10/09/2014
Hoàn thiện pháp luật về thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay
LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Phù hợp với nguyên tắc ở đâu có hoạt động quản lý hành chính nhà nước thì ở đó có thanh tra. Thanh tra luôn gắn liền với hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Nên sự xuất hiện của hoạt động quản lý hành chính nhà nước theo ngành, lĩnh vực đã tất yếu dẫn đến sự ra đời của một loại hình thanh tra đó là thanh tra chuyên ngành. 

Nhằm tạo cơ sở pháp lý cho thanh tra chuyên ngành, Nhà nước cần ban hành những quy định về tổ chức cũng như hoạt động của thanh tra chuyên ngành. Hiện nay, văn bản quy định về tổ chức và hoạt động của thanh tra chuyên ngành ở nước ta là Luật Thanh tra năm 2004 và các văn bản hướng dẫn thi hành luật này. Tuy nhiên, nhìn nhận một cách khách quan, những quy định pháp luật về thanh tra chuyên ngành đã bộc lộ những bất cập, không phù hợp với thực tiễn làm ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động thanh tra chuyên ngành. Làm cho thanh tra chuyên ngành không phát huy được vai trò tích cực của mình trong quản lý hành chính nhà nước. Vì vậy vấn đề đặt ra hiện nay là cần phải có những giải pháp hữu hiệu để hoàn thiện pháp luật về thanh tra chuyên ngành. Chính vì lý do trên mà chúng tôi chọn đề tài “Hoàn thiện pháp luật về thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình.

2.Mục đích nghiên cứu của đề tài

Pháp luật về thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước tuy là một vấn đề mới mẻ nhưng nó đóng vai trò rất quan trọng trong quản lý hành chính nhà nước theo ngành, lĩnh vực. Cần phải có nhiều công trình nghiên cứu mới có thể giải quyết được một cách toàn diện nội dung của nó. Vì vậy, khi nghiên cứu đề tài này chúng tôi chỉ nhằm giải quyết một cách tổng thể, toàn diện, có hệ thống những vấn đề lý luận về thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước. Phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của thanh tra chuyên ngành, từ đó đưa ra các một số ý kiến nhằm hoàn thiện pháp luật về thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước hiện nay.

3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Trong khuôn khổ của khóa luận chúng tôi tập trung nghiên cứu các vấn đề: Khái niệm thanh tra trong quản lý hành chính nhà nước; Thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước, đặc điểm, vai trò của thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước; Quy định của pháp luật hiện hành về thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước ; thực trạng về tổ chức và hoạt động của thanh tra chuyên ngành hiện nay và những biện pháp hoàn thiện pháp luật về thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước. Trong những nội dung nêu trên thì thực trạng về tổ chức và hoạt động của thanh tra chuyên ngành theo quy định của pháp luật hiện hành là nội dung chúng tôi tập trung nghiên cứu sâu nhằm tìm hiểu nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế về mặt tổ chức cũng như hoạt động của thanh tra chuyên ngành từ đó đưa ra những đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật về thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước giai đoạn hiện nay.

4.Phương pháp nghiên cứu

Khóa luận được hoàn thành trên cơ sở vận dụng các phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác Lênin và quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Với nhiệm vụ nghiên cứu đã được xác định rõ ràng chúng tôi đã sử dụng riêng lẻ cũng như kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp lịch sử, phương pháp quy nạp, diễn dịch, tư duy logic… nhằm làm sáng tỏ nội dung và phạm vi nghiên cứu đề tài .

5.Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn

Kết quả nghiên cứu của khóa luận có ý nghĩa lý luận và thực tiễn là: góp phần đưa ra về khái niệm, đặc điểm, vai trò của thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước. Khẳng định thanh tra chuyên ngành là nội dung, là chức năng thiết yếu trong việc quản lý hành chính nhà nước theo ngành, lĩnh vực. Đồng thời đưa ra giải pháp cụ thể đổi mới pháp luật về thanh tra chuyên ngành đáp ứng nhu cầu hiện nay.

6.Kết cấu của luận văn

Luận văn được bố cục như sau: Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn có kết cấu gồm 3 chương: 

Chương I: Những vấn đề lý luận chung về thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước.

Chương II: Thực trạng tổ chức và hoạt động của thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước

Chương III: Phương hướng và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước.

Việc nghiên cứu thấu đáo cũng như đưa ra những giải pháp cụ thể nhằm từng bước hoàn thiện pháp luật về thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước là yêu cầu bức xúc cho các nhà lập pháp hiện nay. Đây là công việc phức tạp, đòi hỏi phải được nghiên cứu, xem xét một cách nghiêm túc về mặt lý luận cũng như thực tiễn. Chúng tôi rất mong khóa luận của mình sẽ góp một phần nhỏ vào sự xem xét đó.


NỘI DUNG:

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THANH TRA CHUYÊN NGÀNH TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

1.1 Khái niệm chung về thanh tra trong quản lý hành chính nhà nước

Quá trình lao động xã hội đòi hỏi sự quản lý nhà nước như một hiện tượng tất yếu. Theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước là toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước (hoạt động của cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp). Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước là khái niệm chỉ hoạt động của hệ thống cơ quan hành pháp – cơ quan hành chính nhà nước. Hoạt động quản lý hành chính nhà nước về tổng quan là một chu trình bao gồm các nội dung là đề ra các chủ trương, cơ chế chính sách, pháp luật, quyết định quản lý để tạo ra công cụ pháp lý cho hoạt động và khuôn khổ cho hành vi của các đối tượng chịu sự quản lý. Để xem xét, đánh giá kết quả những tác động này trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước cần có hoạt động thanh tra, kiểm tra để từ đó phát hiện và xử lý kịp thời những sai phạm của đối tượng bị quản lý đảm bảo mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương, chính sách của Đảng; nhiệm vụ, kế hoạch và pháp luật của Nhà nước. Hoạt động thanh tra, kiểm tra còn giúp phát hiện những sai sót, bất hợp lý của những kế hoạch, chính sách, pháp luật đang được triển khai để từ đó kiến nghị với các chủ thể quản lý hành chính nhà nước các biện pháp, cơ chế, chính sách quản lý phù hợp. Bên cạnh đó, hoạt động thanh tra, kiểm tra cũng giúp phát hiện những đối tượng quản lý có thành tích tiêu biểu, thông qua đó biểu dương nhằm khích lệ tinh thần làm việc của những đối tượng quản lý này... Như vậy, Thanh tra giúp cho hoạt động quản lý hành chính nhà nước luôn luôn được đổi mới, chất lượng hoạt động quản lý ngày được nâng cao. Từ những lý do trên đây có thể thấy, thanh tra là công cụ quan trọng và thiết yếu cho hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Sự ra đời của thanh tra trong quản lý hành chính nhà nước là một nhu cầu tất yếu khách quan. 

Xuất phát từ nhu cầu khách quan đó, pháp luật cần có những quy định cụ thể về hoạt động thanh tra trong quản lý hành chính nhà nước như chủ thể, nội dung, hình thức, thủ tục…

Chủ thể tiến hành hoạt động thanh tra trong quản lý hành chính nhà nước theo quy định của Luật Thanh tra là cơ quan quản lý hành chính nhà nước (Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, huyện và các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh). Để giúp cho các cơ quan quản lý hành chính nhà nước cùng cấp này thực hiện hoạt động thanh tra nhà nước, các cơ quan thanh tra nhà nước đã được thành lập theo cấp hành chính và thành lập ở cơ quan quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực (Điều 10 Luật Thanh tra năm 2004). Các cơ quan này tiến hành hoạt động thanh tra nhà nước với nội dung là kiểm tra các cơ quan, tổ chức và cá nhân trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch nhà nước, trên cơ sở đó đưa ra kết luận chính thức về vụ việc thanh tra cũng như những kiến nghị, biện pháp xử lý phù hợp với quyền hạn của bộ máy thanhh tra theo quy định của pháp luật [7, tr36]. Hoạt động thanh tra phải được tiến hành dựa trên những quy định của pháp luật về thủ tục để tiến hành một cuộc thanh tra: căn cứ ra quyết định thanh tra, hình thức thực hiện cuộc thanh tra, các bước tiến hành hoạt động thanh tra, quyền và nghĩa vụ của chủ thể thực hiện hoạt động thanh tra, quyền và nghĩa vụ của đối tượng thanh tra, biện pháp bảo đảm thực hiện quyết định thanh tra,... những quy định này của pháp luật là cơ sở pháp lý cho việc thực hiện hoạt động thanh tra đối với bất kỳ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào nhằm đảm bảo cho hoạt động thanh tra được tiến hành một cách hiệu quả, bảo vệ quyền cũng như lợi ích chính đáng của đối tượng thanh tra tránh sự lạm quyền, lộng quyền hay không thực hiện đúng thẩm quyền của chủ thể thực hiện hoạt động thanh tra.

