CHƯƠNG X
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT, ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ GIẢI THÍCH PHÁP LUẬT
I. THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
1. Khái niệm thực hiện pháp luật
Trong cơ chế điều chỉnh pháp luật, thực hiện pháp luật là giai đoạn thứ hai sau khi đã tiến hanh giai đoạn xây dựng pháp luật và là giai đoạn quan trọng, không thể thiếu. Bởi pháp luật chỉ có thể phát huy được vai trò và những giá trị của mình trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, duy trì trật tự và tạo điều kiện cho xã hội phát triển thì nó được tôn trọng và thực hiện đầy đủ, nghiêm minh trong cuộc sống. Do vậy, vấn đề quan trọng không chỉ là ban hành nhiều luật mà là thực hiện chúng nghiêm chỉnh trong thực tế.
Thực hiện pháp luật là quá trình các tổ chức, cá nhân và các chủ thể pháp luật khác khi gặp phải tình huống thực tế mà quy phạm pháp luật đã dự liệu, trên cơ sở nhận thức của mình chuyển hóa một cách sáng tạo quy tắc xử sự chung mà nhà nước đã quy định vào tình huống cụ thể đó thông qua hành vi thực tế hợp pháp của mình. Nói cách khác, những đòi hỏi, cấm đoán hay cho phép của pháp luật đối với các tổ chức, cá nhân đã được biểu hiện thành các hành vi thực tế thực hiện quyền, nghĩa vụ của các chủ thể pháp luật. Dưới góc độ pháp lí, thực hiện pháp luật là hành vi pháp luật (hành động hoặc không hành động) hợp pháp, nghĩa là nó được tiến hành phù hợp với những yêu cầu, đòi hỏi trong phạm vi các quy định của pháp luật.
Thực hiện pháp luật là nghĩa vụ của tất cả các tổ chức và cá nhân; mọi tổ chức và cá nhân trong xã hội đều phải nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật. Đối với nhà nước, thực hiện pháp luật là một trong những hình thức để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, quản lí và bảo vệ xã hội; còn đối với các tổ chức phi nhà nước hoặc cá nhân, thực hiện pháp luật là hoạt động sử dụng các quyền, tự do pháp lí và thi hành các nghĩa vụ pháp lí mà pháp luật quy định cho họ.
Thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích nhằm hiện thực hóa các quy định pháp luật. Do vây, đây là quá trình hoạt động có lí trí và có ý chí của các chủ thể pháp luật làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống nhằm đạt được những mục đích nhất định vì lợi ích của mỗi thành viên, cũng như của cả cộng đồng xã hội. Thực hiện pháp luật còn cho phép làm rõ những hạn chế, bất cập của hệ thống pháp luật thực định để từ đó có thể đưa ra những giải pháp hữu hiệu cho việc sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành và cơ chế đưa pháp luật vào cuộc sống. Pháp luật được thực hiện nghiêm minh sẽ tạo ra trật tự cần thiết để các quan hệ xã hội tồn tại và phát triển theo những định hướng mong muốn có lợi cho xã hội, cho nhà nước cũng như cho các cá nhân.
Thực hiện pháp luật được tiến hành thông qua nhiều hình thức và với những quy định khác nhau. Pháp luật gồm nhiều loại quy phạm pháp luật khác nhau, với mỗi loại quy phạm pháp luật có cách thức và quy định thực hiện khác nhau. Việc thực hiện pháp luật có thể phụ thuộc ý chí của mỗi chủ thể nhưng cũng có thể chỉ phụ thuộc ý chí của nhà nước. Hành vi thực hiện pháp luật có thể được chủ thể tiến hành trên cơ sở nhận thức sâu sắc về sự cần thiết phải làm như vậy và do vậy chủ thể đã tự giác thực hiện. Cũng có thể hành vi thực hiện pháp luật được chủ thể tiến hành do ảnh hưởng của những người khác, do bị áp dụng những biện pháp cưỡng chế nhà nước hoặc do sợ bị áp dụng những biện pháp đó.
Một số quy phạm pháp luật có thể được thực hiện thông qua những quy định giản đơn song cũng có nhiều quy phạm pháp luật để thực hiện đòi hỏi phải thông qua những quy định phức tạp với sự tham gia của nhiều tổ chức, cá nhân khác nhau theo những trình tự, thủ tục chặt chẽ mà pháp luật quy định.
Tóm lại, thực hiện pháp luật là hành vi thực tế hợp pháp, có mục đích của các chủ thể pháp luật nhằm hiện thực hóa các quy phạm pháp luật, làm cho chúng đi vào cuộc sống.
2. Các hình thức thực hiện pháp luật
Các quy phạm pháp luật rất phong phú, đa dạng cho nên hình thức thực hiện chúng cũng rất phong phú và đa dạng. Căn cứ vào tính chất của hoạt động thực hiện các quy phạm pháp luật, khoa học pháp lí xác định những hình thức thực hiện pháp luật sau:
- Tuân thủ pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế, không tiến hành những hoạt động mà pháp luật cấm. Các quy phạm pháp luật cấm được thực hiện ở hình thức này.
- Thi hành (chấp hành) pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lí của mình bằng hành động tích cực. Các quy phạm pháp luật bắt buộc (các quy phạm quy định nghĩa vụ chủ thể phải tiến hành những hành vi tích cực nhất định) được thực hiện theo hình thức này.
- Sử dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện quyền, tự do pháp lí của mình (những hành vi mà pháp luật cho phép chủ thể tiến hành). Các quy phạm pháp luật quy định về quyền và tự do pháp lí của các tổ chức, cá nhân được thực hiện ở hình thức này. Đương nhiên, vì quyền và tự do pháp lí là những hành vi mà pháp luật cho phép chủ thể thực hiện nên chủ thể pháp luật có thể thực hiện hoặc không thực hiện các quyền, tự do đó tùy theo ý chí của mình, chứ không bắt buộc phải thực hiện.
- Áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật hoặc tự mình căn cứ vào các quy định của pháp luật để tạo ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật cụ thể. Ở hình thức này các chủ thể pháp luật thực hiện các quy định của pháp luật luôn có sự can thiệp của cơ quan nhà nước hay nhà chức trách có thẩm quyền. Trong một số trường hợp đặc biệt, theo quy định của pháp luật, một số tổ chức xã hội cũng có thể được thực hiện hoạt động này.
