu hiện của hành vi làm nhục người khác rất đa dạng, có thể là những lời nói có tính chất thoá mạ, xỉ nhục, hạ thấp danh dự, chửi bới nhạo báng, xúc phạm đến nhân phẩm nhưng cũng có thể là các hành vi, cử chỉ… có tính chất bỉ ổi, xúc phạm nghiêm trọng đến nhân phẩm, danh dự của người khác. Những hành vi này có thể được thực hiện một cách trực tiếp, công khai trước mặt người bị hại hoặc có thể được thực hiện gián tiếp thông qua những người khác.
Điều 121 BLHS quy định hai khung hình phạt, trong đó khung cơ bản được quy định tại khoản 1 có mức hình phạt cao nhất là hai năm tù áp dụng đối với trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng và không có tình tiết tăng nặng. Với những trường hợp phạm tội thuộc khoản này, nếu không có yêu cầu khởi tố từ phía người bị hại thì cơ quan có thẩm quyền không được khởi tố vụ án.
h. Tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 122 BLHS: Tội vu khống
Tội vu khống được hiểu là hành vi bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây tổn hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.
Hành vi phạm tội của tội này có ba dạng: hành vi bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc nhằm gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác (như đưa ra các thông tin không đúng sự thật, thông tin có nội dung xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín…); hành vi loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xâm phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác (người thực hiện hành vi không tự đưa ra thông tin không đúng sự thật nhưng có hành vi loan truyền tiếp những thông tin mà người khác đã đưa đến); hành vi bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.
Khung cơ bản của tội này được quy định tại khoản 1 có mức hình phạt cao nhất là đến hai năm tù, áp dụng cho trường hợp ít nghiêm trọng và không có tình tiết tăng nặng. Trong trường hợp này, khi có yêu cầu của người bị hại thì cơ quan có thẩm quyền mới được khởi tố vụ án.
i. Tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 131 BLHS: Tội xâm phạm quyền tác giả
Tội phạm xâm phạm quyền nhân thân phi tài sản và quyền tài sản của tác giả đối với tác phẩm được pháp luật bảo vệ.
Hành vi khách quan của tội phạm này bao gồm các dạng hành vi: chiếm đoạt quyền tác giả; mạo danh tác giả trên các tác phẩm; sử dụng bất hợp pháp nội dung của tác phẩm; công bố, phổ biến bất hợp pháp các tác phẩm.
Các hành vi trên cấu thành tội phạm khi gây hậu quả nghiêm trọng hoặc khi người thực hiện đã bị xử lý về hành chính hoặc bị kết án mà chưa được xoá án tích về loại hành vi này.
Khoản 1 Điều 131 BLHS ngoài quy định về các dạng hành vi phạm tội còn quy định về khung hình phạt cơ bản với mức hình phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 200 triệu đồng hoặc cải tạo không giam giữ đến hai năm.
k. Tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 171 BLHS: Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
Tội phạm xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước trong lĩnh vực bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, đồng thời tội phạm cũng xâm phạm đến lợi ích của tổ chức, cá nhân có quyền sở hữu công nghiệp được pháp luật bảo hộ. Hành vi khách quan của tội này được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: hành vi chiếm đoạt (chiếm giữ bất hợp pháp) hoặc sử dụng bất hợp pháp (sử dụng không được sự cho phép của chủ sở hữu hoặc sử dụng trong trường hợp pháp luật cấm) các đối tượng sở hữu công nghiệp được bảo hộ tại Việt Nam như sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, tên thương mại…
Hành vi trên cấu thành tội phạm khi gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính hoặc đã bị kết án về tội này nhưng chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.
Điều 171 quy định hai khung hình phạt, trong đó tại khung cơ bản (khoản 1) quy định hình phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 200 triệu đồng hoặc cải tạo không giam giữ đến hai năm. Trong trường hợp này, người bị hại có thể yêu cầu khởi tố vụ án để pháp luật bảo vệ quyền lợi cho mình.