Từ những quy định hiện hành về hoạt động này chúng ta có thể thấy hoạt động thanh tra trong quản lý hành chính nhà nước có những đặc điểm sau: 

Thứ nhất, thanh tra trong quản lý hành chính nhà nước là hoạt động mang tính chuyên trách: 

Mặc dù theo quy định của pháp luật chủ thể tiến hành hoạt động thanh tra trong quản lý hành chính nhà nước theo quy định của Luật Thanh tra là cơ quan quản lý hành chính nhà nước (Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, huyện và các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) nhưng các hoạt động thanh tra này không thể được tiến hành nếu không có sự tham gia của các cơ quan thanh tra nhà nước. Các cơ quan thanh tra nhà nước này được thành lập với chức năng tham mưu, giúp cho cơ quan quản lý hành chính nhà nước thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra trong phạm vi quản lý của cơ quan đó đảm bảo việc thi hành pháp luật, việc thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực của quản lý hành chính nhà nước. Các cơ quan thanh tra nhà nước thực hiện chức năng của mình thông qua đội ngũ thanh tra viên có trình độ và năng lực quy định của pháp luật. Những thanh tra viên này là những công chức chuyên môn nghiệp vụ của các cơ quan Thanh tra nhà nước thực hiện quyết định thanh tra và các nhiệm vụ khác của cơ quan Thanh tra nhà nước. Khi tiến hành thanh tra họ phải tuân thủ pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và Thủ trưởng cơ quan quản lý trực tiếp về nhiệm vụ thanh tra. Như vậy, có thể thấy hoạt động thanh tra trong quản lý hành chính nhà nước là hoạt động mang tính chuyên trách.

Thứ hai, thanh tra trong quản lý hành chính nhà nước là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, luôn gắn liền với quá trình quản lý hành chính nhà nước: 

Điều này được giải thích bằng việc thanh tra ra đời, tồn tại và phát triển cùng với sự ra đời, tồn tại và phát triển của bản thân nhà nước và sự quản lý hành chính nhà nước. Khi xã hội phát triển đến một giai đoạn nhất định nhà nước tự tiêu vong và kéo theo đó là thanh tra cũng sẽ không còn [6, tr51].

Là một chức năng, một công cụ của quản lý hành chính nhà nước, nên hoạt động Thanh tra nhà nước cũng mang tính quyền uy và mệnh lệnh. Quan hệ giữa chủ thể tiến hành thanh tra và đối tượng bị thanh tra là quan hệ quyền lực - phục tùng. Thể hiện qua việc được tiến hành nhân danh nhà nước, bởi nhà nước và bằng quyền lực Nhà nước. Hoạt động thanh tra Nhà nước chỉ do những cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành; các yêu cầu, kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra có tính bắt buộc phải thực hiện và được nhà nước bảo đảm thực hiện. Tính quyền lực nhà nước là bảo đảm và là đặc điểm nổi bật của hoạt động thanh tra nhà nước so với hoạt động thanh tra khác là hoạt động thanh tra nhân dân. Bởi không giống như thanh tra Nhà nước, hoạt động thanh tra do các Ban thanh tra nhân dân ở xã, phường, thị trấn hoặc các Ban thanh tra nhân dân ở các cơ quan nhà nước, đơn vị hành chính sự nghiệp, đơn vị sản xuất kinh doanh của nhà nước tiến hành. Đây là các tổ chức tự quản, khi thực hiện hoạt động thanh tra nếu phát hiện những việc làm trái pháp luật của đối tượng thanh tra, Ban thanh tra nhân dân chỉ có quyền kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà không có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước để xử lý. Như vậy, có thể thấy hoạt động thanh tra của Ban thanh tra nhân dân không mang tính quyền lực.

Thứ ba, Thanh tra trong quản lý hành chính nhà nước là hoạt động được tiến hành một cách độc lập:

Mục đích chính là nhằm xác minh những sai phạm của đối tượng quản lý, cho nên hoạt động thanh tra nhà nước cuối cùng phải kết luận rõ đúng sai của các đối tượng này trong việc chấp hành pháp luật. Do đó, để hoạt động này thực sự có hiệu lực, hiệu quả, đòi hỏi hoạt động thanh tra phải được tiến hành một cách độc lập theo đúng thủ tục do pháp luật quy định, bao gồm các quy định về việc xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra, ra quyết định thanh tra, ra kết luận thanh tra; quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể thanh tra (người có thẩm quyền quyết định việc thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra, Thanh tra viên) cũng như quyền và trách nhiệm của đối tượng thanh tra... Tuy nhiên, do nhiệm vụ của thanh tra là tham mưu cho chủ thể quản lý hành chính nhà nước nên hoạt động của thanh tra phải gắn chặt với chủ thể quản lý hành chính nhà nước. Chính vì vậy mà thanh tra nhà nước tuy có tính độc lập nhưng tính độc lập này là tương đối với quản lý hành chính nhà nước thể hiện như: Thủ trưởng cơ quan thanh tra do người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức; khi kết thúc thanh tra, Trưởng Đoàn thanh tra, thanh tra viên chỉ có quyền kiến nghị các biện pháp xử lý còn kết luận chính thức và quyết định xử lý vụ việc thuộc về Thủ trưởng cơ quan quản lý…

Thứ tư, Thanh tra trong quản lý hành chính nhà nước được tiến hành theo thủ tục hành chính. 

Các hoạt động quản lý diễn ra trong lĩnh vực nào được thực hiện theo thủ tục pháp luật quy định trong lĩnh vực đó. Thanh tra nhà nước là một chức năng cơ bản của quản lý hành chính nhà nước vì vậy nó được thực hiện theo thủ tục hành chính. Hoạt động thanh tra nhà nước được thực hiện bởi các chủ thể quản lý hành chính nhà nước. Để tạo cơ sở pháp lý thống nhất cho việc tiến hành hoạt động này tránh sự lạm quyền, lộng quyền hay không thực hiện hết thẩm quyền của chủ thể quản lý. Cũng như nhằm bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của cá nhân, tổ chức là đối tượng của hoạt động thanh tra, Nhà nước buộc phải đưa ra các quy phạm pháp luật hành chính trong đó quy định về trình tự, nội dung, mục đích cũng như cách thức tiến hành hoạt động thanh tra. Chủ thể thực hiện hoạt động thanh tra sẽ tiến hành các hoạt động căn cứ vào các quy phạm hành chính quy định về vấn đề này.

Qua việc tìm hiểu lý do ra đời cũng như những đặc điểm của thanh tra trong quản lý chúng tôi xin đưa ra định nghĩa về thanh tra trong quản lý hành chính nhà nước như sau: Thanh tra trong quản lý hành chính nhà nước là hoạt động chuyên trách chủ yếu do các cơ quan thanh tra nhà nước trong bộ máy hành chính nhà nước thực hiện theo thủ tục hành chính, có nội dung là kiểm tra, xem xét, đánh giá và kết luận chính thức về việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quản lý hành chính nhà nước.

Hoạt động thanh tra trong quản lý hành chính nhà nước được Luật Thanh tra quy định bằng thuật ngữ Thanh tra nhà nước, vì vậy để tiện trong quá trình nghiên cứu và làm Khoá luận, hoạt động thanh tra trong quản lý hành chính nhà nước sẽ được chúng tôi sử dụng với nghĩa là hoạt động thanh tra nhà nước.

1.2 Thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước

1.2.1 Khái niệm, đặc điểm của thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước

Như đã trình bày ở trên thì có thể thấy rằng hoạt động thanh tra nhà nước xuất hiện như một tất yếu khách quan, nhằm phục vụ cho quản lý hành chính nhà nước.

Xã hội luôn luôn vận động và phát triển không ngừng, kết quả của sự phát triển đó là sự chuyên môn hóa các hoạt động của con người. Những đơn vị, tổ chức sản xuất – kinh doanh có cùng cơ cấu kinh tế - kỹ thuật hay các tổ chức, đơn vị hoạt động với mục đích giống nhau (như cũng sản xuất ra một loại sản phẩm, cùng thực hiện một loại dịch vụ, hay cùng thực hiện một hoạt động sự nghiệp nào đó…) xuất hiện. Hay nói cách khác đây là chính là sự xuất hiện các loại ngành trong đời sống xã hội. Có sự phân chia các lĩnh vực hoạt động của xã hội thành các ngành dẫn đến việc thực hiện hoạt động quản lý nhà nước theo ngành. Khi thực hiện hoạt động quản lý ngành đòi hỏi các chủ thể quản lý phải thực hiện rất nhiều công việc chuyên môn khác nhau như: lập quy hoạch và kế hoạch phát triển ngành, quản lý thực hiện các khoản thu, chi, giám sát, kiểm tra việc thực hiện pháp luật… Trong điều kiện khối lượng công việc quản lý ngày càng nhiều và mang tính phức tạp thì đòi hỏi của việc chuyên môn hóa các công việc nêu trên luôn được đặt ra. Chính điều này đã là nảy sinh ra nhu cầu quản lý theo chức năng hay còn gọi là quản lý theo lĩnh vực [18, tr101] 

Để quản lý theo ngành và theo chức năng, đòi hỏi phải có một tổ chức đứng ra thực hiện công việc này. Các bộ, cơ quan ngang bộ được thành lập để thực hiện việc thống nhất quản lý một ngành, lĩnh vực chuyên môn hoặc một vài ngành, lĩnh vực chuyên môn liên quan trong phạm vị toàn quốc [18, tr102]. 

Cùng với việc xuất hiện hoạt động quản lý theo ngành, lĩnh vực tất yếu sẽ dẫn đến xuất hiện thanh tra theo hoạt động quản lý này. Điều này là hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc ở đâu có hoạt động quản lý hành chính nhà nước ở đó có hoạt động thanh tra nhà nước. 