Giữa các hình thức thực hiện pháp luật luôn có sự gắn bó chặt chẽ với nhau, không biệt lập với nhau. Các chủ thể thông thường phải cùng đồng thời thực hiện các quy định pháp luật dưới nhiều hình thức khác nhau, bởi không thực hiện quy định pháp luật này sẽ không thể thực hiện được các quy định pháp luật khác. Chẳng hạn, để thực hiện được các quy định của luật nội dung thì không thể không thực hiện các quy định của luật hình thức. Nếu như tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật là những hình thức mà mọi chủ thể pháp luật đều có thể tiến hành được thì áp dụng pháp luật chỉ dành cho các chủ thể có thẩm quyền. Áp dụng pháp luật được xem là hoạt động thực hiện pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền, nó vừa là hình thức thực hiện pháp luật, vừa là giai đoạn mà các chủ thể có thẩm quyền tiến hành tổ chức cho các chủ thể pháp luật khác thực hiện các quy định của pháp luật.
II. ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
1. Những trường hợp cần áp dụng pháp luật
Pháp luật tác động vào các quan hệ xã hội, vào cuộc sống đạt hiệu quả cao nhất khi tất cả những quy định của nó đều được thực hiện chính xác, triệt để trong thực tế. Nhưng nếu chỉ thông qua các hình thức như tuân thủ, thi hành và sử dụng pháp luật thì sẽ có nhiều quy phạm pháp luật không được thực hiện. Lí do có thể là các chủ thể không muốn thực hiện hoặc không đủ khả năng tự thực hiện nếu thiếu sự tham gia của các chủ thể có thẩm quyền, do vậy, cần phải tiến hành áp dụng pháp luật trong các trường hợp sau:
- Truy cứu trách nhiệm pháp lí đối với người và chủ thể vi phạm pháp luật. Khi trong thực tế xảy ra hành vi vi phạm pháp luật thì nhà nước phải tiến hành áp dụng pháp luật để truy cứu trách nhiệm pháp lí đối với chủ thể đã thực hiện hành vi vi phạm pháp đó. Chẳng han, công dân A đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật (không chấp hành tín hiệu khi tham gia giao thông), vì vậy, cần có hoạt động của lực lượng cảnh sát giao thông truy cứu trách nhiệm hành chính (ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, trong đó ấn định biện pháp và mức xử phạt đối với A và buộc A phải chấp hành quyết định xử phạt đó).
- Áp dụng biện pháp tác động nhà nước nhưng không liên quan đến trách nhiệm pháp lí. Khi cần áp dụng các biện pháp tác động nhà nước nhưng không liên quan đến trách nhiệm pháp lí thì nhà nước cũng tiến hành áp dụng pháp luật. Chẳng hạn, áp dụng biện pháp cưỡng chế để cách li và chữa trị đối với người mắc bệnh truyền nhiễm để tránh lây lan trong cộng đồng.
- Khi quyền và nghĩa vụ pháp lí của các tổ chức, cá nhân không mặc nhiên phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt nếu thiếu sự can thiệp của nhà nước. Trường hợp này pháp luật đã quy định cho tổ chức, cá nhân có quyền, nghĩa vụ pháp lí nhất định nhưng các quyền và nghĩa vụ đó không mặc nhiên phát sinh, thay đổi hay chấm dứt nếu thiếu sự can thiệp của cơ quan hay nhà chức trách có thẩm quyền. Chẳng hạn, quyền và nghĩa vụ lao động của công dân Y đối với cơ quan X chỉ phát sinh khi có quyết định của thủ trưởng cơ quan X tuyển dụng công dân Y đó vào làm việc tại cơ quan X.
- Khi xảy ra tranh chấp về quyền và nghĩa vụ pháp lí giữa các bên tham gia quan hệ pháp luật mà các bên đó không tự giải quyết được. Trong trường hợp này, quan hệ pháp luật đã xuất hiện nhưng do có sự tranh chấp giữa các bên về các quyền và nghĩa vụ pháp lí cho nên các bên không thể thực hiện được các quyền, nghĩa vụ pháp lí của mình. Chẳng hạn, tranh chấp giữa các bên tham gia hợp đồng kinh tế hoặc hợp đồng dân sự cụ thể nào đó.
- Nhà nước thấy cần phải xác nhận sự tồn tại hay không tồn tại của một số sự việc, sự kiện trong thực tế nào đó. Chẳng hạn, nhà nước chứng thực hợp đồng mua bán nhà giữa công dân A và công dân B, xác nhận tính hợp pháp đối với di chúc của người nào đó, chứng nhận sự kiện sinh hay chứng nhận sự kiện chết của người nào đó.
2. Những đặc điểm của áp dụng pháp luật
a. Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước
- Hoạt động áp dụng pháp luật do những chủ thể có thẩm quyền tiến hành trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của họ. Phù hợp với thẩm quyền của mình, mỗi chủ thể chỉ được phép tiến hành một số hoạt động áp dụng pháp luật nhất định. Trong quá trình áp dụng pháp luật, mọi khía cạnh, mọi tình tiết của vụ việc đều phải được xem xét thận trọng và dựa trên cơ sở các quy định, yêu cầu của quy phạm pháp luật đã được xác định để đưa ra các quyết định cụ thể. Có thể nói pháp luật là cơ sở để các cơ quan nhà nước, các nhà chức trách có thẩm quyền áp dụng pháp luật nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Trong một số trường hợp, khi nhà nước ủy quyền, một số tổ chức xã hội cũng có thể tiến hành áp dụng pháp luật.
- Áp dụng pháp luật được xem là sự tiếp tục thể hiện ý chí nhà nước trong quá trình điều chỉnh pháp luật, vì vậy, ở chừng mực nhất định, áp dụng pháp luật phục vụ cho những mục đích chính trị. Như vậy, việc áp dụng pháp luật không những phải phù hợp với pháp luật thực định mà còn phải phù hợp với chủ trương, chính sách của nhà nước trong mỗi giai đoạn nhất định.
- Đối với một số trường hợp, hoạt động áp dụng pháp luật có thể được tiến hành theo ý chí đơn phương của các chủ thể có thẩm quyền, không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể bị áp dụng pháp luật. Pháp luật cũng quy định đối với một số trường hợp việc áp dụng pháp luật chỉ được tiến hành khi có yêu cầu của tổ chức hay cá nhân nhất định theo quy định của pháp luật.
