29/09/2014
Địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự - 9 điểm
Bài tập học kỳ Luật Tố tụng Hình sự có đáp án.


Quyền bào chữa có thể coi như là quyền đối trọng với quyền buộc tội của Nhà nước. BLTTHS đang đứng trước yêu cầu phải sửa đổi, bổ sung, nhất là những quy định về người bào chữa trong tố tụng hình sự (TTHS). Việc xác định đúng đắn quyền, nghĩa vụ của người bào chữa trong TTHS sẽ góp phần rất quan trọng đối với hiệu quả hoạt động TTHS và công cuộc cải cách tư pháp nói chung. Khi người bào chữa đã tham gia vào TTHS thì pháp luật phải quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của họ; những quy định này sẽ tạo thành địa vị pháp lí của người bào chữa trong TTHS. Việc người bào chữa tham gia vào các giai đoạn TTHS đã ít nhiều làm cho các cơ quan tiến hành tố tụng tìm ra sự thật khách quan của vụ án, góp phần khắc phục tình trạng oan, sai đem lại một nền tư pháp công bằng, dân chủ, văn minh. Để hiểu hơn về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, em xin chọn đề tài “Địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự”.


1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG TTHS

Khái niệm người bào chữa

Quyền bào chữa hình thành từ rất sớm, không ngừng hoàn thiện, phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong TTHS. Quyền bào chữa bao gồm quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Chúng song song tồn tại, không loại trừ nhau. Mặc dù quan niệm về người bào chữa ở những nước trên thế giới có những điểm khác biệt nhưng nó đều có chung những đặc điểm nổi bật như: người bào chữa là người có kiến thức pháp luật, được bị can, bị cáo hoặc người được pháp luật cho phép mời để tiến hành hoạt động bào chữa. Hoạt động bào chữa nhằm mục đích bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, người bị tình nghi, của bị can, bị cáo. Hiện nay, ở nước ta vẫn chưa có được một định nghĩa thống nhất về người bào chữa, nhưng theo các quy định của pháp luật thì người bào chữa là người được bị can bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ lựa chọn.

Khi tham gia vào TTHS, người bào chữa là người đại diện cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ. Việc người bào chữa đại diện cho bị can, bị cáo không làm mất đi quyền tự bào chữa của bị can, bị cáo. Trong tất cả các trường hợp tham gia tố tụng: theo lời mời của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án (hoặc người đại điện hợp pháp của những người này) hay theo chỉ định của cơ quan tiến hành tố tụng thì người bào chữa đều hoạt động trên cơ sở có sự đồng ý của những người có quyền bào chữa mà họ đại diện, người bào chữa có thẻ bị thay hoặc từ chối bởi chủ thể của quyền bào chữa nếu họ không hài lòng hoặc không đồng ý với người bào chữa đó. Như vậy“Người bào chữa là người được cơ quan tiến hành tố tụng chứng nhận, tham gia tố tụng với mục đích làm sáng tỏ những tình tiết liên quan đến sự thật của vụ án nhằm chứng minh về sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ”.

1.2 Phân loại người bào chữa

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 56 BLTTHS 2003, người bào chữa có thể là luật sư; người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào chữa viên nhân dân.

Luật sư là người có đủ điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật tham gia tố tụng theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức nhằm bảo về quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức đó theo quy định của pháp luật. Hoạt động bào chữa của luật sư có tính chất chuyên nghiệp. Để được công nhận là một luật sư thì cá nhân phải đáp ứng các điều kiện (Điều 10 và Điều 11 luật Luật sư năm 2006). Luật sư được lựa chọn hình thức để hành nghề theo một trong hai hình thức là hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư hoặc hành nghề với tư cách cá nhân (Điều 23 luật Luật sư năm 2006). Luật sư tham gia bào chữa trong trường hợp sau: Theo hợp đồng dịch vụ pháp lí; Theo yêu cầu của CQTHTT.

Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là bố mẹ đẻ, bố mẹ nuôi, người đỡ đầu, anh, chị em ruột và những người theo quy định của pháp luật đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần. Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không bào chữa cho bị cáo thì họ cũng có những quyền như người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, họ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hợp pháp, nếu họ tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa thì họ có quyền và nghĩa vụ như đối với người bào chữa. Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nhất thiết phải là người đã thành niên; không bị tâm thần; có quốc tịch Việt Nam và cư trú tại Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người có quốc tịch nước ngoài, người không có quốc tịch hoặc người Việt Nam ở nước ngoài. Bào chữa viên nhân dân tham gia tố tụng trong 2 trường hợp: Theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng ( khoản 2 điều 57) . Ủy ban mặt trận tổ quốc VN , tổ chức thành viên của mặt trận tự cử bào chữa viên nhân dân tham gia TTHS ( khoản 3 điều 57).

Bào chữa viên nhân dân: là người được tổ chức, đoàn thể xã hội cử ra để bào chữa cho bị cáo. Hiện nay chưa có quy định cụ thể về bào chữa viên nhân dân và trong thực tế hoạt động của bào chữa viên nhân dân cũng không được tổ chức thành một hệ thống. Theo khoản 3 Điều 57 của BLTTHS năm 2003 thì: " Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền cử bào chữa viên nhân dân để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình ". Bào chữa viên nhân dân tham gia tố tụng để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong 2 trường hợp sau: Theo yêu cầu của cơ quan tiến hành TTHS ( khoản 2 Điều 57 BLTTHS năm 2003 ). Ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của mặt trận tự cử bào chữa viên nhân dân tham gia TTHS (khoản 3 Điều 57 BLTTHS năm 2003).