Mặt khác, phải nhận thấy rằng việc chuyển đổi cơ chế quản lý từ tập trung quan liêu sang cơ chế thị trường đã kéo theo một loạt những thay đổi. Đối tượng chịu sự thanh tra, kiểm tra đa dạng hơn, phức tạp hơn với sự gia tăng về số lượng các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cũng như quá trình xã hội hoá nhiều lĩnh vực trong đó Nhà nước không can thiệp trực tiếp, chỉ quản lý thông qua các mệnh lệnh hành chính mà cần có các biện pháp quản lý khác, mềm dẻo, linh hoạt để phù hợp với điều kiện hiện nay. Trong cơ chế quản lý mới này, nội dung, phương thức, mục đích thanh tra đối với các doanh nghiệp không thể mang tính mệnh lệnh giống như thanh tra các cơ quan, đơn vị, cá nhân trong bộ máy nhà nước mà cần phải có sự thay đổi. Hoạt động quản lý hành chính nhà nước có phạm vi rộng lớn, bao trùm tất cả các mặt hoạt động của đời sống xã hội và được thiết kế theo nhiều ngành, cấp. Hoạt động ở mỗi ngành có mỗi đặc thù riêng do đặc điểm, tính chất của từng ngành, lĩnh vực quy định. Vì thế, việc thanh tra, kiểm tra các đơn vị, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật về từng ngành, lĩnh vực phải được tiến hành chuyên sâu, do các cơ quan quản lý hành chính nhà nước theo ngành, lĩnh vực thực hiện dựa trên cơ sở các quy định phạm pháp luật do Nhà nước ban hành. Đây là những lý do của việc xuất hiện hoạt động thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước.

Về đặc điểm, vì thanh tra chuyên ngành là một bộ phận của hoạt động thanh tra nhà nước. Nên hoạt động thanh tra chuyên ngành ngoài mang những đặc điểm của hoạt động thanh tra nhà nước nói chung. Bên cạnh đó hoạt động thanh tra chuyên ngành còn mang những đặc điểm thể hiện tính chất đặc trưng của nó như sau:

Thứ nhất, Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra nhà nước mang tính chuyên sâu về nghiệp vụ của ngành, lĩnh vực chuyên môn: 

Như đã trình bày ở trên, sự chuyên môn hóa các hoạt động của con người đã làm xuất hiện các ngành trong đời sống xã hội. Tất yếu cũng dẫn đến việc thực hiện hoạt động quản lý theo ngành và quản lý theo chức năng (hay còn gọi là quản lý theo lĩnh vực chuyên môn). 

Quản lý theo ngành chính là hoạt động quản lý các đơn vị, tổ chức kinh tế, văn hóa, xã hội có cũng cơ cấu kinh tế - kỹ thuật hoặc hoạt động với mục đích giống nhau nhằm làm cho hoạt động của các tổ chức , đơn vị này phát triển một cách đồng bộ, nhịp nhàng, đáp ứng được với yêu cầu của Nhà nước và xã hội [18, tr101].

Quản lý theo chức năng là quản lý theo từng lĩnh vực chuyên môn nhất định của quản lý hành chính nhà nước như kế hoạch, tài chính, giá cả, khoa học công nghệ, lao động, nội vụ, quan hệ đối ngoại và hợp tác quốc tế, tổ chức và công vụ [18, tr101].

Sự xuất hiện của hoạt động quản lý theo ngành và lĩnh vực chuyên môn này kéo theo đó là sự hình thành nên hoạt động thanh tra theo ngành và theo lĩnh vực chuyên môn trong quản lý hành chính nhà nước.

Hoạt động thanh tra của mỗi ngành và lĩnh vực đều thể hiện rất rõ tính chuyên sâu của ngành, lĩnh vực đó. Tính chất này chi phối toàn bộ hoạt động thanh tra của mỗi ngành, lĩnh vực biểu hiện: 

- Hoạt động quản lý điều hành của Thủ trưởng các cơ quan thanh tra thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành phải căn cứ vào tính chất của ngành, lĩnh vực chuyên môn đó. Thanh tra chuyên ngành chính là hoạt động xem xét, đánh giá việc chấp hành pháp luật, những quy định liên quan chặt chẽ đến chuyên môn, kỹ thuật, quy tắc nói riêng. Vì vậy người tiến hành hoạt động thanh tra chuyên ngành khi thực hiện hoạt động thanh tra của mình phải có kiến thức chuyên môn về ngành, lĩnh vực đó, vận dụng những kiến thức để đưa ra những kết luận chính xác. Ví dụ: Để thực hiện hoạt động thanh tra về môi trường trong lĩnh vực xử lý nước thải, ngoài kiến thức chung về quản lý nhà nước và pháp luật, đòi hỏi Thanh tra viên phải là người có hiểu biết nhất định về lĩnh vực xử lý nước thải, để đưa ra được những báo cáo kết quả đúng đắn và những kiến nghị xử lý phù hợp đối với vụ việc thanh tra đó.

- Tiến hành thanh tra đối với các đối tượng thuộc phạm vi quản lý nhà nước chuyên ngành chính là nhằm hướng tới mục tiêu thực hiện các nội dung quản lý hành chính nhà nước theo ngành, lĩnh vực chuyên môn.

Những kiến nghị của thanh tra chuyên ngành bao giờ cũng thể hiện tính chất tính chất chuyên môn - kỹ thuật, từ việc đánh giá đặc điểm, tình hình, những sự kiện đến việc đánh giá ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân.

Quyết định xử lý và hậu quả pháp lý luôn gắn với tính chất chuyên môn – kỹ thuật. Ví dụ: Sau khi tiến hành thanh tra vệ sinh an toàn thực phẩm tại một doanh nghiệp sản xuất bánh kẹo nếu phát hiện doanh nghiệp đó có vi phạm, Thanh tra viên sẽ báo cáo kết quả lại với Thủ trưởng cơ quan thanh tra và kiến nghị biện pháp xử lý. Những kiến nghị về biện pháp xử lý đối với doanh nghiệp đó phải dựa trên quy định pháp luật về ngành, lĩnh vực đó.

Như vậy, có thể thấy tính chất chuyên môn – kỹ thuật đã chi phối toàn bộ hoạt động của thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước.

Thứ hai, đối tượng của thanh tra chuyên ngành là bất kỳ cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân nào thực hiện các công việc liên quan và trong phạm vi của cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực đó:

Những đối tượng của thanh tra chuyên ngành có thể không phụ thuộc về mặt tổ chức đối với chủ thể thực hiện thanh tra chuyên ngành tuy nhiên vì họ thực hiện những hoạt động liên quan đến ngành, lĩnh vực mà các cơ quan này quản lý nên theo quy định của pháp luật họ vẫn là đối tượng thanh tra của các cơ quan thanh tra chuyên ngành. Bởi hoạt động thanh tra chuyên ngành được thực hiện không dựa trên cơ sở của mối liên hệ phụ thuộc về tổ chức mà xuất phát từ thẩm quyền quản lý theo ngành, lĩnh vực theo quy định của pháp luật. Vì vậy, đối tượng của thanh tra chuyên ngành chủ yếu là các đơn vị kinh tế, tổ chức và cá nhân trong xã hội. Ví dụ: Khi thực hiện hoạt động thanh tra chuyên ngành xây dựng, Bộ xây dựng sẽ được thực hiện đối với tất cả các đơn vị, tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực này mà không kể những đối tượng này có phụ thuộc về mặt tổ chức với Bộ hay không.

Đặc điểm này của thanh tra chuyên ngành chính là một điểm khác biệt so với thanh tra hành chính (một loại hình hoạt động thanh tra khác của Thanh tra Nhà nước). Đối tượng của thanh tra hành chính phải là những cơ quan, tổ chức, cá nhân có mối liên hệ phụ thuộc về mặt tổ chức với cơ quan thực hiện hoạt động thanh tra. Sự khác biệt này suy cho cùng xuất phát từ tính chất của hai hoạt động thanh tra này. Thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan quản lý hành chính nhà nước theo cấp hành chính đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp. Trong khi thanh tra chuyên ngành lại là hoạt động thanh tra của cơ quan quản lý hành chính nhà nước theo ngành, lĩnh vực đối với các cơ quan, tố chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật, những quy định về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý của ngành, lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý. Như vậy, có thể thấy phạm vi đối tượng của thanh tra chuyên ngành là rộng hơn so với đối tượng của thanh tra hành chính.

Qua việc tìm hiểu sự ra đời của Thanh tra chuyên ngành cũng như đặc điểm của nó, chúng ta có thể đưa ra định nghĩa Thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước là hoạt động xem xét, đánh giá của các cơ quan quản lý hành chính theo ngành, lĩnh vực đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật, những quy định về chuyên môn, kỹ thuật, quy tắc quản lý của ngành, lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý của mình.

1.2.2 Vai trò thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước

Trong quản lý hành chính nhà nước, vai trò của thanh tra chuyên ngành được thể hiện như sau:

Thanh tra chuyên ngành là công cụ không thể thiếu trong quản lý hành chính nhà nước: 

Để quản lý mọi mặt của đời sống xã hội, Nhà nước phải ban hành những kế hoạch, chính sách, pháp luật. Mỗi lĩnh vực quản lý bao gồm hai nội dung là quản lý việc thực hiện cơ chế, chính sách, pháp luật nói chung và quản lý việc thực hiện các quy định pháp luật về quy trình, quy phạm liên quan chặt chẽ đến chuyên môn, kỹ thuật nói riêng. Tuy nhiên, sự phân định này cũng ở một chừng mực nhất định trong nhiều trường hợp khó xác định ranh giới rõ ràng. Chính sách, kế hoạch có đúng đắn và phù hợp với thực tiễn đến mấy cũng có thể nó không được thực hiện một cách nghiêm chỉnh nếu không có hoạt động thanh tra, kiểm tra. Các nhà quản lý và các đối tượng quản lý đều có thể mắc sai lầm và do đó, công tác thanh tra chuyên ngành cho phép phát hiện và xử phạt vi phạm hành chính - các vi phạm trước khi nó trở thành nghiêm trọng.