Như vậy, 11 trường hợp phạm tội chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của họ hầu hết là những tội phạm ít nghiêm trọng (mức hình phạt cao nhất có thể là phạt tiền, cảnh cáo, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến hai hoặc ba năm), xâm phạm đến sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp của người bị hại và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Chủ thể thực hiện tội phạm này có thể là những người có mối quan hệ với người bị hại như người thân trong gia đình, bạn bè, đồng nghiệp… Chính vì vậy việc khởi tố vụ án để truy cứu trách nhiệm hình sự người thực hiện tội phạm trong các trường hợp này có thể gây thêm những tổn thất về tinh thần cho người bị hại. Do đó, pháp luật quy định đối với các trường hợp trên chỉ được khởi tố vụ án khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại. Quy định này tạo điều kiện cho người bị hại và người thực hiện hành vi phạm tội giải quyết sự việc với nhau bằng con đường thoả thuận, hoà giải. Người bị hại vừa được đền bù một phần mất mát xảy ra, vừa giữ được tình cảm gia đình, bạn bè, đồng thời giữ kín những chuyện đời tư của mình.
Tuy nhiên, pháp luật cho phép sự thể hiện ý chí của người bị hại trong việc tự giải quyết các sự việc gây thiệt hại cho chính mình cũng chỉ trong giới hạn mà xã hội chấp nhận được. Vì vậy, nếu như các tội phạm nói trên có tình tiết thuộc các khung tăng nặng của điều luật tương ứng (khoản 2, 3, 4) thì cơ quan tiến hành tố tụng sau khi xác định có dấu hiệu tội phạm sẽ quyết định khởi tố vụ án mà không phụ thuộc vào ý chí của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của họ. Trong trường hợp này hành vi phạm tội không chỉ xâm hại đến lợi ích cá nhân người bị hại một cách nghiêm trọng mà còn gây nguy hại lớn cho xã hội. Việc khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp này là cần thiết để góp phần giữ vững kỷ cương pháp luật.
2.1.3. Hình thức, thời điểm yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của người bị hại
Thứ nhất, về hình thức yêu cầu khởi tố. BLTTHS 2003 không có quy định về vấn đề này, nhưng theo quy định tại Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ công an, Bộ Quốc phòng ngày 07/09/2005 thì "yêu cầu khởi tố của người bị hại hoặc người đại diện thể hiện bằng đơn yêu cầu có chữ ký hoặc điểm chỉ của họ; nếu người bị hại hoặc người đại diện đến trực tiếp trình bày thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát phải lập biên bản ghi rõ nội dung yêu cầu khởi tố và yêu cầu họ ký hoặc điểm chỉ vào biên bản. Biên bản do Viện kiểm sát lập phải được chuyển ngay cho cơ quan điều tra để xem xét vụ án hình sự và đưa vào hồ sơ vụ án". Như vậy, yêu cầu của người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp phải được thể hiện bằng văn bản hoặc bằng lời nói đã được cơ quan có thẩm quyền ghi lại thành văn bản, có chữ ký hoặc điểm chỉ của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại mới được xem là yêu cầu đúng pháp luật. Với quy định này có thể hiểu pháp luật muốn người có quyền yêu cầu khởi tố phải trực tiếp thể hiện ý chí của mình và chịu sự ràng buộc nhất định với yêu cầu đó.
Thứ hai, thời điểm yêu cầu khởi tố vụ án. Đây là một vấn đề mà cả BLTTHS 1988 và BLTTHS 2003 đều không có quy định. Tuy nhiên theo tinh thần của khoản 1 Điều 105 BLTTHS 2003, thời điểm xuất hiện yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp của người bị hại phải có trước thời điểm ra quyết định khởi tố "chứ không thể cho thời điểm yêu cầu của người bị hại phải xuất hiện chậm nhất là cùng thời gian với việc quyết định khởi tố vụ án" vì cơ quan tiến hành tố tụng "chỉ được khởi tố vụ án khi có yêu cầu của người bị hại…". Đây là một quy định có tính chất bắt buộc đối với cơ quan có thẩm quyền khởi tố. Còn nếu quyết định khởi tố vụ án rồi sau đó mới bổ sung yêu cầu của người bị hại thì chế định "khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại" sẽ không có ý nghĩa.