1.3. Vai trò của người bào chữa trong TTHS

Giải quyết vụ án một cách khách quan bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; tăng cường tính dân chủ trong hoạt động tư pháp; đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa, mặt khác góp phần loại bỏ được phần nào sự chuyên quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng, giúp họ nhìn thấy những khuyết điểm, thiếu sót nếu có, hiệu quả công việc bào chữa ngày càng cao từ đó mà lấy được lòng tin, sự tôn trọng từ người dân nói chung và từ các cơ quan tố tụng nói chung.

Người bào chữa, qua công việc bào chữa của mình, giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người dân hiểu được bản chất của sự việc, hành vi phạm tội như động cơ, mục đích, nguyên nhân xảy ra tội phạm. Qua đó giúp các cơ quan tiến hành điều tra ra được một bản án công minh, chính xác. Với ý nghĩa xã hội như vậy, địa vị pháp lí của người bào chữa trong TTHS ngày càng được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Điều đó thể hiện tính dân chủ, khách quan của Nhà nước ta trong hoạt động TTHS, cũng như tính văn minh, nhân đạo của pháp luật TTHS.

2. ĐỊA VỊ PHÁP LÍ CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH

2.1. Quyền của người bào chữa

Hiện nay, trong pháp luật TTHS chưa có một khái niệm về địa vị pháp lý của người bào chữa. Ta có thể hiểu nôm na địa vị pháp lý của người bào chữa là tổng thể các quy định của pháp luật TTHS quy định cho người bào chữa có cá quyền và nghĩa vụ khi tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, tìm ra sự thật vụ án. Người bào chữa là người tham gia tố tụng, thực hiện chức năng bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Để đảm bảo cho người bào chữa được thực hiện chức năng của mình BLTTHS năm 2003 quy định cụ thể các quyền và nghĩa vụ của người bào chữa. Tất cả các quyền và nghĩa vụ đó tạo thành địa vị pháp lý của người bào chữa trong TTHS.

BLTTHS năm 2003 quy định người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong trường hợp bắt người theo quy định tại Điều 81, 82 của BLTTHS năm 2003 thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bị mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, thì viện trưởng viện kiểm sát quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra. Theo đó, người bào chữa có thể tham gia tố tụng vào 1 trong 3 thời điểm sau: Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ, trong trường hợp người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã (Điều 81 BLTTHS năm 2003), bắt người trong trường hợp khẩn cấp (Điều 82 BLTTHS năm 2003). Người bào chữa tham gia tố tụng khi kết thúc điều tra trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia theo quyết định của viện trưởng viện kiếm sát.

BLTTHS năm 2003 dành 2 khoản tại điều 58 để quy định về quyền của người bào chữa trong TTHS. Khi tham gia TTHS người bào chữa có những quyền sau:

Thứ nhất, Người bào chữa có quyền có mặt khi lấy lấy khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác và có quyền xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa. Quy định này nhằm tạo điều kiện cho người bào chữa thực hiện đúng chức năng của mình là làm sáng tỏ những tình tiết gỡ tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can, bị cáo; góp phần đảm bảo việc điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội. Việc người bào chữa được có quyền có mặt trong các hoạt động điều tra có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Khi có mặt người bào chữa, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo sẽ ổn định về mặt tâm lí hơn, đồng thời những người tiến hành các hoạt động điều tra thận trọng, tuân thủ pháp luật hơn. Người bào chữa theo dõi được quá trình điều tra và tình hình chứng cứ điều đó có ý nghĩa rất quan trọng trong việc chuẩn bị lời bào chữa và tham gia tranh tụng của họ sau này tại phiên tòa. Người bào chữa còn có quyền hỏi người bị tạm giữ, bị can khi điều tra viên đồng ý để làm sáng tỏ những tình tiết có lợi cho người bị tạm giữ, bị can. Khi tham gia các hoạt động điều tra, xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa, nếu phát hiện những vi phạm pháp luật, người bào chữa có quyền khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền. Như vậy, có thể thấy, sự tham gia của người bào chữa góp phần nâng cao chất lượng điều tra, xét xử, đảm bảo công bằng và dân chủ trong pháp luật TTHS Việt Nam. BLTTHS năm 2003 quy định cho người bào chữa quyền này là hoàn toàn hợp lý.

Thứ hai, Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can.

Đây là quyền mới quy định cho người bào chữa được ghi nhận trong BLTTHS năm 2003. Quy định này thể hiện tính minh bạch, dân chủ trong hoạt động của CQĐT. Quyền này sẽ tạo cho người bào chữa sự chủ động bố trí, sắp xếp công việc để tham gia vào các buổi hỏi cung, tạo đều kiện thuận lợi cho người bào chữa có thêm cơ hội thu thập chứng cứ đồng thời cũng theo dõi quá trình hỏi cung bị can xem có mớm cung, bức cung không, có sự vi phạm các thủ tục tố tụng không. Việc người bào chữa có mặt khi hỏi cung bị can phải có sự chủ động từ cả hai phía. Khi có đề nghị của người bào chữa thì CQĐT sắp xếp để họ tham gia vào buổi hỏi cung, như vậy vừa đảm bảo quyền của người bào chữa vừa không gây trở ngại cho công tác điều tra.