Mặt khác, không phải tất cả những kế hoạch, chính sách, pháp luật Nhà nước ban hành đều đúng đắn và hợp lý. Thông qua hoạt động thanh tra chuyên ngành sẽ giúp phát hiện những sai sót, bất hợp lý của những kế hoạch, chính sách, đưa ra những đề xuất, kiến nghị các biện pháp nhằm hoàn thiện chủ trương, chính sách, nâng cao hiệu quả của quản lý hành chính nhà nước.

Cùng với sự phát triển của xã hội thì các lĩnh vực của đời sống cũng ngày càng trở nên đa dạng hơn và phức tạp hơn. Chúng luôn luôn vận động không ngừng. Để các biện pháp quản lý, chính sách quản lý phát huy được hiệu quả thì chính nó phải phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội trong từng thời kỳ. Hoạt động thanh tra chuyên ngành của mỗi ngành, lĩnh vực góp phần phát hiện những thay đổi và dự báo về những vấn đề sẽ phát sinh để có biện pháp phòng ngừa kịp thời. Do đó, thanh tra chuyên ngành giúp các cơ quan quản lý theo sát và đối phó một cách kịp thời với sự thay đổi của môi trường chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội.

Phải nói thêm rằng, so với thanh tra hành chính, vai trò của thanh tra chuyên ngành thể hiện rất rõ mối quan hệ giữa Nhà nước và xã hội. Vì thanh tra hành chính, theo qui định của Luật Thanh tra, là hoạt động thanh tra của cơ quan quản lý hành chính nhà nước theo cấp hành chính đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp. Như vậy, thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra trong nội bộ bộ máy nhà nước; là thanh tra của cơ quan cấp trên đối với cơ quan, đơn vị, cá nhân cấp dưới (thuộc quyền quản lý trực tiếp); là thanh tra của chủ thể quản lý này với chủ thể quản lý khác. Thanh tra hành chính vì vậy mà nó mang tính giám sát nội bộ (được hiểu theo nghĩa rộng là nội bộ của bộ máy nhà nước hay bộ máy các cơ quan hành chính nhà nước). Mục đích cụ thể của hoạt động thanh tra hành chính là làm trong sạch bộ máy, bảo đảm kỷ cương, kỷ luật trong quản lý, điều hành. Còn đối với Thanh tra chuyên ngành, theo Luật Thanh tra là hoạt động thanh tra của cơ quan quản lý hành chính nhà nước theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật, những quy định về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc của ngành, lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý. Như vậy, mục đích của Thanh tra chuyên ngành là bảo đảm sự chấp hành pháp luật của mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân, bảo đảm trật tự, kỷ cương trong hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng như trong mọi lĩnh vực khác của đời sống kinh tế - xã hội. Đối tượng của nó gồm tất cả các cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động trong ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi thẩm quyền cơ quan quản lý hành chính đó. 

Tóm lại, có thể thấy hoạt động thanh tra chuyên ngành thể hiện rất rõ mối quan hệ giữa Nhà nước và xã hội, nó góp phần rất lớn trong việc thực hiện nhiệm vụ của quản lý hành chính nhà nước theo ngành, lĩnh vực.

Thanh tra chuyên ngành góp phần thực hiện chủ trương đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước:

Nền kinh tế hàng hóa theo định hướng Xã hội chủ nghĩa mà nước ta đang xây dựng đã thể hiện được những ưu thế rất lớn như: thúc đẩy quá trình xã hội hóa sản xuất nhanh chóng làm cho sự phân công lao động, chuyên môn hóa sản xuất ngày càng sâu sắc, hình thành nên các mối liên hệ kinh tế và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các doanh nghiệp và người sản xuất, tạo tiền đề cho sự hợp tác lao động ngày càng chặt chẽ. Kéo theo đó thì lực lượng sản xuất cũng phát triển, người sản xuất năng động hơn, họ luôn tìm cách cải tiến kỹ thuật, tiết kiệm nâng cao năng suất lao động, luôn cải tiến chất lượng và hình thức mẫu mã… Nền kinh tế hàng hóa ở nước ta cũng góp phần làm thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất. Các mối quan hệ được giải phóng khỏi sự trói buộc của nền kinh tế khép kín đã từng kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, tạo điều kiện cần thiết cho việc tổ chức và quản lý kinh tế ở trình độ cao.

Tuy nhiên, nền kinh tế hàng hóa vận động theo cơ chế thị trường này cũng có những khuyết tật như tình trạng vì lợi nhuận bất chấp pháp luật, hiện tượng bất bình đẳng gia tăng, môi trường bị hủy hoại… Trong khi Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế quản lý kinh tế cũ sang cơ chế quản lý kinh tế mới đã xuất hiện hiện tượng chạy theo đồng tiền, coi nhẹ giá trị đạo đức, coi thường pháp luật, chỉ muốn khai thác lợi ích từ Nhà nước, từ nền kinh tế bằng mọi cách và không muốn làm tròn nghĩa vụ, trách nhiệm của mình. Điều này đã gây ra cản trở cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Các lực lượng thanh tra chuyên ngành trong các lĩnh vực của nền kinh tế đã góp phần to lớn trong việc phát hiện và xử lý vi phạm, làm hạn chế những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ môi trường kinh tế - xã hội phát triển lành mạnh.

Nền kinh tế thị trường nước ta đang trong giai đoạn phát triển bước đầu, nhiều quan hệ kinh tế được hình thành, tính chất phức tạp của các quan hệ kinh tế ngày càng tăng, do đó đòi hỏi thái độ quản lý hành chính nhà nước về kinh tế - xã hội phải được nâng lên một bước. Thanh tra chuyên ngành vừa là biểu hiện, vừa thúc đẩy sự phân công và chuyên môn hóa công tác quản lý hành chính nhà nước, đáp ứng nhu cầu, đòi hỏi bức xúc của nền kinh tế.

Một trong những giải pháp để phát triển nền kinh tế hàng hóa ở nước ta hiện nay đã đẩy mạnh quá trình đa dạng hóa các hình thức sở hữu, hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường. Hiện nay, hệ thống pháp luật nước ta chưa thực sự hoàn chỉnh, đồng bộ, có những quan hệ kinh tế chưa được pháp luật điều chỉnh, do vậy đã xuất hiện nhiều sai phạm và những cách làm tùy tiện ảnh hưởng quyền lợi của chủ thể khác trong nền kinh tế. Để động viên thu hút các nguồn nhân lực phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội của đất nước đòi hỏi phải có môi trường kinh doanh bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh trong đó bình đẳng về mặt pháp lý được đặt lên hàng đầu. Những vi phạm pháp luật, vi phạm quy trình, quy phạm của nhiều lĩnh vực, ngành nghề chuyên môn phải được phát hiện và xử lý nghiêm minh theo pháp luật, có như vậy mới bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền lợi chính đáng, hợp pháp của nhà kinh doanh và người tiêu dùng, đảm bảo trật tự kinh doanh. Do đó đòi hỏi lực lượng thanh tra phải có chuyên môn, nghiệp vụ, không ngoài ai khác đó chính là thanh tra chuyên ngành [9; tr2].

Thông qua việc làm lành mạnh môi trường kinh doanh, Thanh tra chuyên ngành còn góp phần mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài, thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta.

Thanh tra chuyên ngành góp phần củng cố nguyên tắc quản lý theo ngành, chức năng kết hợp với quản lý theo địa phương:

Đây là nguyên tắc đặc thù trong quản lý hành chính nhà nước, đảm bảo cho tính toàn diện của hoạt động quản lý quản lý hành chính nhà nước. Nguyên tắc này thể hiện mối quan hệ giữa hai loại cơ quan hành chính nhà nước là cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung ở địa phương và cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn.

- Cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung là cơ quan có chức năng quản lý đối với tất cả các ngành, lĩnh vực phát sinh trong đời sống kinh tế - xã hội trên phạm vi lãnh thổ nhất định theo sự phân vạch địa giới hành chính của Nhà nước.

- Cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn là cơ quan có chức năng quản lý hành chính nhà nước theo ngành, lĩnh vực. Các cơ quan này được thành lập để giúp cho cơ quan hành chính có thẩm quyền chung thực hiện tốt hoạt động quản lý hành chính nhà nước của mình.

Sự hình thành cơ quan quản lý có thẩm quyền chuyên môn là kết quả của quá trình chuyên môn hoá các công việc quản lý hành chính nhà nước. Trong mối quan hệ với cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung ở mỗi cấp nhất định thì cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn là cơ quan trực thuộc, có nhiệm vụ giúp cơ quan quản lý có thẩm quyền chung thực hiện nhiệm vụ quản lý của mình trong lĩnh vực quản lý phân công. Thanh tra chuyên ngành là công cụ quản lý hành chính nhà nước trong ngành, lĩnh vực chuyên môn. Hoạt động thanh tra chuyên ngành được tiến hành thường xuyên có vai trò hết sức quan trọng giúp các cơ quan quản lý hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn kiểm soát một cách chặt chẽ đối tượng quản lý, phát hiện kịp thời những sai phạm trong lĩnh vực được phân công quản lý, có biện pháp xử lý kịp thời. Ngoài ra thanh tra chuyên ngành còn giúp phát hiện những chồng chéo trong công tác quản lý giữa các ngành, lĩnh vực với nhau để từng bước xác định ranh giới quản lý của các cơ quan quản lý có thẩm quyền chuyên môn. Các cơ quan quản lý hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn làm tròn nhiệm vụ của mình như vậy hoạt động quản lý theo lãnh thổ sẽ được thực hiện tốt.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRA CHUYÊN NGÀNH TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC.