2.1.4. Hậu quả pháp lý của việc yêu cầu khởi tố vụ án hình sự
Đối với những vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, khi đã được cơ quan tiến hành tố tụng thụ lý và giải quyết thì hậu quả pháp lý đặc trưng nhất, đó là "người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội tại phiên toà" (khoản 3 Điều 51 BLTTHS 2003). Việc người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại trình bày lời buộc tội tại phiên toà được xem là hậu quả pháp lý đặc trưng vì nó chỉ phát sinh khi yêu cầu khởi tố vụ án của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại được chấp nhận và cũng chỉ có một chủ thể duy nhất trong số những người tham gia tố tụng được trình bày lời buộc tội đó là người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ. Còn nếu vụ án không thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của họ thì những chủ thể này sẽ không được trình bày lời buộc tội tại phiên toà.
Lời buộc tội của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp là việc họ bày tỏ tâm tư nguyện vọng của mình, họ tự phán xét hành vi phạm tội và mong muốn kẻ phạm tội phải bị trừng phạt ở mức độ phù hợp với những thiệt hại mà họ phải gánh chịu. Đa số, người bị hại luôn luôn mong muốn kẻ phạm tội phải chịu hình phạt nghiêm khắc nhất, nhưng cũng có trường hợp người bị hại trình bày lời buộc tội thể hiện sự khoan dung, tha thứ đối với hành vi của kẻ phạm tội và mong muốn Toà án xử nhẹ cho người phạm tội. Lời buộc tội của người bị hại thường chỉ là yêu cầu Hội đồng xét xử giải quyết vụ án đúng đắn, bảo vệ quyền lợi cho họ mà không dựa trên sự phân tích đánh giá chứng cứ. Lời buộc tội của người bị hại mang tính chủ quan, họ trình bày dựa trên cảm tính. Do đó, lời buộc tội của người bị hại chỉ có tính chất tham khảo để từ đó, Hội đồng xét xử ra phán quyết hợp tình, hợp lý.
Khác với lời buộc tội của người bị hại, lời luận tội "là lời trình bày của kiểm sát viên phân tích tội trạng, đề nghị kết tội bị cáo sau khi việc xét hỏi đã kết thúc". Trong lời luận tội của kiểm sát viên bao gồm những vấn đề như phân tích đánh giá toàn diện những tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra tại phiên toà, các chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội, các tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điều, khoản của BLHS; loại và mức hình phạt… Mục đích của lời luận tội là làm rõ tính chất, thủ đoạn của hành vi phạm tội; mục đích động cơ phạm tội; nguyên nhân và điều kiện phạm tội; hậu quả của hành vi phạm tội để thấy rõ quá trình phạm tội cũng như bản chất của tội phạm mà bị cáo đã thực hiện. Lời luận tội có ý nghĩa pháp lý và giáo dục cao liên quan đến quyền, lợi ích vật chất, tinh thần của người bị hại; ảnh hưởng đến quyền lợi của những người có liên quan, từ đó giúp Hội đồng xét xử ra bản án có căn cứ, hợp pháp, góp phần tuyên truyền và phổ biến pháp luật trong quần chúng nhân dân thông qua việc xét xử tại phiên toà.
Về thời điểm người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ được trình bày lời buộc tội tại phiên toà thì BLTTHS 2003 lại không quy định. Theo mục I.7 Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10/2004 của Hội đồng thẩm phán TANDTC, "việc người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội tại phiên toà phải thực hiện theo đúng quy định chung của Bộ luật tố tụng hình sự về phiên toà sơ thẩm; do đó, việc người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội tại phiên toà được thực hiện theo trình tự phát biểu khi tranh luận tại phiên toà quy định tại Điều 217 của Bộ luật tố tụng hình sự". Như vậy, người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội sau khi kiểm sát viên trình bày lời luận tội và bị cáo hoặc người bào chữa của bị cáo trình bày lời bào chữa.
Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm trực tiếp xâm hại. Họ là người biết rõ về các tình tiết của sự việc, do đó sự có mặt của họ tại phiên toà là cần thiết. Theo quy định tại khoản 1 Điều 191 BLTTHS 2003, "nếu người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ vắng mặt thì tuỳ trường hợp, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên toà hoặc vẫn tiến hành xét xử". Như vậy, khi người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ vắng mặt tại phiên toà thì Hội đồng xét xử có thể hoãn phiên toà hoặc vẫn tiến hành xét xử. Tuy nhiên, đối với các vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại thì sự có mặt của họ là bắt buộc bởi sự vắng mặt đó ảnh hưởng đến quá trình xét xử cũng như việc ra bản án, quyết định của Hội đồng xét xử vì nó liên quan đến việc người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại trình bày lời buộc tội. Hay nói cách khác, nếu người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ vắng mặt tại phiên toà thì Hội đồng xét xử phải ra quyết định hoãn phiên toà.