Thứ ba, Theo điều 43 và điểm c khoản 2 Điều 58 BLTTHS thì người bào chữa có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch nếu có căn cứ theo Điều 42 BLTTHS về những trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng, và nếu xét thấy việc những người này tiến hành hoặc tham gia tố tụng có thể làm ảnh hưởng không tốt đến quyền và lợi ích hợp pháp của người mà mình bào chữa. Đối với người giám định, họ phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi nếu thuộc một trong những trường hợp quy định tại Khoản 4 Điều 60 BLTTHS năm 2003. Thay đổi người phiên dịch quy định tại Điều 61 BLTTHS năm 2003.

Với mục đích bảo đảm sự công bằng khách quan của quá trình giải quyết vụ án,. Một trong những chủ thể có quyền yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng khác là người bào chữa.

Thứ tư, Quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác.

Với quy định như trên, người bào chữa được thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa một cách hợp pháp. Sau đó, người bào chữa sử dụng những gì thu thập được để thực hiện nhiệm vụ bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hiệu quả hơn. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án xem xét những đồ vật, tài liệu này, nếu nó đảm bảo tính khách quan và hợp lý thì có thể sử dụng như là chứng cứ để giải quyết vụ án.

Việc sử dụng quyền này đã tạo điều kiện cho người bào chữa tiếp xúc với vụ án vừa ở mức độ khái quát hơn, vừa chuyên sau hơn. Mặt khác, đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và người thân thích của những người này thì người bào chữa đóng vai trò quan trọng trong việc trợ giúp chứng mình người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Thứ năm, Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu. Người bào chữa có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật yêu cầu theo hướng có lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Người bào chữa cũng có quyền đưa ra yêu cầu như triệu tập thêm người làm chứng, trưng cầu giám định nếu xét thấy điều đó là cần thiết và có lợi cho người được bào chữa. Cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu của người bào chữa. Các yêu cầu mà người bào chữa có thể đưa ra trong quá trình tố tụng như: Yêu cầu giám định, giám định lại, đối chất, tạm đình chỉ, đình chỉ vụ án, thay đổi, đề nghị CQTHTT hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đối với đối với bị can, bị cáo nếu không có căn cứ. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không có nghĩa vụ chứng minh mình vô tội, nhưng có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu. Việc đánh giá, sử dụng các tài liệu, đồ vật do người bào chữa đưa ra như thế nào thuộc trách nhiệm của CQTHTT. CQĐT sẽ tiến hành đánh giá, xem xét xem các tài liệu, đò vật này xem có được sử dụng là chứng cứ chứng minh hay không. Nếu những tài liệu, đồ vật do người bào chữa đưa ra đảm bảo các thuộc tính của chứng cứ là tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp thì những tài liệu, đồ vật đó sẽ được coi là chứng cứ có giá trị chứng minh trong vụ án. Điều 122 BLTTHS quy định trách nhiệm của các CQTHTT phải trả lời cho người bào chữa biết về vệc giải quyết những yếu cầu của người bào chữa. Quy định này đảm bảo cho quyền đưa ra yêu cầu của người bào chữa được tôn trọng và thực hiện bởi CQĐT và Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra hình sự.

Thứ sáu Quyền gặp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Việc gặp gỡ thường xuyên, trao đổi vơi người bị tạm giữ, bị can, bị cáo giúp cho người bào chữa biết rõ tình tiết của vụ án, các đặc điểm nhân thân, cũng như diễn biến tâm lý của người được bào chữa và những tâm tư, nguyện vọng của họ. Điều đó cho thấy, quyền gặp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một quyền có ý nghĩa rất lớn đối với người bào chữa. Những thông tin mà người bào chữa nhận được từ những lần gặp gỡ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thể xác minh lại những chứng cứ buộc tội của cơ quan điều tra, hoặc tìm ra những tình tiết gỡ tội cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.

Bên cạnh đó, về mặt tâm lý, khi thực hiện quyền này, người bào chữa sẽ tạo được lòng tin từ phía người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, và họ dễ dàng cung cấp những thông tin về sự thật vụ án. Với sự tin tương đó, người bào chữa có thể động viên để người bị tạm giữ, bị can, bị cáo khai báo thành khẩn với cơ quan điều tra, từ đó được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Qua đây, người bào chữa có thể phát hiện kịp thời những sai phạm nếu có trong quá trình giải quyết vụ án của cơ quan tiến hành tố tụng, và hiểu rõ quyền của mình khi tham gia tố tụng là một trong những điều kiện đảm bảo quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo từ đó nâng cao trách nhiệm bảo vệ thân chủ của mình.

Thứ bảy, Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật. Qua việc đọc và ghi chép hồ sơ vụ án, người bào chữa nắm được nội dung của vụ án, nắm được những chứng cứ buộc tội cũng như gỡ tội đối với người được bào chữa, trên cơ sở đó người bào chữa chuẩn bị cho việc bào chữa, tham gia tranh tụng tại phiên tòa. Người bào chữa có đọc hồ sơ vụ án mới biết bị can phạm tội gì, theo điều, khoản nào để chuẩn bị tài liệu bào chữa cho bị can, bị cáo tại phiên tòa. Qua việc đọc hồ sơ, tài liệu vụ án, người bào chữa cũng có điều kiện để phát hiện những sai lầm, thiếu sót, vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra trên cơ sở đó đưa ra những yêu cầu, khiếu nại cần thiết đối với cơ quan có thẩm quyền.