- Áp dụng pháp luật có tính chất bắt buộc đối với chủ thể bị áp dụng với các chủ thể có liên quan. Điều này thể hiện ở chỗ dù việc áp dụng pháp luật được tiến hành theo ý chí nhà nước hay ý chí của chủ thể bị áp dụng thì quyết định áp dụng pháp luật cũng do các chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật ban hành (trong một số trường hợp có tính đến ý chí của các chủ thể bị áp dụng); quyết định áp dụng pháp luật mang tính bắt buộc phải thực hiện đối với những chủ thể có liên quan, trong những trường hợp cần thiết, nhà nước có thể cưỡng chế thi hành quyết định áp dụng pháp luật đã có hiệu lực.
b. Áp dụng pháp luật là hoạt động phải tuân theo những hình thức và thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định
Do tính chất quan trọng và phức tạp của áp dụng pháp luật, chủ thể bị áp dụng pháp luật có thể được hưởng những lợi ích rất lớn nhưng cũng có thể phải chịu những hậu quả bất lợi rất nghiêm trọng nên trong pháp luật luôn có sự xác định rõ ràng cơ sở, điều kiện, trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quá trình áp dụng pháp luật. Chẳng hạn, để giải quyết vụ án phải tiến hành theo những quy định cụ thể của pháp luật tố tụng hoặc việc xử phạt hành chính được điều chỉnh bởi những quy phạm liên quan đến thủ tục xử phạt hành chính. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các bên có liên quan trong quá trình áp dụng pháp luật phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định có tính thủ tục đó để tránh những sự tùy tiện có thể dẫn đến việc áp dụng pháp luật không đúng, không chính xác.
c. Áp dụng pháp luật là hoạt động điều chỉnh mang tính cá biệt, cụ thể đối với những quan hệ xã hội nhất định
Mục đích của áp dụng pháp luật là cá biệt hóa các quy phạm pháp luật trong những điều kiện cụ thể. Quy tắc xử sự chung trong pháp luật thông qua hoạt động áp dụng pháp luật sẽ được cá biệt hóa một cách chính xác thành quy tắc xử sự cụ thể cho mỗi trường hợp cụ thể. Đương nhiên, quy tắc xử sự cụ thể có được do việc áp dụng pháp luật không được trái với quy tắc xử sự chung đã nêu trong pháp luật. Như vậy, áp dụng pháp luật là hoạt động điều chỉnh có tính cá biệt, cụ thể đối với quan hệ xã hội xác định, những quan hệ xã hội cần đến sự điều chỉnh cá biệt, bổ sung trên cơ sở những quy tắc chung trong xã hội.
d. Áp dụng pháp luật là hoạt động đòi hỏi tính sáng tạo (sự sáng tạo trong phạm vi quy định của pháp luật)
Khi áp dụng pháp luật, các chủ thể có thẩm quyền phải nghiên cứu thật kĩ vụ việc, làm sáng tỏ cấu thành pháp lí của nó để từ đó lựa chọn quy phạm, ra quyết định áp dụng pháp luật và tổ chức thi hành. Trong trường hợp pháp luật chưa quy định hoặc quy định chưa rõ thì phải vận dụng sáng tạo việc áp dụng tập quán hoặc áp dụng pháp luật tương tự để giải quyết vụ việc. Để thực hiện được điều đó đòi hỏi các nhà chức trách phải có ý thức pháp luật cao, có trí thức tổng hợp, có kinh nghiệm phong phú, có đạo đức và có tay nghề cao.
Như vậy, áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, được thực hiện bởi những cơ quan nhà nước, nhà chức trách có thẩm quyền hoặc các tổ chức xã hội được nhà nước ủy quyền , thông qua những trình tự thủ tục chặt chẽ mà pháp luật quy định nhằm cá biệt hóa những quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể đối với cá nhân, tổ chức cụ thể.
3. Các yêu cầu có tính nguyên tắc của áp dụng pháp luật
Các chủ thể có thẩm quyền khi tiến hành áp dụng pháp luật phải luôn tuân theo những nguyên tắc, quy định về trình tự, thủ tục và yêu cầu của pháp luật trong tất cả các công đoạn, các mắt xích của quá trình áp dụng pháp luật, đấu tranh không khoan nhượng với những hành vi áp dụng pháp luật không đúng, vi phạm pháp luật. Do vậy, áp dụng pháp luật cần đảm bảo những nguyên tắc cơ bản sau:
+ Có căn cứ, lí do xác đáng: Chỉ áp dụng pháp luật khi trong thực tế tồn tại những tình huống mà quy phạm pháp luật đã dự liệu trước để áp dụng cho trường hợp đó. Không được tạo ra những tình huống giả để hợp thức hóa việc áp dụng quy phạm pháp luật nào đó. Việc lựa chọn quy phạm pháp luật để áp dụng là vấn đề hết sức quan trọng, các chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật khẳng định được là quy phạm pháp luật đã chọn để áp dụng là hoàn toàn phù hợp cho trường hợp cụ thể đó mà không thể là quy phạm pháp luật khác.
+ Đúng, chính xác, công bằng: Đối với mỗi trường hợp cụ thể các cơ quan áp dụng pháp luật cần phải luôn xác định được sự thật khách quan của mỗi sự việc, đưa ra những quyết định áp dụng pháp luật thực sự chính xác, công bằng.
+ Đảm bảo tính pháp chế trong áp dụng pháp luật: Điều này đòi hỏi việc áp dụng pháp luật phải đúng thẩm quyền, phải tuân theo đầy đủ những quy định về trình tự, thủ tục được đề ra cho mỗi loại vụ việc. Bởi việc xác định sự thật khách quan chỉ được xem là khách quan và đáng tin cậy khi các hoạt động đó được tiến hành theo những quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục. Nguyên tắc pháp chế trong áp dụng pháp luật còn đòi hỏi việc giải thích, lí giải các quy định của pháp luật phải thật đúng và chính xác.
Việc tuân theo nguyên tắc pháp chế trong áp dụng pháp luật không loại trừ và cần phải tính đến cả những yếu tố hợp lí khác như chính trị, đạo đức... để đưa ra quyết định cuối cùng cho phù hợp, mặc dù những yếu tố đó không có ý nghĩa pháp lí đối với trường hợp cụ thể đó. Trong hoạt động áp dụng pháp luật ngoài việc tuân theo các quy định pháp luật, dựa trên cơ sở những sự kiện thực tiễn khách quan thì yếu tố chủ quan là niềm tin nội tâm của những người trực tiếp áp dụng pháp luật cũng có ý nghĩa rất lớn. Các chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật không được lợi dụng điều đó vì những lợi ích riêng:
+ Phù hợp với mục đích đề ra: Mỗi trường hợp áp dụng pháp luật đều phải có mục đích rõ ràng. Xuất phát từ ý thức pháp luật của mình, những người trực tiếp áp dụng pháp luật tiến hành cụ thể hóa, cá biệt hóa mục đích của pháp luật trong trường hợp cụ thể cần áp dụng, thu thập, chuẩn bị những điều kiện để áp dụng và đưa ra những quyết định giải quyết từng bước hoặc cuối cùng đối với sự việc một cách tối ưu nhất. Thực tiễn cho thấy không ít trường hợp do mục đích, động cơ cá nhân hoặc những nguyên nhân khác mà người có thẩm quyền áp dụng pháp luật đã “cụ thể hóa” mục đích áp dụng pháp luật trái hẳn hoặc không đúng với mục đích xã hội và nhà làm luật đề ra khi ban hành quy phạm pháp luật. Do vậy, cần có những hoạt động kiểm tra, giám sát thật chặt chẽ quá trình áp dụng pháp luật đồng thời phải có những biện pháp xử lí nghiêm minh những người có hành vi cố ý áp dụng pháp luật không đúng; không phù hợp với mục đích xã hội đã đề ra cho trường hợp đó.