2.2. RÚT YÊU CẦU KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
2.2.1. Chủ thể có quyền rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự và thời điểm rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự
a. Chủ thể có quyền rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự
Khoản 2 Điều 105 BLTTHS 2003 quy định: "Trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên toà sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ".
Như vậy, chủ thể có quyền rút yêu cầu là "người đã yêu cầu khởi tố". Người đã yêu cầu khởi tố có thể là người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại.
So với quy định tương ứng trong BLTTHS 1988, BLTTHS 2003 đã quy định thêm một chủ thể có quyền rút yêu cầu khởi tố vụ án đó là người đại diện hợp pháp của người bị hại. Nhưng đây là hệ quả của việc BLTTHS 2003 bổ sung thêm một chủ thể cũng có quyền yêu cầu khởi tố vụ án, đó là người đại diện hợp pháp của người bị hại. Từ đó, có thể thấy, đây chỉ đơn thuần là sự cải thiện trong kỹ thuật lập pháp còn xét về nội dung, quy định này là một quy định cứng nhắc, vì nếu hiểu theo đúng quy định của điều luật thì người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại khi đã yêu cầu thì chỉ họ mới có quyền rút yêu cầu của mình và họ cũng không có quyền rút yêu cầu của chủ thể khác.
b. Thời điểm rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự
Trong BLTTHS 1988, tại khoản 2 Điều 88 cũng quy định về thời điểm người bị hại được quyền rút yêu cầu của mình, đó là "trước ngày mở phiên toà". Vậy phiên toà ở đây là phiên toà là phiên toà sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hay tái thẩm? Chính quy định mang tính chất chung chung như vậy đã dẫn đến những khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng khi người bị hại rút yêu cầu khởi tố vụ án, bởi người bị hại có thể rút yêu cầu ở nhiều giai đoạn khác nhau của quá trình tố tụng. Khắc phục tình trạng trên, khoản 2 Điều 105 BLTTHS 2003 đã quy định rất rõ thời điểm người có quyền yêu cầu khởi tố được rút yêu cầu của mình, đó là "trước ngày mở phiên toà sơ thẩm". Như vậy, người đã yêu cầu khởi tố có thể rút yêu cầu vào thời điểm ngay sau khi yêu cầu, trong giai đoạn điều tra, truy tố hoặc chuẩn bị xét xử sở thẩm. Thời điểm cuối cùng người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu là trước ngày mở phiên toà sơ thẩm. Điều này đồng nghĩa với việc người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại không có quyền rút yêu cầu của mình tại phiên toà sơ thẩm và các giai đoạn sau của quá trình tố tụng. Quy định này có phần chặt chẽ và hợp lý bởi "phiên toà sơ thẩm xét xử trên cơ sở có yêu cầu của người bị hại và bị Viện kiểm sát truy tố. Còn phúc thẩm là xét xử do có kháng cáo người người bị hại, bị cáo hoặc có kháng nghị của Viện kiểm sát; Giám đốc thẩm, tái phẩm là thủ tục xét lại vụ án khi có kháng nghị của Chánh án TAND hoặc Viện trưởng VKSND có thẩm quyền theo luật định".
2.2.2. Hậu quả pháp lý của việc rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự
Người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại có quyền yêu cầu khởi tố vụ án trong một số trường hợp. Yêu cầu của họ dẫn đến hậu quả pháp lý là vụ án sẽ được khởi tố và giải quyết theo thủ tục chung nếu yêu cầu đó là đúng pháp luật. Nhưng sau đó, do sự tác động tích cực từ phía gia đình, bạn bè… hoặc vì lý do cá nhân mà họ rút yêu cầu khởi tố trước ngày mở phiên toà xét xử sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ và trong trường hợp này theo quy định tại khoản 3 Điều 99 BLTTHS 2003 người bị hại phải nộp tiền án phí.
Vụ án được đình chỉ thì mọi hoạt động tố tụng sẽ chấm dứt. Việc vụ án được đình chỉ khi người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại rút yêu cầu vừa thể hiện sự tôn trọng của Nhà nước đối với ý chí của người bị hại, vừa thể hiện sự tha thứ của người bị hại đối với người phạm tội.