Người bào chữa không những có quyền đọc và ghi chép tài liệu có liên quan đến vụ án mà còn có quyền sao chụp tài liệu liên quan đến vụ án. Quy định như vậy là hợp lý khi khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển, quyền này giúp cho người bào chữa rút ngắn thời gian làm việc tại trụ sở của CQĐT, tạo điều kiện cho người bào chữa có đầy đủ tài liệu về hồ sơ vụ án, việc lưu giữ các tài liệu cũng thuận tiện hơn.

Thứ tám, Quyền tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Vai trò của người bào chữa được thể hiện rõ nét nhất tại phiên tòa, viện kiểm sát, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác có quyền đưa ra những chứng cứ luận điểm có liên quan đến vụ án và tranh luận; hội đồng xét xử có trách nhiệm xem xét các chứng cứ, xét hỏi và điều khiển việc tranh luận giữa các bên. Người bào chữa có quyền hỏi bị cáo và những người khác về những vấn đề của vụ án để có những câu trả lời theo những hướng có lợi cho bị cáo. Không chỉ trao quyền cho người bào chữa, pháp luật còn tạo cơ sở pháp lý quan trọng để họ thực hiện quyền này trong thực tế. BLTTHS năm 2003 có những quy định về quyền bình đẳng của người bào chữa, về trình tự xét hỏi và xét hỏi tại phiên tòa...Điều 19 BLTTHS năm 2003 quy định về vị trí bình đẳng của người bào chữa tại phiên tòa: “Kiểm sát viên, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, dồ vật, đưa ra tranh luận dân chủ trước Tòa án. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ thực hiện các quyền đó nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án”.

Thứ chín, Quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Khi tham gia tố tụng, dù ở giai đoạn nào người bào chữa nếu phát hiện thấy quyết định hoặc hành vi của các cơ quan điều tra, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có những điểm bất hợp lý, vi phạm pháp luật thì họ có quyền khiếu nại những quyết định, hành vi tố tụng đó. Người bào chữa có thể tiến hành khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng theo trình tự, thủ tục quy định tại chương XXXV của BLTTHS năm 2003: quy định về khiếu nại tố cáo trong TTHS.

Pháp luật TTHS quy định cho người bào chữa quyền này nhằm đảm bảo các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng luôn được đặt trong sự giám sát kiểm tra. Có như vậy hoạt động tố tụng luôn mang tính khách quan và toàn diện, tránh những sai sót, vi phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người được bào chữa.

Thứ mười, Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 57 của BLTTHS năm 2003. Điều 231 BLTTHS quy định những người có quyền kháng cáo trong đó: “Người bào chữa có quyền kháng cáo để bảo vệ lợi ích của người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.” Đây là quyền độc lập của người bào chữa, người bào chữa kháng cáo không phụ thuộc ý chí của bị cáo cũng như đại diện hợp pháp của bị cáo. Kháng cáo của người bào chữa phải theo hướng có lợi cho bị cáo. Người bào chữa phải kháng cáo theo hướng có lợi cho bị cáo. Việc quy định quyền kháng cáo cho người bào chữa không loại trừ quyền kháng cáo của bị cáo chưa thành niên. Tại điểm b Mục 1 Phần II Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP ngày 2/10/2004 hướng dẫn: “Trường hợp trong các giai đoạn tố tụng trước đó, bị can, bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ đã nhờ người bào chữa và nay vẫn tiếp tục nhờ người đó bào chữa thì… cấp giấy chứng nhận người bào chữa cho người được nhờ bào chữa đó”.

Như vậy, giấy chứng nhận người bào chữa chỉ có giá trị trong từng giai đoạn tố tụng nhất định. Khi được CQTHTT cấp giấy chứng nhận người bào chữa mới có tư cách người bào chữa và địa vị pháp lý của họ mới được xác lập. Bị cáo chưa thành niên và người đại diện hợp pháp của họ có nhiều lý do để không mời người đã bào chữa cho bị cáo ở giai đoạn xét xử sơ thẩm tiếp tục bào chữa ở giai đoạn xét xử phúc thẩm. Vì vậy, địa vị pháp lý của người của người bào chữa ở giai đoạn phúc thâmmr và kháng cáo của họ liệu có còn giá trị pháp lý không? Điều này cần được giải thích, hướng dẫn cụ thể hơn.

2.2. Nghĩa vụ của người bào chữa

Ngoài các quyền mà pháp luật đã quy định, trong khi thực hiện việc bào chữa của mình người bào chữa cho bị can, bị cáo còn phải tuân thủ những quy định về nghĩa vụ do pháp luật quy định. Người bào chữa trong TTHS có những nghĩa vụ nhất định, Khoản 3 Điều 58 BLTTHS năm 2003 quy định cho người bào chữa các nghĩa vụ sau:

Thứ nhất, Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.

Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án, người bào chữa có trách nhiệm giao cho cơ quan điều tra, Viện kiểm sat, Tòa án. Việc giao nhận các tài liệu, đồ vật đó giữa người bào chữa và cơ quan tiến hành tố tụng phải được lập biên bản theo quy định tại Điều 95 của Bộ luật này.