+ Bảo đảm tính hiệu quả trong áp dụng pháp luật: Việc áp dụng pháp luật đòi hỏi phải đạt được mục đích đề ra đối với mỗi trường hợp một cách nhanh chóng, chính xác với những chi phí thấp cho nhà nước cũng như cho xã hội, nói cách khác, phải đảm bảo tính hiệu quả trong quá trình tiến hành các hoạt động áp dụng pháp luật.
4. Các giai đoạn của quá trình áp dụng pháp luật
Do tồn tại nhiều quy phạm pháp luật khác nhau thuộc các lĩnh vực, các ngành luật khác nhau nên việc áp dụng chúng cũng có những trình tự, thủ tục khác nhau. Có những quy phạm được áp dụng với quy trình đơn giản nhưng cũng có những quy phạm việc áp dụng chúng là cả quá trình phức tạp với sự tham gia, phối hợp của nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thông thường, để có thể áp dụng pháp luật một cách chính xác và đạt hiệu quả cao cần tiến hành theo những giai đoạn sau:
a. Phân tích đánh giá đúng, chính xác các tình tiết, hoàn cảnh, điều kiện của sự việc thực tế đã xảy ra
Khi có sự đề xuất của các tổ chức, cá nhân hay tự mình nhận thấy sự việc nào đó cần phải áp dụng pháp luật thì các chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật phải tiến hành các hoạt động cần thiết như nghiên cứu, xác định xem sự kiện đó có ý nghĩa pháp lí hay không (pháp luật không thể được áp dụng đối với những vụ việc không có ý nghĩa pháp lí), có cần áp dụng pháp luật đối với trường hợp đó hay không. Nếu thấy cần áp dụng pháp luật thì tiến hành xem xét phân tích, đánh giá đúng, chính xác tất cả các tình tiết của sự việc, làm sáng tỏ những hoàn cảnh, điều kiện và những sự kiện có liên quan. Trong những trường hợp cần thiết, phải sử dụng những biện pháp chuyên môn đặc biệt như giám định, làm thực nghiệm... để xác định đúng tính chất của sự việc. Khi tiến hành xem xét cần đảm bảo sự khách quan, chính xác, công bằng đối với tất cả các tổ chức và cá nhân có liên quan đến vụ việc. Như vậy, giai đoạn đầu của quá trình áp dụng pháp luật cần phải:
- Xác định đặc trưng pháp lí của sự việc;
- Xác định chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật đối với trường hợp đó;
- Nghiên cứu một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ những tình tiết, hoàn cảnh, điều kiện của sự việc;
- Tuân thủ tất cả các quy định mang tính thủ tục gắn với mỗi loại vụ việc.
Các chủ thể áp dụng pháp luật phải quan tâm không chỉ kết quả việc xem xét đánh giá sự việc đúng sự thật mà cả con đường dẫn đến kết quả đó cũng phải mang tính chân lí, đúng pháp luật.
Kết thúc giai đoạn một phải giải quyết vấn đề là có cần tiếp tục áp dụng pháp luật đối với trường hợp cụ thể đó nữa hay không? Nếu thấy không cần thì ra quyết định chấm dứt việc áp dụng pháp luật, nếu thấy cần tiếp tục áp dụng và đủ căn cứ để áp dụng pháp luật thì chuyển sang giai đoạn hai.
b. Lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp và phân tích làm sáng rõ nội dung, ý nghĩa của quy phạm pháp luật đối với trường hợp cần áp dụng
Sau khi xác định xong đặc trưng pháp lí của vụ việc được xem xét, phải lựa chọn quy phạm pháp luật để giải quyết nó. Trước hết, phải xác định quy phạm thuộc ngành luật nào điều chỉnh vụ việc này, sau đó lựa chọn quy phạm pháp luật cụ thể thích ứng với vụ việc. Khi lựa chọn quy phạm pháp luật phải chú ý đến tính chính xác về nội dung của nó. Quy phạm được lựa chọn phải là quy phạm đang có hiệu lực áp dụng (các chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật cần nắm vững những quy định về hiệu lực pháp luật của quy phạm pháp luật, kể cả hiệu lực trở về trước nếu có và các nguyên tắc áp dụng quy phạm pháp luật đó theo quy định của pháp luật hiện hành). Chẳng hạn, nếu gặp trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì lựa chọn quy phạm áp dụng trong văn bản có hiệu lực pháp lí cao hơn hoặc trong văn bản được ban hành sau nếu các văn bản do cùng cơ quan ban hành. Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật mới không quy định trách nhiệm pháp lí hoặc quy định trách nhiệm pháp lí nhẹ hơn đối với hành vi xảy ra trước ngày văn bản có hiệu lực thì áp dụng quy phạm của văn bản mới...
Tiếp theo, phải làm sáng tỏ nội dung và ý nghĩa của quy phạm pháp luật được lựa chọn đồng thời tìm hiểu chủ trương, chính sách của nhà nước ở thời điểm hiện tại về vấn đề đó để áp dụng cho phù hợp. Điều này đòi hỏi các chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật phải có những trí thức pháp lí cần thiết, thấy rõ mối liên hệ giữa những quy phạm pháp luật và những hiện tượng xã hội, quan hệ giữa các quy phạm trong hệ thống pháp luật và những hiện tượng xã hội, quan hệ giữa nội dung tư tưởng và hình thức ngôn ngữ của bản thân mỗi quy phạm pháp luật.