Trước đây, theo quy định tại khoản 2 Điều 88 BLTTHS 1988 thì có thể hiểu chỉ Viện kiểm sát hoặc Toà án mới có quyền ra quyết định đình chỉ vụ án khi người bị hại rút yêu cầu vì chỉ có hai cơ quan này được quyền tiếp tục tiến hành tố tụng khi người bị hại rút yêu cầu nhưng vụ án lại thuộc "trường hợp cần thiết". Còn khi áp dụng vào thực tiễn, giữa các địa phương đã không có sự thống nhất với nhau. Có địa phương thì khi người bị hại rút yêu cầu, cơ quan duy nhất có quyền ra quyết định đình chỉ vụ án là Viện kiểm sát; ở địa phương khác thì cơ quan đó là Toà án; nhưng cũng có địa phương "các cơ quan tiến hành tố tụng thống nhất rằng quyền đó là của cả 3 cơ quan theo nguyên tắc hồ sơ vụ án đang do cơ quan nào thụ lý thì cơ quan đó sẽ ra quyết định đình chỉ".
Bên cạnh đó, BLTTHS 1988 cũng không quy định việc người bị hại rút yêu cầu khởi tố vụ án là một căn cứ để đình chỉ nên đã làm cho các cơ quan tiến hành tố tụng lúng túng, đùn đẩy nhau trong việc ra quyết định đình chỉ vụ án vì không có căn cứ pháp luật. Có ý kiến cho rằng "đình chỉ vụ án theo Điều 88 BLTTHS chỉ là quy định riêng biệt, do đó, chỉ cần căn cứ vào Điều 88 để đình chỉ vụ án". Ý kiến này chưa thực sự hợp lý vì Điều 88 BLTTHS 1988 quy định về khởi tố theo yêu cầu của người bị hại và điều kiện để được đình chỉ vụ án chứ không phải quy định về đình chỉ vụ án. Theo đó, điều kiện để đình chỉ vụ án là người bị hại rút yêu cầu của mình. Như vậy, "điều kiện này chỉ mang tính chất quy định về nội dung, khi đã đáp ứng điều kiện này thì vấn đề đình chỉ vụ án phải dẫn chiếu đến một điều luật cụ thể quy định về những căn cứ để đình chỉ vụ án tương ứng với thẩm quyền cơ quan nào được đình chỉ vụ án". Tuy nhiên, khi xem xét đến các Điều 139 (đình chỉ điều tra trong giai đoạn điều tra), điều 143b (đình chỉ vụ án trong giai đoạn truy tố), Điều 155 BLTTHS 1988 (đình chỉ vụ án trong giai đoạn xét xử) lại không thấy quy định rõ cơ quan nào có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ vụ án khi người bị hại rút yêu cầu, nhưng các điều luật trên cũng không "cấm" cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định đình chỉ đối với các trường hợp này.
Theo quy định của BLTTHS 2003, chúng ta có thể căn cứ vào thời điểm người đã yêu cầu rút yêu cầu, cơ quan tiến hành tố tụng sẽ ra văn bản tố tụng cần thiết và phù hợp với thẩm quyền của mình. Nếu người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại rút yêu cầu ngay sau khi yêu cầu thì Thủ trưởng Cơ quan điều tra phải ra văn bản huỷ quyết định khởi tố vụ án. Trong giai đoạn điều tra, khi cơ quan có thẩm quyền đã ra quyết định khởi tố vụ án và đang tiến hành hoạt động điều tra để làm rõ hành vi phạm tội và người thực hiện hành vi phạm tội thì người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố. Trong trường hợp này, theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 164 BLTTHS 2003, Cơ quan điều tra phải ra quyết định đình chỉ điều tra. Còn trong trường hợp người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trong giai đoạn truy tố và chuẩn bị xét xử thì theo quy định của BLTTHS 2003, khi “có một trong những căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 105… của Bộ luật này” thì Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án (khoản 1 Điều 169), Thẩm phán ra quyết định đình chỉ vụ án (Điều 180). Như vậy, bên cạnh việc kế thừa các căn cứ đình chỉ vụ án được quy định trong BLTTHS 1988, BLTTHS 2003 còn quy định thêm một căn cứ đình chỉ vụ án, đó là người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu. Sự bổ sung này vừa chỉ ra căn cứ để đình chỉ vụ án, vừa ghi nhận thẩm quyền ra quyết định đình chỉ vụ án của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố và Thẩm phán trong giai đoạn xét xử vào trước ngày mở phiên toà sơ thẩm.