Quy định này nhằm hạn chế tình trạng người bào chữa không có trách nhiệm với việc bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bào chữa qua loa, không đem lại sự trợ giúp đáng kể nào cho người được bào chữa. Người bào chữa phải ý thức được nghĩa vụ của mình do pháp luật quy định, chuyên tâm, tích cực tìm hiểu vụ án, phát hiện kịp thời những tình tiết có thể giúp người bị tạm giam, bị can, bị cáo chứng minh sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho họ. Có như vậy, việc tham gia tố tụng của người bào chữa mới thực sự có ý nghĩa.

Thứ hai, Nghĩa vụ giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Khi tham gia tố tụng, người bào chữa không chỉ thực hiện việc bào chữa cho bị can, bị cáo mà còn giúp đỡ bị can, bị cáo về mặt pháp lý. Thực tế cho thấy, bị can, bị cáo có nhận thức về pháp luật chưa được đầy đủ hoặc bị lệch lạc theo hướng chủ quan của họ. Chính vì vậy, người bào chữa phải giúp đỡ bị can, bị cáo, người bào chữa có thể giải thích quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo; hướng dẫn nội quy phiên tòa; thống nhất phương án bào chữa; giúp bị can, bị cáo thực hiện một số yêu cầu; giúp bị can, bị cáo thể hiện rõ ràng lời khai của mình với các CQTHTT.

Thứ ba, Không được từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà mình đã đảm nhận bào chữa, nếu không có lý do chính đáng.

Quy định này thể hiện sự ràng buộc trách nhiệm của người bào chữa đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích của họ. Việc người bào chữa từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Mặt khác, đều này có thể gây tác động tâm lý không tốt cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo như hoang mang, lo sợ không được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.

Tuy nhiên, người bào chữa có thể từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong những trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 56 BLTTHS năm 2003 về những trường hợp không được bào chữa:

“- Người đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó; người thân thích của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng trong vụ án đó;

- Người tham gia trong vụ án đó với tư cách là người làm chứng, người giám định hoặc người phiên dịch.”

Thuộc một trong những trường hợp trên được xem là có lí do chính đáng để người bào chữa từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Việc từ chối này hoàn toàn nhằm mục đích bảo đảm sự khách quan vô tư của những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng, cũng là một phương thức bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.

Thứ tư, Nghĩa vụ tôn trọng sự thật và pháp luật; nghĩa vụ không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật. Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về nghĩa vụ của người bào chữa. Có quan điểm cho rằng người bào chữa phải đặt lợi ích của bị can, bị cáo mà mình bảo vệ lên trên hết vì người bào chữa tham gia tố tụng xuất phát từ ý chí của bị can, bị cáo hoặc do người đại diện hợp pháp của họ mời hoặc CQTHTT chỉ định. Ngược lại với quan điểm trên, có quan điểm lạ cho rằng người bào chữa phải đặt lợi ích hợp pháp của Nhà nước, xã hội lên trên hết sau đó mới đến lợi ích của người mà họ bào chữa. Tuy nhiên, dù đang tham gia TTHS với vai trò người bào chữa nhưng bản thân người bào chữa không thể không thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của một công dân trong đó có trách nhiệm bảo vệ pháp chế, đấu tranh với tội phạm. Hai nhiệm vụ trên không hề mâu thuẫn nhau, mục tiêu đều là việc điều tra, truy tố, xét xử được tiến hành khách quan, đúng pháp luật, bảo vệ có hiệu quả lợi ích của Nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Vì vậy, không nên đặt nhiệm vụ nào cao hơn nhiệm vụ nào. Ý thức được nghĩa vụ này, người bào chữa không được muc chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật. Sự tôn trọng pháp luật của người bào chữa có tác dụng lớn đối với nhận thức pháp luật của bị can, bị cáo. Bị can, bị cáo sẽ có niềm tin vào pháp luật, tin tưởng vào công lý, vào tấm gương đạo đức nghề nghiệp của người bào chữa của mình.

Thứ năm, Có mặt theo giấy triệu tập của Toà án pháp luật quy định nghĩa vụ này của người bào chữa nhằm ràng buộc họ có trách nhiệm hơn với công việc bào chữa cho thân chủ mình. Đây vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của người bào chữa. Theo quy định tại BLTTHS năm 2003 thì “bản án chỉ được căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa”; nếu người bào chữa không có mặt tại phiên tòa thì sẽ rất thiệt thòi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Việc người bào chữa không đén tham dự phiên tào mà chỉ gửi bản thảo dựa trên những chứng cứ của hồ sơ vụ án thì hiệu quả của công việc bào chữa không cao. Bởi qua việc tham gia xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa, có thể có thêm những tình tiết mới có ích cho việc bào chữa.

Thứ sáu, Không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bào chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân.

Phù hợp với những nguyên tắc cần có của người bào chữa. Quy định này nhằm bào vệ bí mật quốc gia và những lợi ích chung của xã hội. Nghĩa vụ của người bào chữa trong TTHS đã được pháp luật quy định một cách khá toàn diện và hợp lý việc thực hiện tốt các nghĩa vụ này sẽ giúp cho người bào chữa tỏ rõ vai trò, nâng cao địa vị pháp luật của mình trong TTHS. Việc thực hiện tốt các nghịa vụ này sẽ giúp cho người bào chữa tỏ rõ vai trò, nâng cao địa vị pháp lý của mình trong TTHS.