Như vậy, giai đoạn hai của quá trình áp dụng pháp luật cần phải:
- Lựa chọn đúng quy phạm pháp luật được trù tính cho trường hợp cần áp dụng;
- Xác định quy phạm được lựa chọn là đang có hiệu lực để có thể áp dụng đối với trường hợp đó và không mâu thuẫn với các quy phạm pháp luật khác;
- Xác định tính chính xác của quy phạm pháp luật đã lựa chọn;
- Nhận thức đúng, chính xác nội dung, tư tưởng của quy phạm pháp luật và chủ trương, chính sách của nhà nước về vấn đề đó.
c. Ban hành quyết định áp dụng pháp luật
Đây là giai đoạn quan trọng nhất của quá trình áp dụng pháp luật, ở giai đoạn này, những quyền và nghĩa vụ pháp lí cụ thể của các chủ thể pháp luật hoặc những biện pháp trách nhiệm pháp lí đối với chủ thể vi phạm pháp luật được ấn định.
Sau khi xem xét, đối chiếu các tình tiết, hoàn cảnh, điều kiện của sự việc thấy phù hợp với những điều kiện trong quy phạm pháp luật đã lựa chọn thì chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật đối với trường hợp đó ban hành quyết định áp dụng pháp luật để giải quyết vụ việc. Đối với các vụ việc quan trọng quyết định áp dụng pháp luật nhất thiết phải được ban hành dưới hình thức văn bản. Quyết định áp dụng pháp luật là kết quả của quá trình áp dụng pháp luật, những tình tiết của vụ việc được đánh giá chính thức mang tính pháp lí, có cơ sở khoa học và thực tiễn. Mặt khác, bằng quyết định áp dụng pháp luật, những quyền và nghĩa vụ khác hoặc trách nhiệm chung chứa đựng trong các quy phạm pháp luật được cá biệt hóa, cụ thể hóa đối với các chủ thể nhất định.
Hoạt động và kết quả áp dụng pháp luật luôn được biểu hiện thông qua quyết định áp dụng pháp luật. Quyết định áp dụng pháp luật là văn kiện chính thức, công khai và có giá trị pháp lí trong việc giải quyết vụ việc. Quyết định áp dụng pháp luật có các đặc điểm sau:
- Do những cơ quann nhà nước, nhà chức trách có thẩm quyền hoặc tổ chức xã hội được ủy quyền áp dụng pháp luật ban hành và đảm bảo thực hiện;
- Có tính chất cá biệt, một lần đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể trong những trường hợp cụ thể;
- Phải được ban hành trên cơ sở các quy phạm pháp luật cụ thể và cần phải phù hợp với các quy phạm đó. Nếu việc ban hành không phù hợp với các quy định pháp luật thì quyết định áp dụng pháp luật sẽ bị đình chỉ thi hành hoặc hủy bỏ. Như vậy, quyết định áp dụng pháp luật phải hợp pháp và phù hợp với thực tế. Nếu nội dung quyết định không phù hợp với điều kiện thực tế thì nó sẽ khó được thi hành hoặc được thi hành hiệu quả không cao;
- Phải được thể hiện trong những hình thức pháp lí nhất định;
- Là yếu tố của cơ chế điều chỉnh pháp luật, quyết định áp dụng pháp luật, quyết định áp dụng pháp luật luôn là yếu tố mang tính chất bổ sung trong những sự kiện pháp lí phức tạp, thiếu nó, nhiều quy phạm pháp luật cụ thể không thể thực hiện được. Quyết định áp dụng pháp luật củng cố các yếu tố khác trong cơ cấu pháp lí thống nhất, cho chúng độ tin cậy và đưa đến sự xuất hiện quyền và nghĩa vụ pháp lí của chủ thể được nhà nước đảm bảo thực hiện. Chẳng hạn, để quan hệ pháp luật hôn nhân cụ thể giữa công dân A và công dân B theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam xuất hiện thì phải có đầy đủ các yếu tố của sự kiện pháp lí phức tạp như họ đã đủ độ tuổi kết hôn, có năng lực hành vi, có sự cam kết tự nguyện... và điều quan trọng nhất là có quyết định công nhận hôn nhân đó là hợp pháp của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Quyết định áp dụng pháp luật rất đa dạng và chúng có thể tham gia vào từ giai đoạn đầu cho đến giai đoạn cuối của quá trình áp dụng pháp luật và ở mỗi giai đoạn khác nhau chúng có vai trò, tác dụng khác nhau. Do vậy, có thể phân loại quyết định áp dụng pháp luật theo các tiêu chí cơ bản như: Theo ngành luật (lĩnh vực áp dụng pháp luật); theo chủ thể ban hành (cơ quan quản lí nhà nước, tòa án; do tổ chức hay cá nhân ban hành); theo tên gọi (quyết định, bản án, lệnh...) v.v..
Hình thức thể hiện của quyết định áp dụng pháp luật có thể bằng lời nói hoặc văn bản. Hiện nay, hình thức thể hiện chủ yếu của quyết định áp dụng pháp luật là văn bản áp dụng pháp luật.
Văn bản áp dụng pháp luật là văn bản pháp lí cá biệt, mang tính quyền lực do các chủ thể có thẩm quyền (cơ quan nhà nước, nhà chức trách hoặc tổ chức xã hội được nhà nước ủy quyền) ban hành trên cơ sở pháp luật, theo trình tự, thủ tục luật định nhằm điều chỉnh cá biệt đối với các tổ chức, cá nhân cụ thể trong trường hợp cụ thể.
Văn bản áp dụng pháp luật rất đa dạng: Có văn bản dùng để cá biệt hóa bộ phận quy định của pháp luật nhằm để xác định các quyền và nghĩa vụ pháp lí cho các chủ thể cụ thể; có văn bản dùng để cá biệt hóa bộ phận chế tài của quy phạm pháp luật nhằm xác định trách nhiệm pháp lí đối với chủ thể vi phạm pháp luật; có văn bản dùng để xác định biện pháp tác động nhà nước đối với một chủ thể nào đó...
Khi ra quyết định giải quyết vụ việc, các chủ thể có thẩm quyền không thể xuất phát từ động cơ cá nhân hoặc quan hệ riêng tư. Quyết định áp dụng pháp luật phải phù hợp với lợi ích và mục đích mà nhà nước đã đề ra trong các quy phạm pháp luật.
Quyết định áp dụng pháp luật cần phải được ban hành với các yêu cầu cơ bản sau:
- Hợp pháp, nghĩa là nó phải được ban hành đúng thẩm quyền, đúng tên gọi, đúng trình tự và thủ tục do pháp luật quy định. Nội dung của quyết định áp dụng pháp luật phải rõ ràng, chính xác, đầy đủ, chứa đựng tất cả những thông tin cần thiết như tên chủ thể ban hành, số và kí hiệu văn bản, địa điểm, thời gian ban hành, chữ kí, con dấu hay quốc hiệu, quốc huy, tên chủ thể bị áp dụng, nội dung sự việc, căn cứ pháp lí...