Qua đây có thể thấy, các quy định của BLTTHS 2003 đã khắc phục được sự lúng túng, đùn đẩy lẫn nhau giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc ra quyết định đình chỉ khi người đã yêu cầu rút yêu cầu, cũng như tránh được tình trạng chồng chéo về thẩm quyền đã xảy ra trước đây.
Như chúng ta đã biết, khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại lấy lợi ích của người bị hại làm trung tâm nên trong trường hợp việc rút yêu cầu khởi tố của người bị hại không đảm bảo lợi ích cho họ thì cơ quan tiến hành tố tụng thì vẫn có thể tiến hành các hoạt động tố tụng để đảm bảo quyền lợi cho họ.
Theo khoản 2 Điều 88 BLTTHS 1988, căn cứ để cơ quan tiến hành tố tụng tiếp tục tiến hành tố tụng khi người bị hại rút yêu cầu là vụ án phải thuộc "trường hợp cần thiết". Vậy "trường hợp cần thiết" là trường hợp nào?
Đa số các quan điểm đưa ra đều cho rằng những trường hợp cần thiết bao gồm: "người bị hại rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức hoặc bị mua chuộc, lừa phỉnh" hoặc " người bị hại là người lệ thuộc vào bị can (bị cáo)"; hoặc "vụ án đã gây phức tạp đến tình hình chính trị của địa phương" ... Nhưng đây chỉ là quan điểm của cá nhân; còn BLTTHS 1988 không quy định, thậm chí cho đến trước khi BLTTHS 2003 có hiệu lực vẫn không có văn bản nào hướng dẫn "thế nào là trường hợp cần thiết". Chính vì vậy, đã dẫn đến sự nhận thức và áp dụng điều luật một cách tuỳ tiện giữa các cơ quan có thẩm quyền. Có trường hợp, khi người bị hại rút yêu cầu khởi tố thì Viện kiểm sát cho vụ án thuộc trường hợp cần thiết, nhưng Toà án lại không cho là như vậy và ngược lại… Để khắc phục tình trạng trên, BLTTHS 2003 chỉ quy định một căn cứ duy nhất đó là khi xác định người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trái ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án. Với quy định này có thể hiểu khi cơ quan tiến hành tố tụng xác định được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại rút yêu cầu trái với ý muốn chủ quan của họ thì các cơ quan này vẫn tiếp tục tiến hành các hoạt động của mình. Quy định tại khoản 2 Điều 105 BLTTHS 2003 tạo ra sự áp dụng pháp luật thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, đồng thời đề cao tính nghiêm minh của pháp luật. Yêu cầu khởi tố lại vụ án hình sự là một quy định mới trong BLTTHS 2003 và đó cũng là hậu quả pháp lý của việc người đã yêu cầu rút yêu cầu trái ý muốn. Trước đây, BLTTHS 1988 đã không quy định quyền được yêu cầu khởi tố lại vụ án hình sự cho người bị hại, nhưng cũng không có quy định nào không cho người bị hại thực hiện quyền này. Người bị hại hoàn toàn chủ động trong việc đưa ra yêu cầu khởi tố vụ án cũng như rút yêu cầu của mình, thậm chí họ yêu cầu khởi tố lại vụ án hình sự mà trước đó họ đã rút yêu cầu. Còn về phía các cơ quan tiến hành tố tụng, họ hoàn toàn bị động trước những yêu cầu của người bị hại họ phải tiếp tục tiến hành các hoạt động tố tụng bởi không có căn cứ pháp luật để từ chối giải quyết. Hay trong trường hợp người bị hại cứ yêu cầu khởi tố vụ án rồi lại rút yêu cầu, sau đó lại yêu cầu khởi tố lại thì vụ việc đến lúc nào mới được giải quyết? Chẳng nhẽ cơ quan tiến hành tố tụng cứ chạy theo yêu cầu của người bị hại. Điều này vừa gây khó khăn cho quá trình tố tụng, vừa gây lãng phí về thời gian và vật chất của Nhà nước.