Qua nghiên cứu các quyền và nghĩa vụ của người bào chữa ta có thể thấy pháp luật đã quy định cho người bào chữa các quyền để có thể đảm bảo tốt nhất chức năng bào chữa của mình, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo. Đồng thời quy định các nghĩa vụ cụ thể để đảm bảo nguyên tắc pháp chế. Pháp luật đã quy định rất rõ ràng, cụ thể các quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, vậy trên thực tế nó có được thực hiên nghiêm túc hay không? Ta sẽ sang phần tiếp theo để tìm hiểu rõ hơn.

3. Ý NGHĨA CHẾ ĐỊNH ĐỊNH VỊ PHÁP LÍ CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA

3.1 Ý nghĩa pháp lí

Về mặt pháp lý việc quy định quyền và nghĩa vụ của người bào chữa có một ý nghĩa rất quan trọng: Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, tham gia vào quá trình giải quyết vụ án để giúp bảo vệ lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can bị cáo. Qua đó sự tham gia của người bào chữa cũng góp phần vào việc xác định sự thật của vụ án được đúng đắn, không để bị can, bị cáo bị buộc tội oan sai. Nâng cao hiệu quả hoạt động của của quá trình tiến hành tố tụng. Đảm bảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng và các chủ thể có thẩm quyền phải thực hiện đúng đắn các quy định của pháp luật. Người bào chữa tìm các chứng cứ, chứng minh nhằm gỡ tội, giảm tội cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đó.

Giám sát việc thi hành pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng và các chủ thể có quyền. Do đó các cơ quan và chủ thể này phải cẩn thận trong các hoạt động thực thi pháp luật của mình. Dựa vào các quyền mà pháp luật trao cho người bào chữa trong quá tình tố tụng từ khi khởi tố vụ án, hay trong các trường hợp bắt người cho đến khi thi hành án...người bào chữa tham gia vào qua trình đó sẽ khiến cho các tình tiết vụ án được công khai và minh bạch...

3.2 Ý nghĩa chính trị xã hội

Quy định này là cách đảm bảo tốt nhất quyền bào chữa của công dân, phù hợp với nguyên tắc Hiến định. Nó thể hiện tính dân chủ của LTTHS và tạo điều kiện cho TTHS đạt được mục đích đặt ra đó là bảo vệ có hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Việc tham gia của người bào chữa sẽ làm cho các CQTHTT không lạm dụng quyền lực của mình, cùng với CQTHTT giải quyết vụ án đúng pháp luật, đúng người đúng tội, tạo lòng tin trong dân chúng vào Đảng và Nhà nước.

Việc quy định địa vị pháp lý của người bào chữa thể hiện tính nhân đạo của chế độ. Pháp luật quy định quyền bào chữa tạo điều kiện tối đa cho bị can, bị cáo bảo vệ mình trước pháp luật. Người bào chữa bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của bị can, bị cáo chính là đảm bảo cho trạng thái xã hội – nhà nước cân bằng, củng cố nền pháp chế dân chủ.

4. THỰC TIỄN THỰC HIỆN QUY ĐỊNH VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA

4.1. Thực tiễn thực hiện những quy định về địa vị pháp lý của người bào chữa

Theo báo cáo 4113/BC – UBTP12 ngày 13/8/2010 của Uỷ ban tư pháp của Quốc hội thì hiện nay, tổ chức hành nghề luật sư có 1979 văn phòng luật sư, 441 công ty luật, 200 chi nhánh công ty luật và 27 luật sư hành nghề với tư cách cá nhân, 5714 luật sư, 2771 người tập sự hành nghề luật sư (tăng hơn 4 lần so với 10 năm trước). Đây là những dấu hiệu tiến bộ đáng mừng, nhưng địa vị pháp lí của bào chữa trên thực tế còn gặp nhiều hạn chế mà chúng ta cần nghiêm túc xem xét:

Sự tham gia của người đại diện hợp pháp là rất ít và đặc biệt rất hiếm đối với bào chữa viên nhân dân. Tuy nhiên tỷ lệ luật sư tham gia TTHS với tư cách NBC cũng còn rất ít so với số dân ( trung bình 1 luật sư/16.000 dân), và đội ngũ luật sư cũng không đồng đều giữa các tỉnh, thành phố; giữa đồng bằng và miền núi; chất lượng luật sư còn yếu kém, chưa được đào tạo một cách bài bản; người dân chưa nhận thấy được vai trò quan trọng của NBC. Nhiều nơi CQTHTT áp dụng luật máy móc, cố tình “làm khó” NBC, đòi hỏi nhiều loại giấy tờ không hợp lý làm cho họ rơi vào vòng luẩn quẩn trong việc xin giấy chứng nhận bào chữa, mất thời gian cũng như công sức, ảnh hưởng đến công việc bào chữa. NBC không bao giờ nhận được giấy chứng nhận bào chữa đúng thời hạn, có trường hợp kéo dài đến 1 năm. Để được tham gia tố tụng với tư cách là NBC thì luật sư phải đối mặt với nhiều thủ tục không cần thiết.