- Có cơ sở pháp lí, nghĩa là trong quyết định phải chỉ rõ là căn cứ vào quy định nào của pháp luật cho thấy chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật trong trường hợp này. Và chủ thể có thẩm quyền giải quyết trường hợp này là trên cơ sở quy định (điều, khoản) nào của pháp luật. Cơ sở pháp lí này phải chi tiết cụ thể tới mục, khoản, điều của nguồn luật. Nếu quyết định áp dụng pháp luật được ban hành trong trường hợp áp dụng pháp luật tương tự thì phải có sự lí giải kĩ càng về tính hợp pháp, hợp lí của việc áp dụng pháp luật tương tự đó đồng thời cũng phải ghi rõ đã áp dụng tương tự quy phạm pháp luật nào hoặc nguyên tắc, tư tưởng pháp luật nào.
- Có cơ sở thực tế, nghĩa là việc ban hành quyết định áp dụng pháp luật phải căn cứ vào những sự kiện, những nhu cầu, đòi hỏi thực tế có thật (đáng tin cậy). Nếu ra quyết định áp dụng pháp luật mà không có căn cứ vào những cơ sở thực tế đáng tin cậy hoặc không có thật thì sẽ có thể áp dụng pháp luật nhầm, sai hoặc không có tính thuyết phục.
- Phù hợp với nhu cầu, điều kiện thực tế của cuộc sống, nghĩa là nội dung của quyết định áp dụng pháp luật phải có khả năng thực hiện được trong thực tế. Sự phù hợp với các điều kiện thực tế, các điều kiện cụ thể về vật chất, kĩ thuật, tổ chức... là những đảm bảo cho quyết định áp dụng pháp luật được thực hiện trong thực tế. Nếu quyết định áp dụng pháp luật không phù hợp với điều kiện thực tế thì nó sẽ khó được thi hành nghiêm chỉnh trong thực tế hoặc được thi hành nhưng kém hiệu quả. Ngoài ra, quyết định áp dụng pháp luật được ban hành phải đảm bảo tính tối ưu, nghĩa là phải có lợi nhất về tất cả các mặt kinh tế, chính trị, tinh thần và xã hội cho nhà nước, xã hội hoặc các chủ thể pháp luật.
d. Tổ chức thực hiện quyết định áp dụng pháp luật
Việc tổ chức thực hiện trên thực tế quyết định áp dụng pháp luật là giai đoạn quan trọng của hoạt động áp dụng pháp luật, ở giai đoạn này, cần tiến hành những hoạt động có tính chất tổ chức, kĩ thuật nhằm đảm bảo về mặt vật chất, kĩ thuật cho việc thực hiện đúng đắn quyết định áp dụng pháp luật đã được ban hành và có hiệu lực thi hành. Chẳng hạn, chuyển văn bản áp dụng pháp luật đã có hiệu lực thi hành đến những tổ chức, cá nhân có liên quan; tổ chức, cá nhân có liên quan trong thời hạn quy định của pháp luật tiến hành tổ chức thực hiện văn bản áp dụng pháp luật đó.
Cũng ở giai đoạn này, cần tiến hành các hoạt động kiểm tra, giám sát việc thi hành quyết định áp dụng pháp luật. Đó là một trong những đảm bảo quan trọng để quyết định đó được thực hiện nghiêm chỉnh trong cuộc sống.
5. Áp dụng pháp luật tương tự
Khi xây dựng pháp luật, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền luôn cố gắng tới mức cao nhất dự liệu trước những tình huống có thể xảy ra trong thực tế đời sống xã hội cần phải được điều chỉnh đối với những trường hợp đó. Tuy nhiên, do đời sống xã hội hết sức đa dạng, phức tạp, có nhiều lĩnh vực quan hệ khác nhau và lại thay đổi không ngừng nên có không ít những trường hợp quan hệ xã hội xảy ra trong thực tế liên quan tới lợi ích của các cá nhân, tổ chức cần phải được giải quyết bằng pháp luật nhưng lại không có quy phạm pháp luật nào trực tiếp điều chỉnh, do vậy không có căn cứ pháp lí để áp dụng. Khắc phục những vấn đề này nếu bằng việc ban hành các quy phạm pháp luật mới đòi hỏi phải có thời gian. Mặt khác, rất nhiều sự kiện, hiện tượng như thế chỉ xảy ra đột xuất, nhất thời nên cũng chưa hẳn đã cần đến các quy phạm pháp luật mới. Trong khi đó nhu cầu của đời sống xã hội đòi hỏi các cơ quan nhà nước phải giải quyết các vấn đề đó ngay để đảm bảo lợi ích của người dân, của các tổ chức, của nhà nước. Giải pháp cho những tình huống trên là áp dụng pháp luật tương tự.
Áp dụng pháp luật tương tự có hai loại: Tương tự quy phạm pháp luật và tương tự pháp luật.
+ Áp dụng tương tự quy phạm pháp luật là giải quyết vụ việc thực tế cụ thể nào đó chưa có quy phạm pháp luật điều chỉnh trên cơ sở quy phạm pháp luật điều chỉnh trường hợp khác có nội dung gần giống như vậy (hai sự việc có nội dung gần giống hay tương tự nhau).
+ Áp dụng tương tự pháp luật là giải quyết vụ việc thực tế, cụ thể nào đó chưa có quy phạm pháp luật điều chỉnh trên cơ sở những nguyên tắc chung và ý thức pháp luật (dựa vào sự công bằng và lẽ phải mà giải quyết).
Các điều kiện chung để áp dụng pháp luật tương tự bao gồm:
- Vụ việc được xem xét phải có liên quan và có ảnh hưởng lớn tới quyền, lợi ích của nhà nước, của xã hội hoặc của các cá nhân đòi hỏi nhà nước (các chủ thể có thẩm quyền) phải xem xét giải quyết. Nếu vụ việc không có gì quan trọng thì các chủ thể có thẩm quyền có thể từ chối không giải quyết nó.
- Phải chứng minh một cách chắc chắn rằng vụ việc cần xem xét giải quyết đó đã không có quy phạm pháp luật nào điều chỉnh.
Ngoài những điều kiện chung đối với mỗi loại áp dụng tương tự pháp luật còn cần phải có những điều kiện riêng. Cụ thể là:
- Để áp dụng tương tự quy phạm pháp luật còn cần phải lựa chọn được quy phạm pháp luật tương tự để áp dụng. Khi lựa chọn phải chỉ ra được quy phạm pháp luật đã lựa chọn đang điều chỉnh trường hợp khác có nội dung gần giống như trường hợp đang cần giải quyết ( phải chỉ ra được những điểm cơ bản về nội dung gần giống hay tương tự nhau giữa hai vụ việc).