2.1 Các cơ quan thanh tra được thành lập theo ngành, lĩnh vực

Ngày 23 tháng 11 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 64/SL, thành lập Ban thanh tra đặc biệt. Đánh dấu sự ra đời của Thanh tra Việt Nam. 

Từ khi ra đời cho đến khi có pháp lệnh thanh tra năm 1990, khái niệm thanh tra chuyên ngành chưa hề được đề cập đến trong hoạt động thanh tra Nhà nước. Tuy nhiên, xuất phát từ nhu cầu thực tế khách quan, hoạt động thanh tra chuyên ngành đã xuất hiện kéo theo đó đòi hỏi pháp luật cũng cần có những quy định tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động này. Chính vì vậy, Luật Thanh tra năm 2004 đã ra đời thay thế cho Pháp lệnh Thanh tra 1990, lần đầu tiên khái niệm thanh tra nhà nước đã được định nghĩa một cách cụ thể, và hoạt động thanh tra nhà nước cũng đã được phân thành hai mảng hoạt động chính là: thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành. Sự phân chia này là hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của thực tiễn hoạt động thanh tra, đáp ứng công tác quản lý hành chính nhà nước. Cùng với sự ra đời của thanh tra chuyên ngành trong Luật thanh tra thì những quy định về tổ chức đối với các cơ quan thanh tra thực hiện hoạt động thanh tra chuyên ngành cũng đã được Luật Thanh tra và các văn bản hướng dẫn thi hành đề cập đến. Cụ thể hiện nay các cơ quan thực hiện hoạt động thanh tra chuyên ngành được thành lập ở cơ quan quản lý theo ngành, lĩnh vực.

2.1.1 Thanh tra bộ:

Theo khoản 1 Điều 24 Luật Thanh tra năm 2004 và khoản 1 Điều 12 Nghị định 41/2005/NĐ- CP ngày 25 tháng 3 năm 2005 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra (Nghị định 41/2005/NĐ- CP) thì: “Thanh tra bộ là cơ quan của bộ, có trách nhiệm giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước về công tác thanh tra, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành”.

Về vị trí, chức năng của Thanh tra bộ: 

Có thể thấy xét về vị trí trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước thì thanh tra bộ là cơ quan của Bộ, thực hiện công tác thanh tra bao gồm cả thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành.

Về nhiệm vụ, quyền hạn:

Để thực hiện công tác thanh tra của mình trong đó có hoạt động thanh tra chuyên ngành, theo quy định tại Điều 25 Luật Thanh tra và Điều 13 Nghị định 41/2005/NĐ- CP Thanh tra bộ có những nhiệm vụ, quyền hạn sau: 

- Thanh tra việc chấp hành pháp luật chuyên ngành của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực do bộ phụ trách.

- Xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.

- Thanh tra vụ việc khác do Bộ trưởng giao.

- Hướng dẫn nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành đối với Thanh tra sở; hướng dẫn kiểm tra các đơn vị thuộc bộ thực hiện quy định của pháp luật về công tác thanh tra.

- Thông báo, báo cáo kết quả về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, chống tham nhũng thuộc phạm vi quản lý nhà nước của bộ.

- Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền đình chỉ việc thi hành hoặc huỷ bỏ những quy định trái với pháp luật được phát hiện qua công tác thanh tra.

- Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra của Thanh tra bộ.

- Tổng kết, rút kinh nghiệm, xây dựng nghiệp vụ thanh tra trong phạm vi quản lý nhà nước của Thanh tra bộ.

- Trưng tập cán bộ, công chức của cơ quan, đơn vị có liên quan tham gia Đoàn thanh tra. 

- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.

Về vấn đề cơ cấu tổ chức của Thanh tra bộ: 

Thanh tra bộ có Chánh thanh tra, Phó Chánh thanh tra và Thanh tra viên. Chánh thanh tra bộ do Bộ trưởng bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức sau khi thống nhất với Tổng thanh tra (khoản 2 Điều 24 Luật Thanh tra).

Theo quy định tại khoản 2 Điều 12 Nghị định 41/2005 Bộ trưởng sẽ quyết định cơ cấu tổ chức của bộ mình. Quy định này của pháp luật là hoàn toàn hợp lý, bởi tính chất của mỗi ngành, lĩnh vực trong quản lý hành chính nhà nước là không giống nhau vì vậy cần quy định cho mỗi Bộ quyền quyết định trong việc đưa ra một cơ cấu tổ chức phù hợp với ngành, lĩnh vực quản lý đảm bảo thực hiện hiệu quả hoạt động thanh tra nhà nước. 

2.1.2 Thanh tra sở: 

Theo khoản 1 Điều 27 Luật Thanh tra năm 2004 và khoản 1 Điều 16 Nghị định 41/2006/NĐ- CP thì: “Thanh tra sở là cơ quan của sở, có trách nhiệm giúp Giám đốc sở thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của Giám đốc sở”.

Về vị trí, chức năng của thanh tra sở:

Trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước thì thanh tra sở được pháp luật xác định cụ thể là cơ quan của Sở, thực hiện công tác thanh tra bao gồm cả thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành. 

Về nhiệm vụ, quyền hạn:

Để thực hiện công tác thanh tra của mình trong đó có hoạt động thanh tra chuyên ngành, theo quy định tại Điều 28 Luật Thanh tra và Điều 17 Nghị định 41/2005/NĐ- CP Thanh tra sở có những nhiệm vụ, quyền hạn sau:

- Thanh tra việc chấp hành pháp luật chuyên ngành của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực quản lý do sở phụ trách. 

- Xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.

- Thanh tra vụ việc khác do Giám đốc sở giao.

- Hướng dẫn, kiểm tra các đơn vị thuộc sở thực hiện các quy định của pháp luật về công tác thanh tra.

- Tổng hợp, báo cáo kết quả về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, chống tham nhũng thuộc phạm vi quản lý của sở. 

- Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền đình chỉ việc thi hành hoặc huỷ bỏ những quy định trái với văn bản pháp luật của Nhà nước được phát hiện qua công tác thanh tra.

- Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra của Thanh tra sở.

- Hướng dẫn, kiểm tra các đơn vị thuộc Sở thực hiện các quy định của pháp luật về thanh tra; phối hợp với Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị thuộc Sở chỉ đạo, hướng dẫn về tổ chức, hoạt động thanh tra nội bộ trong các cơ quan, đơn vị đó.

- Yêu cầu cơ quan, đơn vị có liên quan cử cán bộ, công chức tham gia các Đoàn thanh tra.

- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.

Về cơ cấu tổ chức: 

Thanh tra sở có Chánh thanh tra, Phó Chánh thanh tra và Thanh tra viên.

Chánh thanh tra sở do Giám đốc sở bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi thống nhất với Chánh thanh tra tỉnh.

Theo khoản 3 Điều 16 Nghi định 41/2005/NĐ- CP thì việc thành lập Thanh tra sở do Giám đốc sở thống nhất với Chánh thanh tra tỉnh trình Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định.

2.2 Những nội dung cơ bản của hoạt động thanh tra chuyên ngành

2.2.1 Chuẩn bị tiến hành thanh tra:

a) Ra quyết định thanh tra:

Đây là công việc bắt đầu mở đầu cho bất kỳ một hoạt động thanh tra. Hoạt động thanh tra chuyên ngành cũng chỉ được tiến hành trên cơ sở có quyết định thanh tra của người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Theo quy định tại khoản 1 Điều 47 Luật Thanh tra thì Chánh thanh tra bộ, Chánh thanh tra sở hoặc trong trường hợp xét thấy cần thiết Bộ trưởng, Giám đốc sở là người có thẩm quyền ra quyết định thanh tra chuyên ngành. Ngoài những người có thẩm quyền ra quyết định thanh tra ở trên thì Chính phủ sẽ quy định người có thẩm quyền ra quyết định thanh tra trong một số ngành, lĩnh vực (khoản 2 Điều 47 Luật Thanh tra). Khi ra quyết định thanh tra, người có thẩm quyền phải dựa vào một trong những căn cứ tại dưới đây:

- Chương trình, kế hoạch thanh tra đã được phê duyệt;

- Yêu cầu của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước;

- Khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật.

Trên cơ sở của những căn cứ này, người có thẩm quyền sẽ ban hành quyết định thanh tra. Quyết định thanh tra là văn bản pháp lý, phải có các nội dung theo quy định tại Điều 37 của Luật Thanh tra. Quyết định thanh tra chuyên ngành sẽ do Đoàn thanh tra hoặc do Thanh tra viên chuyên ngành tiến hành hoạt động thanh tra độc lập thực hiện.