Trước những đòi hỏi mà thực tiễn đặt ra, khoản 2 Điều 105 BLTTHS quy định "người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại". Quy định này đã phần nào tạo ra sự chủ động cho các cơ quan tiến hành tố tụng khi giải quyết yêu cầu của người bị hại; đồng thời, tránh việc người bị hại lợi dụng kẽ hở của pháp luật để kéo dài quá trình tố tụng. Tuy nhiên, pháp luật cũng cho phép người bị hại có quyền yêu cầu lại đó là trường hợp họ rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức. Như vậy, việc người bị hại rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức vừa là căn cứ để Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án, vừa là điều kiện để người bị hại được yêu cầu khởi tố lại vụ án hình sự. Quy định này tạo ra sự thống nhất, vừa đảm bảo sự chủ động của các cơ quan tiến hành tố tụng, vừa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, vì khi Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án không xác định được người đã yêu cầu rút yêu cầu là do ép buộc, cưỡng bức thì họ phải ra quyết định đình chỉ, và như vậy để bảo vệ quyền lợi của mình, người bị hại phải chứng minh được việc rút yêu cầu của họ là do trái ý muốn. Có như vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng mới đủ cơ sở pháp lý để tiến hành các hoạt động tố tụng cần thiết nhằm bảo vệ quyền lợi cho người bị hại.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992.
2. BLDS nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2005.
3. BLHS nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1999.
4. BLTTHS nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1988
5. BLTTHS nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2003.
6. BLHS Nhật Bản
7. BLTTHS Liên bang Nga
8. BLTTH Trung Quốc 1994.
9. Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10/2004 của Hội đồng thẩm phán TANDTC.
10. Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 của Hội đồng thẩm phán TANDTC.
11. Bộ tư pháp - Viện khoa học pháp lý, Từ điển Luật học, NXB Từ điển Bách khoa và NXB tư pháp, Hà Nội 2006.
12. Bộ Tư pháp - Viện khoa học nghiên cứu pháp lý, Bình luận khoa học Bộ Luật hình sự Việt Nam 1999, tập 2, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2004.
13. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, NXB Tư pháp, Hà Nội 2006.
14. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội 2006
15. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội 2006.
16. Thư viện trường Đại học Luật Hà Nội, Bàn về quyền công tố, Hà Nội 2003.
17. Báo Pháp luật, số ra ngày 18/3/2006.
18. Nguyễn Hữu Cầu, Khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại đối với tội cố ý gây thương tích - Một số bất cập nảy sinh từ thực tiễn, Tạp chí TAND, số 6/2002.
19. Hồ Thị Hạnh, Vấn đề đình chỉ vụ án khi người bị hại rút yêu cầu khởi tố. Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 2/2003.
20. Lê Hiền, Bàn về khoản 1 điều 88 BLTTHS - khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, Tạp chí TAND số 4/2003.
21. Vũ Gia Lâm, Vấn đề đình chỉ điều tra và đình chỉ vụ án trong tố tụng hình sự, Tạp chí Luật học, năm 2003.
22. Hoàng Thị Liên, Người bị hại đã yêu cầu khởi tố trình bày lời buộc tội tại phiên toà theo trình tự, thủ tục nào? Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 8/2006.
23. Nguyễn Hải Long, Trao đổi về điều 88 BLTTHS, Tạp chí TAND.
24. Đinh Văn Quế, Pháp luật hình sự thực tiễn xét xử và án lệ, NXB Lao động xã hội năm 2003.
25. Lê Sỹ Quế, Những khó khăn khi áp dụng điều 88 BLTTHS, Tạp chí TAND.
26. Nguyễn Sơn, Thẩm quyền và căn cứ đình chỉ vụ án theo điều 88 BLTTHS, Tạp chí TAND.
27. Trọng Tài, Vì sao vụ án phải xét xử nhiều lần? Tạp chí TAND số 20/2005.
28. Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 4/2003.
29. Trần Quang Tiệp, Một số vấn đề lý luận về khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại, Tạp chí TAND, số 1/2006.
30. Phạm Thanh Trung, Người đại diện hoàn toàn có quyền rút đơn khởi tố?
31. Trần Quốc Tú, Việc áp dụng điều 88 BLTTHS đối với vụ án có người bị cáo, Tạp chí TAND, số 6/1990.
No comments:
Post a Comment