- Đối với áp dụng tương tự pháp luật còn cần phải xác định: Thứ nhất, không thể giải quyết vụ việc đó theo nguyên tắc tương tự quy phạm pháp luật được (do không có quy phạm pháp luật tương tự). Nếu có thể giải quyết bằng nguyên tắc áp dụng pháp luật tương tự quy phạm pháp luật được thì không được áp dụng tương tự pháp luật; thứ hai, phải chỉ ra được nguyên tắc pháp luật hay quan điểm, tư tưởng pháp lí nào được áp dụng để giải quyết vụ việc cụ thể đó và phải lí giải tại sao lựa chọn đúng.
Để đảm bảo tính đúng đắn của áp dụng pháp luật tương tự cần phân tích thật kĩ nội dung cũng như tinh thần của pháp luật. Sự phân tích này cho phép lựa chọn được quy phạm pháp luật điều chỉnh trường hợp gần giống với sự việc được xem xét (nếu là áp dụng tương tự quy phạm pháp luật) hoặc tìm ra những nguyên tắc, những quan điểm, tư tưởng pháp lí nhất định, từ đó giải quyết vụ việc (nếu là áp dụng tương tự pháp luật). Ý thức pháp luật, kiến thức pháp lí của chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật đóng vai trò to lớn trong áp dụng tương tự pháp luật.
Việc áp dụng pháp luật tương tự phải hết sức hạn chế, chỉ khi nào thấy thực sự cần thiết mới nên áp dụng. Riêng trong luật hình sự và luật hành chính thì chỉ áp dụng tương tự khi trong pháp luật có quy định về việc áp dụng tương tự.
Việc áp dụng pháp luật tương tự phải xuất phát từ lợi ích của xã hội, của nhà nước và của công dân đồng thời phải đảm bảo những yêu cầu của pháp chế. Không được áp dụng tùy tiện nguyên tắc tương tự, đối với mỗi trường hợp cần báo cáo kịp thời với những cơ quan có trách nhiệm để có những biện pháp kiểm tra, giám sát cần thiết hoặc để kịp thời đặt ra những quy phạm pháp luật bổ sung.
Áp dụng pháp luật tương tự cần phải được phân biệt với áp dụng tiền lệ pháp. Nếu mục tiêu của áp dụng tương tự là đi tìm các quy phạm có phần giả định nêu các tình huống tương tự như sự kiện đang cần giải quyết để căn cứ vào quy phạm đó mà giải quyết vụ việc thì mục tiêu của việc sử dụng tiền lệ pháp là đi tìm cách giải quyết vụ việc cụ thể của các cơ quan, nhà chức trách trước đó để giải quyết vụ việc tương tự. Do vậy, tính sáng tạo trong áp dụng pháp luật tương tự luôn cao hơn trong áp dụng tiền lệ pháp.
III. GIẢI THÍCH PHÁP LUẬT
1. Khái niệm và các hình thức giải thích pháp luật
Quá trình hoạt động pháp luật từ việc xây dựng, thực hiện và áp dụng pháp luật cho đến các hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học luôn có nhiệm vụ quan trọng là phải nhận thức đúng, chính xác, thống nhất nội dung, tinh thần các quy phạm pháp luật, có như vậy thì việc xây dựng và thực hiện pháp luật mới chặt chẽ, chính xác. Muốn làm được điều đó thì phải tiến hành giải thích pháp luật, nghĩa là phải làm sáng tỏ về mặt tư tưởng, nội dung và ý nghĩa của các quy phạm pháp luật, đảm bảo cho sự nhận thức và thực hiện nghiêm chỉnh thống nhất pháp luật. Giải thích pháp luật là việc làm cần thiết, là nhu cầu cần được tiến hành thường xuyên trong quá trình xây dựng pháp luật, quá trình thực hiện và áp dụng pháp luật, trong hoạt động nghiên cứu, giảng dạy pháp luật, trong công tác phổ biến, giáo dục và áp dụng pháp luật. Bởi lẽ pháp luật là những quy tắc xử sự chung mang tính phổ biến. Trường hợp cần phải giải quyết trên cơ sở luật pháp thì có tính chất đơn nhất. Muốn quy cái đơn nhất vào cái phổ biến cần phải có sự phán đoán. Vì thế các tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thực hiện và áp dụng pháp luật phải có trách nhiệm giải thích pháp luật trong việc vận dụng và từng trường hợp cá biệt cụ thể.
Giải thích pháp luật về cơ bản là nhằm làm rõ nội dung, bản chất thật sự của pháp luật, làm cho mọi người hiểu và thực hiện pháp luật thống nhất theo đúng các yêu cầu của pháp chế. Nếu không giải thích đầy đủ, chính xác các quy định của pháp luật thì sẽ rất khó khăn trong hoạt động giám sát việc thi hành chúng và cũng khó có thể kết luận được văn bản hay quy định pháp luật nào đó trái với hiến pháp , luật... để đình chỉ thi hành hoặc hủy bỏ. Trong một số trường hợp nhạy cảm, việc giải thích pháp luật có thể chứa đựng ở mức độ nào đó yếu tố chính trị thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể giải thích quy phạm pháp luật sao cho có lợi nhất đối với lực lượng cầm quyền ở thời điểm đó.
Giải thích pháp luật là hoạt động đa dạng, nó được tiến hành ở mọi lúc, mọi nơi, dưới nhiều hình thức phong phú như thơ ca, hò vè, những bài thuyết trình, bài viết, có thể bằng văn bản cũng có thể bằng truyền miệng, trong mỗi cơ quan nhà nước, mỗi tổ chức xã hội, trong từng gia đình, mỗi cộng đồng, giữa những người xung quanh, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành hoặc do bất kì tổ chức hay cá nhân nào. Phụ thuộc vào chủ thể tiến hành giải thích và đặc trưng của sự giải thích, có thể chia giải thích pháp luật ra hai loại (hình thức) là giải thích không chính thức (giải thích không có giá trị pháp lí) và giải thích chính thức (giải thích có giá trị pháp lí).