Khi ban hành quyết định thanh tra, điểm cần lưu ý là việc xác định thời hạn thực hiện thanh tra chuyên ngành. Thời hạn này được tính từ ngày công bố quyết định thanh tra đến khi kết thúc vụ việc thanh tra tại nơi được thanh tra và phải được ghi rõ trong quyết định thanh tra. Phù hợp với nguyên tắc kịp thời của hoạt động thanh tra, tránh những biểu hiện của sự tùy tiện có thể xảy ra, đảm bảo quyền lợi của đối tượng thanh tra, hạn chế những ảnh hưởng đối với sản xuất, công tác của cơ sở nơi tiến hành thanh tra, pháp luật về thanh tra có quy định cụ thể thời hạn một cuộc thanh tra chuyên ngành tổ chức theo Đoàn thanh tra không kéo dài quá 30 ngày và trong trường hợp cần thiết có thể gia hạn một lần không quá 30 ngày. Đối với cuộc thanh tra chuyên ngành do Thanh tra viên chuyên ngành tiến hành thanh tra độc lập thì thời hạn tiến hành thanh tra do người có thẩm quyền ra quyết định thanh tra xác định.

b) Lập kế hoạch thanh tra chuyên ngành và chuẩn bị một số nội dung khác cho hoạt động thanh tra chuyên ngành:

Kế hoạch thanh tra là cơ sở trực tiếp đế tiến hành hoạt động thanh tra. Đồng thời nó là cơ căn cứ để người ra quyết định thanh tra kiểm tra, theo dõi tiến độ thực hiện hoạt động thanh tra nói chung. Trưởng Đoàn thanh tra tổ chức cho Đoàn thanh tra họp để xây dựng kế hoạch. Nếu hoạt động thanh tra chuyên ngành do Thanh tra viên độc lập thực hiện thì Thanh tra viên đó phải xây dựng đề cương thanh tra làm cơ sở tổ chức thực hiện hoạt động thanh tra. Kế hoạch thanh tra phải có những nội dung sau đây:

- Nội dung chủ yếu cần thanh tra;

- Nhiệm vụ cụ thể của từng cán bộ thanh tra;

- Phân bổ thời gian chuẩn bị, thời gian tiến hành và thời gian kết thúc đúng thời hạn được quy định trong quyết định thanh tra.

Nhằm đảm bảo cho hoạt động thanh tra chuyên ngành đạt được hiệu quả thực tế, Đoàn thanh tra hoặc thanh tra viên chuyên ngành cần phải tổ chức tốt công việc chuẩn bị cho hoạt động thanh tra chuyên ngành. Công việc chuẩn bị càng cụ thể, chu đáo thì hiệu quả thực hiện hoạt động thanh tra càng cao. Công việc này bao gồm một số nội dung cụ thể sau:

- Kiểm tra việc hoàn tất các thủ tục hành chính để chuẩn bị tiến hành hoạt động thanh tra chuyên ngành;

- Chuẩn bị đầy đủ cơ sở vật chất, phương tiện đảm bảo cho hoạt động thanh tra;

- Chuẩn bị các văn bản, tài liệu cần thiết khác cho hoạt động thanh tra;

- Tập huấn nghiệp vụ thanh tra cho các cán bộ tham gia thanh tra trong trường hợp cần thiết.

2.2.2 Tiến hành hoạt động thanh tra

Trên cơ sở quyết định thanh tra, Đoàn thanh tra hoặc thanh tra viên chuyên ngành chịu trách nhiệm tổ chức hoạt động thanh tra chuyên ngành. Căn cứ vào kế hoạch hoặc đề cương thanh tra, Đoàn thanh tra hoặc Thanh tra viên chuyên ngành lần lượt tiến hành các công việc của mình. Các bước tiến hành hoạt động thanh tra chuyên ngành bao gồm:

Công bố quyết định thanh tra cho đối tượng thanh tra tại địa điểm thanh tra:

Người công bố quyết định thanh tra là người đã ký quyết định thanh tra. Người đó có thể ủy quyền bằng văn bản cho Trường đoàn thanh tra hoặc Thanh tra viên chuyên ngành công bố quyết định. Việc công bố quyết định thanh tra phải được lập thành văn bản.

Tiến hành hoạt động thanh tra:

Sau khi công bố quyết định thanh tra, Trưởng Đoàn Thanh tra hoặc Thanh tra viên chuyên ngành làm việc cụ thể với đối tượng thanh tra để thống nhất về nội dung và thời gian thanh tra để họ có điều kiện sắp xếp và bố trí thời gian và người có trách nhiệm làm việc với Đoàn Thanh tra hoặc Thanh tra viên chuyên ngành. Công việc thanh tra thông thường được tiến hành trong giờ hành chính tại nơi được thanh tra. Trường hợp khác phải được sự đồng ý của người có thẩm quyền. Trong quá trình thanh tra, một trong những công việc quan trọng mà Đoàn thanh tra hoặc Thanh tra viên chuyên ngành phải thực hiện là thu thập, xem xét, kiểm tra đánh giá chứng cứ làm cơ sở cho các kết luận, kiến nghị và quyết định thanh tra. Tiến hành hoạt động này đòi hỏi các cán bộ thanh tra phải sử dụng các biện pháp nghiệp vụ như: kiểm tra các văn bản và quyết định quản lý trong quá trình tổ chức thực hiện công tác của đơn vị, kiểm tra bảng, biểu và sổ sách, kiểm tra chứng từ, công tác kiểm kê, thực hiện trưng cầu giám định lấy lời khai nhân chứng....

Kết quả làm việc trong quá trình thanh tra bao giờ cũng phải được thể hiện bằng biên bản. Biên bản được đọc lại cho đối tượng thanh tra nghe và họ được yêu cầu ký tên vào biên bản.

2.2.3 Báo cáo kết quả thanh tra, kết luận thanh tra và quyết định xử lý vụ việc thanh tra.

Báo cáo kết quả thanh tra:

Sau khi kết thúc hoạt động thanh tra, Đoàn thanh tra hoặc Thanh tra viên chuyên ngành tiến hành thanh tra độc lập có trách nhiệm ra văn bản báo cáo về kết quả thanh tra. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày kết thúc việc thanh tra Trưởng Đoàn thanh tra phải có báo cáo kết quả thanh tra; trong trường hợp Thanh tra viên chuyên ngành thực hiện thanh tra độc lập, kết quả việc nhiệm vụ phân công phải được báo cáo với Chánh thanh tra. Báo cáo kết quả thanh tra là căn cứ giúp người có thẩm quyền xem xét để đưa ra các kết luận chính thức về vụ việc thanh tra. Vì vậy, theo Điều 41 Luật Thanh tra, báo cáo kết quả thanh tra cần phản ánh những nội dung sau đây:

- Kết luận cụ thể về từng nội dung đã tiến hành thanh tra;

- Xác định rõ tính chất, mức độ vi phạm, nguyên nhân, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm (nếu có);

- Ý kiến khác nhau giữa thành viên Đoàn thanh tra với Trưởng Đoàn thanh tra về nội dung báo cáo kết quả thanh tra (nếu có);

- Các biện pháp xử lý theo thẩm quyền đã đực áp dụng; kiến nghị các biện pháp xử lý.

Kết luận thanh tra:

Kết luận thanh tra là một văn bản mang tính pháp lý do người ra quyết định thanh tra ban hành. Đây là cơ sở pháp lý để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định xử lý vụ việc. Kết luận thanh tra phải khách quan, trung thực, phản ánh chính xác hoạt động của đối tượng thanh tra, chỉ những ưu, khuyết điểm của đối tượng thanh tra. Trên cơ sở đó, đưa ra các đề xuất, kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc xử lý đối tượng thanh tra, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật.

- Việc soạn thảo kết luận thanh tra phải tuân theo thủ tục sau đây:

+Trên cơ sở báo cáo thanh tra của Trưởng Đoàn Thanh tra hoặc Thanh tra viên chuyên ngành tiến hành hoạt động thanh tra độc lập, người ra quyết định thanh tra phải ra văn bản kết luận thanh tra trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được báo cáo thanh tra. 

+Trong quá trình ra văn bản kết luận thanh tra, người ra quyết định thanh tra có quyền yêu cầu Trưởng Đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra báo cáo, yêu cầu đối tượng thanh tra giải trình để làm rõ thêm những vấn đề cần thiết phục vụ cho việc ra kết luận thanh tra. Nếu có ý kiến giải trình của đối tượng thanh tra thì phải xem xét, cân nhắc ý kiến một cách thận trọng trước khi ra kết luận.

- Nội dung một kết luận thanh tra thường được chia làm ba phần như sau:

+Phần mở đầu: nêu tóm tắt nội dung quyết định thanh tra và đặc điểm cơ bản của đối tượng thanh tra có liên quan đến hoạt động thanh tra;

+Phần nôi dung: trình bày tóm tắt nội dung của vụ việc thanh tra căn cứ vào kết quả thanh tra, các tài liệu và biên bản làm việc; đánh giá việc thực hiện chính sách, nhiệm vụ, pháp luật của đối tượng thanh tra.

+Phần kết luận: kết luận tóm tắt sự việc, xác định mức độ sai phạm, nguyên nhân dẫn đến sai phạm (nếu có); nêu rõ các biện pháp xử lý theo thẩm quyền đã được áp dụng và kiến nghị xử lý theo quy định của pháp luật.

Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp là người có thẩm quyền xem xét và xử lý kết luận thanh tra trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày có kết luận thanh tra, Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước sẽ quyết định các biện pháp xử lý cụ thể. Khi xử lý kết luận thanh tra, tùy trường hợp cụ thể, Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước sẽ:

+Quyết định áp dụng các biện pháp xử lý đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân vi phạm theo thẩm quyền được pháp luật quy định;

+Quyết định áp dụng các biện pháp thuộc thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan nhà nước có thầm quyền áp dụng các biện pháp cần thiết để khắc phục, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật.

Tổ chức thực hiện quyết định xử lý thanh tra:

Đây là công việc quan trọng bởi lẽ hoạt động thanh tra thực sự có ý nghĩa khi quyết định xử lý vụ việc thanh tra được bảo đảm thực hiện trên thực tế.

Các biện pháp xử lý hoặc yêu cầu, kiến nghị phải ghi rõ nội dung, thời hạn, đối tượng thực hiện.