Trên thực tế điều tra viên không muốn NBC tham gia vào hoạt động hỏi cung, cơ quan điều tra thường không báo cho NBC hoặc có cách “lách luật” khác là đợi đến sát giờ hỏi cung mới thông báo cho NBC làm NBC không thể đến kịp để tham gia hỏi cung. Nhiều trường hợp cảnh sát dẫn giải không cho luật sư tiếp xúc với BCBC hay đòi phải có yêu cầu của Tòa án mới cho luật sư vào làm việc với bị cáo trong giai đoạn xét xử phúc thẩm. Khi được gặp NBTG, BCBC thì đa số các trường hợp đều có mặt giám thị. Điều này khiến NBTG, BCBC lo sợ sẽ không dám khai báo thông tin liên quan đến vụ án. LTTHS năm 2003 cũng không quy định thời gian gặp là bao lâu nên thường các trại giam chỉ cho phép gặp trong 1 giờ. Điều này là không phù hợp.

Sau khi kết thúc điều tra, NBC có quyền đọc, ghi chép và sao chụp hồ sơ vụ án có liên quan…tuy nhiên ở nhiều địa phương, để thực hiện được quyền này thì NBC còn phải phụ thuộc vào thái độ đồng ý của KSV. Trình tự xét hỏi ở phiên tòa cũng có nhiều điểm bất cập. Trên thực tế hầu hết chỉ có Thẩm phán, Hội thẩm, VKS được đặt câu hỏi. Phần hỏi của NBC thường bị chủ tọa cắt ngang với lý do “ nội dung này đã nói rồi”.

Ngoài ra tại phần tranh luận NBC vẫn có thể bị chủ tọa hạn chế thời gian phát biểu. Bản chất của tranh tụng cũng chưa được thực hiện triệt để, Hội đồng xét xử nghiêng nhiều về phía VKS, không bắt VKS phải đối đáp đầy đủ theo pháp luật. Những thực trạng trên khiến luật sư cảm thấy mình không được tôn trọng xứng đáng từ các cơ quan, người tiến hành tố tụng.

Trong thực tiễn tham gia tranh tụng, tồn tại tình trạng NBC tham gia tranh tụng còn lúng túng khi bào chữa. Có luật sư khi tham gia bào chữa còn thay quyền công tố kết tội bị cáo khác để làm lợi cho thân chủ mình. Lại có luật sư và thân chủ không hiểu nhau nên mâu thuẫn trong phần bào chữa. Luật quy định NBC có quyền kháng cáo, khiếu nại trong một số trường hợp nhưng thực tế NBC còn chưa sử dụng quyền này. Vẫn còn tồn tại nhiều trường hợp NBC coi trọng vật chất, lợi dụng sự am hiểu pháp luật của mình để vi phạm pháp luật, không thực hiện đúng nghĩa vụ luật định như cố tình làm sai lệch vụ án hay chạy án. Những điều này làm cho uy tín NBC bị suy giảm, vì vậy cần có chế tài xử lý thích đáng đối với NBC vi phạm

4.2. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc

Pháp luật quy định cho người bào chữa những quyền năng tố tụng cơ bản nhưng lại không quy định cụ thể các cơ chế bảo đảm cho người bào chữa thực hiện những quyền đó. Ngoài trường hợp một số người tiến hành tố tụng có trình độ thấp hơn luật sư nên mặc cảm rằng luật sư vào là “lắm điều nhiều lẽ” còn có trường hợp người tiến hành tố tụng không nhận thức đầy đủ về nghĩa vụ tố tụng của mình là phải tạo điều kiện thuận lợi cho bị can, bị cáo, người bị tạm giữ thực hiện quyền bào chữa

Hạn chế do số lượng, chất lượng người bào chữa. Hạn chế do ý thức của người bào chữa. Chất lượng bào chữa của người bào chữa trong trường hợp Đoàn luật sư bào chữa theo quy định tại Khoản 2 Điều 57 chưa cao. Thể hiện qua nội dung bài bào chữa, trong việc tranh tụng, hỏi đáp, thái độ của người bào chữa trong phiên tòa. Mưc thù lao chi trả cho luật sư do các Tòa án mời mang tính bình quân, không phù hợp với tính chất các vụ việc mà luật sư đảm nhiệm, tình trạng nợ tiền thù lao của luật sư khá phổ biến.

4.3. Kiến nghị nhằm nâng cao địa vị pháp lý của người bào chữa

Cần làm rõ và sáng tỏ hơn khái niệm người bào chữa, người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và bào chữa viên nhân dân. Cần giải thích và hướng dẫn thống nhất các quy định hiện hành của BLTTHS năm 2003 để hoàn thiện các quy định về địa vị pháp lí của người bào chữa cũng như thay đổi cách nhìn nhận của người dân về hoạt động bào chữa và sự tham gia của người bào chữa trong TTHS. Cần chú trọng người bào chữa trong cải cách tư pháp.

Bổ xung những quy định nhằm nâng cao trách nhiệm của cơ quan tiến hành điều tra, cần phải có các chế tài hoặc quy định ràng buộc trách nhiệm đối với cơ quan tiến hành tố tụng khi họ không tạo điều kiện hoặc cố tình cản trở, ngăn chặn không cho người bào chữa thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình. Nâng cao chất lượng và số lượng đội ngũ luật sư, công tác đào tạo luật sư phải được Bộ tư pháp quan tâm nhiều hơn nữa, tạo điều kiện cho họ được rèn luyện, trau dồi kỹ năng tranh tụng và hoàn thiện các kĩ năng khác của người bào chữa. Giáo dục ý thức pháp luật, cần tích cực giáo dục, tuyên truyền nhằm trau dồi ý thức pháp luật, bổ xung kiến thức pháp luận, giúp người dân nhận thức đúng đắn về pháp luật, về chế độ, từ đó hạn chế tội phạm xảy ra.