- Giải thích pháp luật không chính thức: Là giải thích của tổ chức hay cá nhân không có quyền giải thích pháp luật. Như vậy, lời giải thích không chính thức không có giá trị pháp lí, không mang tính chất phải bắt buộc thực hiện đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân mà chỉ có tác dụng giúp mọi người nhận thức rõ hơn, đầy đủ hơn về các quy định của pháp luật. Giải thích pháp luật không chính thức là loại giải thích phổ biến nhất, đa dạng nhất, mang tính quảng đại quần chúng nhân dân vì ai cũng có thể giải thích được. Tuy nhiên, loại giải thích này thường mang tính chủ quan, tùy tiện nên có nhiều hạn chế như không chính xác, không thống nhất. Mặc dù vây, giải thích pháp luật không chính thức, đặc biệt là giải thích của những tổ chức, cá nhân có uy tín, của các nhà khoa học pháp lí, các luật gia cũng có tác dụng quan trọng, có ảnh hưởng lớn tới ý thức pháp luật, hành vi pháp lí của các chủ thể pháp luật và thông qua đó ảnh hưởng tới hoạt động thực hiện và áp dụng pháp luật của họ. Chúng ta thường gặp giải thích pháp luật không chính thức của các nhà chính trị, các nhà khoa học, nhà hoạt động xã hội... trên đài, báo, trong các sách chuyên khảo hoặc bình luận về quy định, văn bản pháp luật nào đó. Chẳng hạn, những bình luận khoa học về hiến pháp, về bộ luật hình sự của các nhà khoa học.
- Giải thích pháp luật chính thức: Là giải thích của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo luật định được giải thích quy định hay văn bản quy phạm pháp luật đó. Nội dung lời giải thích pháp luật chính thức có giá trị pháp lí, nó thường được ghi nhận trong văn bản giải thích pháp luật và mang tính chất bắt buộc các tổ chức và cá nhân khác phải nhận thức và thực hiện đúng như nội dung lời giải thích chính thức. Giải thích pháp luật chính thức có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì vậy nó chỉ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành theo những trình tự và thủ tục chặt chẽ mà pháp luật quy định. Tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các cá nhân đều buộc phải nhận thức và thực hiện đúng với nội dung, tinh thần các quy định pháp luật mà văn bản giải thích pháp luật chính thức đã đưa ra. Giải thích chính thức được chia thành hai loại đó là giải thích mang tính quy phạm và giải thích cho những vụ việc cụ thể. Giải thích chính thức mang tính quy phạm thường là giải thích các quy định chung và được áp dụng nhiều lần của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để đảm bảo việc thực hiện, áp dụng thống nhất luật pháp; giải thích chính thức cho những vụ việc cụ thể chỉ có hiệu lực đối với vụ việc pháp lí cụ thể đó, còn đối với vụ việc khác, nó không có giá trị.
2. Các phương pháp giải thích pháp luật
Để làm sáng tỏ nội dung tư tưởng và ý nghĩa của các quy phạm pháp luật, khoa học pháp lí đưa ra các phương pháp giải thích pháp luật sau:
- Phương pháp giải thích ngôn ngữ, văn phạm là làm sáng tỏ nội dung tư tưởng của quy phạm pháp luật bằng cách làm rõ nghĩa từng chữ, từng câu và xác định mối liên hệ ngữ pháp giữa chúng trong lời văn của nội dung quy phạm đó. Đây là phương pháp giải thích pháp luật phổ biến và quan trọng nhất;
- Phương pháp logic: là phương pháp sử dụng những suy đoán logic để làm sáng rõ nội dung quy phạm pháp luật. Phương pháp này thường được sử dụng sử dụng trong trường hợp lời văn của quy phạm không trực tiếp thể hiện rõ ý chí của nhà nước.
- Phương pháp giải thích chính trị - lịch sử: là phương pháp tìm hiểu nội dung tư tưởng quy phạm thông qua việc nghiên cứu hoàn cảnh chính trị - lịch sử đã dẫn đến việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật hoặc văn bản quy phạm pháp luật đó hoặc nhiệm vụ chính trị mà nhà nước mong muốn đạt được khi ban hành quy phạm pháp luật đó.
- Phương pháp giải thích hệ thống là làm rõ nội dung, tư tưởng quy phạm pháp luật thông qua việc đối chiếu nó với các quy phạm khác, xác định vị trí của quy phạm đó trong chế định pháp luật, ngành luật cũng như trong toàn bộ hệ thống pháp luật.
Về mặt nguyên tắc, pháp luật phải được giải thích đúng nguyên văn. Giải thích nguyên văn là cách giải thích nội dung lời văn của quy phạm pháp luật được hiểu theo đúng từng câu, từng chữ của nó, không thêm, không bớt. Đây là cách giải thích phổ biến nhất trong thực tế. Tuy nhiên, có những trường hợp cần giải thích theo cách phát triển mở rộng là cách giải thích nội dung văn bản pháp luật rộng hơn so với nghĩa của từ ngữ văn bản, sao cho đúng với nghĩa đích thực mà nhà làm luật muốn thể hiện trong quy phạm (nội dung lời giải thích rộng hơn so với nội dung lời văn của quy phạm pháp luật mà nó giải thích). Giải thích hạn chế là cách giải thích nội dung văn bản pháp luật hẹp hơn nghĩa của từ ngữ trong văn bản (tức là so với nội dung mà ngôn ngữ trong văn bản đã thể hiện) sao cho đúng với ý nghĩa đích thực mà nhà làm luật muốn thể hiện trong quy phạm (nội dung lời giải thích hẹp hơn so với nội dung lời văn của quy phạm pháp luật mà nó giải thích).
Giải thích mở rộng và giải thích hạn chế là những trường hợp ngoại lệ. Cách giải thích này không mâu thuẫn với pháp chế mà ngược lại là một trong những điều kiện để tăng cường pháp chế bởi vì đây không phải là giải thích mở rộng hoặc hạn chế nội dung quy phạm một cách tùy tiện mà nhằm bổ khuyết những thiếu sót của kĩ thuật lập pháp, làm cho các chủ thể thực hiện hiểu đúng nội dung thực sự của quy phạm, ý chí nhà nước đích thực được thể hiện trong đó. Do vậy, chỉ khi nào nhận thấy lời văn của quy phạm pháp luật thật sự rộng hơn hoặc hẹp hơn so với nội dung đích thực của nó thì mới được giải thích mở rộng hoặc hạn chế, bằng không việc giải thích mở rộng hoặc hạn chế đều là sự vi phạm pháp chế.
Cần lưu ý là các phương pháp, hình thức giải thích pháp luật trên không loại trừ lẫn nhau. Trong nhiều trường hợp để giải thích quy phạm pháp luật chúng ta phải tiến hành đồng thời các phương pháp giải thích khác nhau để khắc phục, loại trừ sự nhận thức không đúng pháp luật.
No comments:
Post a Comment