Cơ quan ra quyết định xử lý về thanh tra chuyên ngành phải công khai với đối tượng thanh tra, cơ quan, tổ chức hữu quan về nội dung các biện pháp xử lý, các yêu cầu, kiến nghị nêu trên. Đồng thời, cơ quan này có trách nhiệm giám sát, kiểm tra việc thực hiện quyết định xử lý, các yêu cầu, kiến nghị có liên quan đến nội dung vụ việc thanh tra.

Cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận được yêu cầu, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra phải thực hiện nghiêm chỉnh triệt để theo đúng các quy định của pháp luật; nếu không thực hiện thì người đã yêu cầu, kiến nghị hoặc quyết định đó phải áp dụng các biện pháp cần thiết theo thẩm quyền buộc cơ quan, tổ chức, cá nhân đó phải thực hiện; nếu đã áp dụng các biện pháp này mà cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan vẫn không thực hiện thì thủ trưởng cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó phải áp dụng các biện pháp cần thiết theo thẩm quyền buộc họ phải thực hiện; trong trường hợp thiếu tinh thần trách nhiệm hoặc cố ý không thực hiện thì sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.

2.3 Đánh giá về thực trạng tổ chức và hoạt động thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước theo pháp luật hiện hành

2.3.1 Về tổ chức cơ quan thanh tra theo ngành, lĩnh vực:

Luật Thanh tra năm 2004 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã góp phần trong việc tạo cơ sở pháp lý cho sự ra đời của các cơ quan thanh tra được thành lập theo ngành, lĩnh vực thực hiện hoạt động thanh tra Nhà nước trong đó thực hiện cả hoạt động thanh tra chuyên ngành như một tất yếu nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý hành chính nhà nước đặc biệt là hoạt động quản lý theo ngành, lĩnh vực. Tuy nhiên, qua thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về tổ chức của các cơ quan này đã dần bộc lộ những bất cập. Sau đây là một số nhận xét của chúng tôi về vấn đề này:

Về tổ chức cơ quan thanh tra chuyên ngành:

- Về mô hình tổ chức cơ quan thanh tra theo pháp luật hiện hành:

Một trong những đặc điểm của hoạt động thanh tra Nhà nước là hoạt động Thanh tra phải mang tính độc lập tương đối đối với quản lý hành chính nhà nước. Đặc điểm nêu trên của thanh tra chi phối đến mô hình tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra cũng như thẩm quyền của cơ quan này. Tuy nhiên theo quy định của Luật Thanh tra cơ quan thanh tra không được độc lập trong việc ra quyết định thanh tra cũng như ra kết luận thanh tra, mà chỉ có quyền xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra để trình người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước phê duyệt; cơ quan thanh tra không có quyền tự mình ra quyết định thanh tra khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật (trừ Tổng thanh tra Chính phủ) mà thẩm quyền này do người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước quyết định; trong trường hợp xét thấy cần thiết, người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp ra quyết định thanh tra và kết luận thanh tra; hoạt động thanh tra chuyển từ chỗ chỉ tuân theo pháp luật sang phải tuân theo pháp luật; về mặt tổ chức, người đứng đầu cơ quan thanh tra do thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức... Tổ chức cơ quan thanh tra như vậy là quá chú trọng bảo đảm sự kiểm soát chặt chẽ của thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động thanh tra mà không chú ý tới tính độc lập tương đối của hoạt động này. Thực tiễn thi hành Luật Thanh tra trong thời gian qua cho thấy, chính vì sự lệ thuộc thái quá vào người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước đã làm mất đi tính khách quan, độc lập tương đối của hoạt động thanh tra, làm giảm đi hiệu lực, hiệu quả của hoạt động này. Nói cách khác là làm cho công cụ thanh tra kém đi độ sắc bén trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước [16, tr27]. Vì vậy, vấn đề đặt ra là phải giải quyết về mô hình tổ chức và hoạt động của thanh tra như thế nào để bảo đảm cho thanh tra trong đó có thanh tra chuyên ngành vừa là công cụ của quản lý nhà nước, vừa bảo đảm được tính độc lập tương đối của nó?

- Tổ chức cơ quan thanh tra thực hiên hoạt động thanh tra chuyên ngành hiện nay:

Như đã trình bày ở mục 2.1, hiện nay theo quy định của pháp luật thì thanh tra chuyên ngành được tổ chức ở các bộ, các cơ quan ngang bộ (gọi chung là Thanh tra bộ) và ở các sở thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước (thanh tra sở) . Tuy nhiên trên thực tế thì thanh tra chuyên ngành được tổ chức rất đa dạng, thậm chí là ngoài qui định của Luật Thanh tra. Chẳng hạn Quyết định số 89/2007/QĐ- TTg ngày 18/6/2007 thí điểm thành lập thanh tra xây dựng quận, huyện và thanh tra xây dựng xã, phường, thị trấn tại thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh hoàn toàn không căn cứ vào các văn bàn pháp luật về công tác thanh tra, trong khi lực lượng này thực chất là đảm nhiệm hoạt động thanh tra chuyên ngành xây dựng. 

Điều này được giải thích bởi đối tượng thanh tra của thanh tra chuyên ngành so với thanh tra hành chính là lớn hơn rất nhiều, trong khi đó về tổ chức nhân sự thì lại không có sự tương xứng, chính vì vậy nếu chỉ có thanh tra viên của các cơ quan thanh tra nhà nước (ở bộ và cấp sở) có thể thực hiện thanh tra chuyên ngành thì chắc chắn là không thể kham nổi. Ví dụ: Một đợt thanh tra vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn thành phố Hà Nội mà chỉ có các thanh tra viên Sở Y tế thực hiện thì khó có thể nói là bảo đảm [2]. Đây chính là lý do lý giải vì sao thanh tra chuyên ngành được tổ chức rất đa dạng, ngoài qui định của Luật Thanh tra. 

Mặt khác, theo điểm a khoản 1 Điều 23 của Luật Thanh tra năm 2004 thì những cơ quan thuộc Chính phủ có chức năng quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực cũng thành lập cơ quan thanh tra để thực hiện hoạt động thanh tra chuyên ngành tuy nhiên thực tế hiện nay không còn tồn tại cơ quan thuộc Chính phủ nào có chức năng quản lý nhà nước. Như vậy, quy định này đã không còn phù hợp với thực tiễn. 

- Về vấn đề Thanh tra Cục, Thanh tra Tổng cục:

Cụ thể theo quy định của Luật Thanh tra hiện hành thì về nguyên tắc mỗi bộ, cơ quan ngang bộ chỉ có một tổ chức thanh tra, Thanh tra Bộ là đầu mối giúp Bộ trưởng phụ trách toàn bộ công tác thanh tra, kể cả thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành. Quy định này nhằm khắc phục tình trạng phân tán, chồng chéo về tổ chức thanh tra ở các bộ, cơ quan ngang bộ theo quy định của Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 (theo Pháp lệnh này thì ở các bộ, ngoài Thanh tra Bộ còn có Thanh tra Tổng cục, Thanh tra Cục). Tuy nhiên, thực tiễn thi hành Luật Thanh tra thì nguyên tắc này không được thực hiện triệt để. Ở một số bộ, vẫn duy trì cơ quan Thanh tra Tổng cục, Thanh tra Cục bên cạnh Thanh tra Bộ, thậm chí có nơi còn thành lập mới cơ quan Thanh tra Tổng cục, Thanh tra Cục. Dẫn đến thực trạng hiện nay ở một số bộ, thì có Thanh tra Tổng cục, Thanh tra Cục (ví dụ như Thanh tra Cục đường bộ, Cục đường sắt, Cục đường thủ nội địa, Cục hàng hải, Cục hàng không thuộc Bộ Giao thông - Vận tải; thanh tra Tổng cục hải quan, Tổng cục thuế thuộc Bộ Tài chính...); một số bộ, thì mặc dù có Tổng cục, Cục nhưng lại không thành lập cơ quan thanh tra mà hoạt động thanh tra tại các Tổng cục, Cục này do Thanh tra Bộ đảm nhiệm (ví dụ như Thanh tra Cục đăng kiểm thuộc Bộ Giao thông - Vận tải; Tổng cục môi trường, Tổng cục quản lý đất đai thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường; Cục khảo thí và kiểm định chất lượng giáo dục...). Vậy lý do ở đây là gì?