Về pháp luật cần nghiên cứu và bổ sung những quy định cần thiết để khắc phục những bất hợp lý trong những quy định của pháp luật, đảm bảo cho những quy định được hợp lý và phù hợp với thực tiễn. Rà soát lại hề thống văn bản pháp luật về người bào chữa, cụ thể hơn nữa là về quyền và nghĩa vụ khi tham gia tố tụng hình s của người bào chữa.

Nên bỏ quy định tại điểm c khoản 1 điều 56 BLTTHS, hướng tới việc xây dựng một đội ngũ luật sư chuyên nghiệp thực hiện các phạm vi hành nghề tư vấn, tranh tụng và cung cấp các dịch vụ pháp lý phủ kín các mặt của đời sống xã hội và đời sống tư pháp. Các quy định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (Các điều 48,49, 50 BLTTHS), cần quy định cụ thể về quyền của họ được giải thích quyền có luật sư ngay khi bị bắt và có quyền im lặng khi không có sự tham gia của luật sư bào chữa. Do đó theo em nên sửa đổi bổ sung về quyền thu thập, sử dụng, đánh giá tài liệu chứng cứ của luật sư theo hướng luật sư có thể lựa chọn thời điểm đưa ra các tài liệu, chứng cứ mà mình thu thập được để phục vụ cho việc tiến hành tố tụng và yêu cầu các cơ quan tiến hành tố tụng thẩm định tính chân thực của các tài liệu chứng cứ đó. Xem xét lại khoản 4 của Điều 58, Sửa đổi khoản 4 Điều 56: CQĐT, VKS, Chánh án Tòa án hoặc hội đồng xét xử phải xem xét cấp giấy chứng nhận người bào chữa. Nên sớm xây dựng quy trình cấp giấy chứng nhận bào chữa, với thủ tục đơn giản hóa về mặt giấy tờ. Sửa đổi điểm g Khoản 2 Điều 58: Pháp luật nên quy định cụ thể những tài liệu nào người bào chữa được ghi chép, sao chụp. Nên mở rộng tất cả các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, trừ tài liệu thuộc an ninh quốc gia, bí mật nhà nước để người bào chữa có đầy đủ thông tin để bào chữa.

Về đào tạo, bồi dưỡng người bào chữa: Cần phải chính quy hóa, chuyên nghiệp hóa đội ngũ những người bào chữa có trình độ pháp lý cao hơn hoặc ít ra cũng tương xứng với nhau về trình độ hiểu biết pháp luật, bảo đảm tính “đối trọng” của phía gỡ tội với phía buộc tội trong TTHS. Nâng cao địa vi pháp lý cho người bào chữa trong TTHS chính là một trong những phương thức tránh oan sai và bảo đảm sự công bằng, khách quan đối với việc giải quyết các vụ án hình sự.

Việc người bào chữa xuất hiện và tham gia vào quá trình TTHS là một đòi hỏi khách quan và hết sức tự nhiên của xã hội loài người tiên tiến. Qua các giai đoạn phát triển của tố tụng nước ta, tùy thuộc vào từng điều kiện lịch sử cụ thể, những quy định của hiến pháp và pháp luật về địa vị pháp lí của người bào chữa ngày càng được kế thừa, nâng cao và hoàn thiện. BLTTHS 2003 đã mở rộng quyền của người bào chữa đây là một bổ sung rất quan trọng, giúp cho người bào chữa khả năng thực hiện tốt nhiệm vụ bào chữa của mình, đảm bảo cho việc buộc tội của Viện kiểm sát khách quan, không phiến diện, một chiều nhưng những quy định đảm bảo cho các quyền ấy được thực hiện trên thực tế vẫn chỉ là lý thuyết nên việc bổ sung và hoàn thiện các quy định của BLTTHS là một yêu cầu tất yếu. Việc tìm hiểu vấn đề qua bài viết trên đây sẽ góp phần hoàn thiện hơn về địa vị pháp lí của người bào chữa, tiến tới xây dựng một đội ngũ bào chữa chuyên nghiệp, thông thạo chuyên môn, am hiểu pháp luật, có trình độ pháp lí cao. Giúp cho quyền con người được tôn trọng, góp phần xây dựng thành công nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Tư pháp.

Bộ luật Tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2003

Viện khoa học pháp lý, Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, NXB. Tư pháp, Hà Nội, 2005

Tạp chí khoa học pháp luật 1/2001; “Người bào chữa trong tố tụng hình sự; ThS. Trần Văn Bảy – ĐH luật TPHCM

Nguyễn Ngọc Khanh, Nâng cao vị thế của người bào chữa tại phiên tòa hình sự, Tạp chí Luật học, Số 7/2008.


6. Đỗ Đình Nghĩa, Luận văn tiến sĩ Luật học “Địa vị pháp lý của người bào chữa trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam những vấn đề lý luận và thực tiễn”.

No comments:

Post a Comment