Xem xét tổ chức các Tổng cục, Cục ở các bộ, cơ quan ngang bộ cho thấy, nhiều Tổng cục, Cục được phân cấp thực hiện quản lý hành chính nhà nước, các đối tượng quản lý hành chính nhà nước do các Tổng cục, Cục này phụ trách không chỉ giới hạn ở đội ngũ cán bộ, công chức của mình mà còn bao gồm cả các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác hoạt động trong lĩnh vực do mình phụ trách (như Cục đường bộ, Cục đường thuỷ nội địa thuộc Bộ Giao thông - Vận tải; Cục vệ sinh an toàn thực phẩm thuộc Bộ Y tế...). Về bản chất, các Tổng cục, Cục này thực sự là cơ quan chịu trách nhiệm quản lý hành chính nhà nước về lĩnh vực do mình phụ trách. Xuất phát từ nguyên tắc ở đâu có hoạt động quản lý hành chính nhà nước thì ở đó có thanh tra, cho thấy nhu cầu quản lý hành chính nhà nước ở những Tổng cục, Cục này đòi hỏi phải có thanh tra, bao gồm cả thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành: thanh tra hành chính thực hiện thanh tra đối với cơ quan, đơn vị, cán bộ, công chức trực thuộc; còn thanh tra chuyên ngành chủ yếu thực hiện đối với cơ quan, tổ chức đơn vị, cá nhân bên ngoài bộ máy của cơ quan quản lý nhà nước và thuộc phạm vi lĩnh vực do cơ quan này phụ trách. Vấn đề đặt ra là cơ quan thực hiện hoạt động thanh tra ở những Tổng cục, Cục này đặt ở đâu? ở Tổng cục, Cục hay ở Bộ? ở những Tổng cục, Cục này nếu giao nhiệm vụ thanh tra cho Thanh tra Bộ đảm nhiệm thì về nguyên tắc Thanh tra Bộ là “công cụ” của Bộ trưởng trong quản lý nhà nước nên Thanh tra Bộ không phải là cơ quan tham mưu cho Tổng cục, Cục (về địa vị pháp lý cơ quan này ngang với Tổng cục, Cục). Vì vậy, việc quy định Thanh tra Bộ có trách nhiệm thanh tra việc chấp hành pháp luật của các đối tượng thuộc phạm vi do Tổng cục, Cục như quy định của Luật hiện hành là chưa phù hợp với thực tế yêu cầu quản lý nhà nước của các Tổng cục, Cục. Điều này lý giải tại sao mặc dù Luật Thanh tra không quy định việc thành lập Thanh tra Tổng cục, Thanh tra Cục nhưng trong thực tế Thanh tra Tổng cục, Thanh tra Cục vẫn tiếp tục được duy trì và củng cố nhằm tham mưu cho Tổng cục, Cục trong quản lý nhà nước. Tính đến nay đã có hàng chục Tổng cục, Cục đã tổ chức cơ quan thanh tra riêng của mình để tiến hành hoạt động [16, tr31]. 

Như vậy, có thể thấy rõ ràng việc tổ chức thanh tra chuyên ngành ở Thanh tra bộ là chưa có sự thống nhất. 

Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thanh tra được thành lập ở cơ quan quản lý theo ngành, lĩnh vực:

Nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra được thành lập ở cơ quan quản lý theo ngành, lĩnh vực chưa được quy định rõ ràng, thống nhất, chưa tạo ra được tính chủ động khi thực hiện hoạt động thanh tra. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng chồng chéo, trùng lặp và bỏ trống trong hoạt động thanh tra. Các biểu hiện cụ thể là: cơ quan thanh tra được thành lập ở cơ quan quản lý theo ngành và lĩnh vực thực hiện hai hoạt động thanh tra là thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành nhưng chủ yếu tập trung cho thanh tra chuyên ngành, những quy định của pháp luật cho cơ quan thanh tra này khi thực hiện hoạt động thanh tra (thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành) chưa có sự tách bạch, sự trùng lặp hoạt động giữa các cơ quan thanh tra theo cấp hành chính và cơ quan thanh tra theo ngành, lĩnh vực còn khá phổ biến; thiếu cơ chế phối hợp, nhất là trong việc sử dụng kết quả giữa thanh tra theo cấp hành chính và thanh tra theo ngành, lĩnh vực…

Cán bộ thanh tra chuyên ngành:

- Đội ngũ lực lượng thanh tra viên: là một vấn đề bất cập cần phải đề cập tới do đặc thù của hoạt động thanh chuyên ngành nên đội ngũ thanh tra viên phải có năng lực, ngoài yêu cầu phải có năng lực chuyên môn, phải thường xuyên cập nhật và nắm bắt vững những chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ra còn phải nắm bắt rõ những quy định, quy tắc, quy phạm của ngành, lĩnh vực của mình nhưng trên thực tế đòi hỏi này chưa được đáp ứng nhiều cơ quan thanh tra thiếu thanh tra viên trầm trọng việc này đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng, hiệu quả của công tác thanh tra chuyên ngành nói riêng và công tác thanh tra Nhà nước nói chung.

+Có thể tìm hiểu vấn đề này qua ví dụ sau:

Đối với thanh tra về vệ sinh an toàn thực phẩm của Bộ Y tế , theo Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm, Bộ Y tế cho biết, từ năm 2004- 2008, chưa thành lập được tổ chức thanh tra chuyên ngành về vệ sinh an toàn thực phẩm. Chức năng thanh tra chuyên ngành về vệ sinh an toàn thực phẩm do thanh tra y tế, thanh tra thú y, thanh tra bảo vệ thực vật và lực lượng quản lý thị trường kiêm nhiệm. Trung bình, mỗi tỉnh chỉ có 0,5 cán bộ được biên chế làm công tác thanh tra vệ sinh an toàn thực phẩm từ Sở Y tế.

Từ khi có Nghị định 79 của Chính phủ quy định hệ thống tổ chức quản lý, thanh tra và kiểm nghiệm về vệ sinh an toàn thực phẩm, tháng 8.2008, lực lượng thanh tra chuyên ngành về vệ sinh an toàn thực phẩm được thành lập ở trung ương với số nhân lực khá “hẻo”: Bộ Y tế có 9 người, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có 3 người. 

Ở địa phương tình hình còn bi đát hơn do chưa có quy định hướng dẫn về việc thành lập thanh tra tại các Chi Cục quản lý chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm , chi cục an toàn vệ sinh thực phẩm. Hơn nữa, Luật Thanh tra hiện hành không quy định rõ về tổ chức thanh tra chuyên ngành tại Cục, chi cục thuộc sở. 

Trong khi đó, Bộ Y tế cũng dẫn số liệu so sánh: ở Nhật Bản có khoảng 13.000 thanh tra viên vệ sinh an toàn thực phẩm từ trung ương đến địa phương; ở Thái Lan, riêng Thủ đô Băng Cốc có 5.000 thanh tra viên vệ sinh an toàn thực phẩm; ở Trung Quốc có trên 50.000 thanh tra viên vệ sinh an toàn thực phẩm; ở Mỹ, riêng Tổ chức FDA có khoảng 3.000 thanh tra viên vệ sinh an toàn thực phẩm. Bộ Y tế cũng đưa ra rằng, hạn chế về nhân lực đã ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động thanh tra vệ sinh an toàn thực phẩm [27,tr1], [27,tr2].

- Về năng lực, trình độ của thanh tra viên chuyên ngành: Thực tế chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác quản lý chuyên ngành, trong phạm vi nhất định còn chưa kịp phát hiện và báo cáo với các cơ quan quản lý nhà nước về những sai phạm của các đối tượng quản lý. Có những lĩnh vực đòi hỏi trình độ chuyên môn cao, đáp ứng chuyên môn sâu của lĩnh vực nghề nghiệp nhưng thanh tra viên chuyên ngành hoặc là do chưa được đào tạo một cách bài bản, hoặc là do được chuyển từ những ngành, lĩnh vực khác sang, không đáp ứng được yêu cầu là phải có bằng tốt nghiệp về chuyên ngành đó theo quy định về tiêu chuẩn thanh tra viên quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 31 Luật Thanh tra, do vậy quá trình thực thi nhiệm vụ còn gặp nhiều khó khăn.

Như vậy, vấn đề nhân sự đang đặt ra một thách thức không nhỏ cho các cơ quan thanh tra chuyên ngành. 

- Bên cạnh đó theo quy định tại Điều 32 Luật thanh tra năm 2004 thì trong hoạt động thanh tra, cơ quan thanh tra có quyền trưng tập cộng tác viên vào Đoàn thanh tra. Cộng tác viên là những cán bộ có chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với nhiệm vụ thanh tra nhưng nhìn chung họ không được đào tạo về nghiệp vụ thanh tra và cũng không phải là lực lượng chuyên trách thực hiện nhiệm vụ thanh tra. Như vậy, những cộng tác viên làm nhiệm vụ thanh tra không thể tiến hành thanh tra độc lập mà phải đi kèm ít nhất một thanh tra viên để khi phát hiện vi phạm thì thanh tra viên này chịu trách nhiệm xử phạt hoặc ra quyết định đình chỉ hoạt động đối với đối tượng bị thanh tra. Điều này là không phù hợp, bởi trong khi lượng thanh tra chuyên ngành đang thiếu trầm trọng thì đối với một số vụ việc thanh tra có sự tham gia của cộng tác viên, thanh tra viên chuyên ngành đi kèm chỉ để ra quyết định xử phạt hoặc ra quyết định đình chỉ hoạt động.

2.3.2 Về hoạt động thanh tra chuyên ngành.

Những quy định Luật Thanh tra đã tạo cơ sở pháp lý cho việc tăng cường hoạt động và nâng cao hiệu quả công tác thanh tra chuyên ngành. Tuy nhiên, qua hơn 5 năm thực hiện trên thực tiễn cùng với sự chuyển biến mạnh mẽ của quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của nhà nước theo hướng nhà nước pháp quyền trong đó có sự thay đổi đáng kể về nhận thức và vai trò của nhà nước, cải thiện mối quan hệ giữa cơ quan nhà nước với công dân và doanh nghiệp, xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, những quy định của Luật Thanh tra đối với việc hoạt động thanh tra nói chung và thanh tra chuyên ngành nói riêng đã dần dần bộc lộ những quy định không còn phù hợp.

- Quy định chung của Luật thanh tra về Thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành là không hợp lý:

Lần đầu tiên khái niệm thanh tra nhà nước đã được định nghĩa một cách cụ thể, và hoạt động thanh tra nhà nước cũng đã được phân thành hai hoạt động là: thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành. Sự phân chia này là hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của thực tiễn hoạt động thanh tra, đáp ứng công tác quản lý hành chính nhà nước. Tuy nhiên, dù Luật Thanh tra đã có sự phân chia hoạt động thanh tra nhà nước thành 2 mảng như trên, nhưng nhìn chung những quy định của pháp luật về khi thực hiện hai hoạt động này về cơ bản là giống nhau điều này dẫn đến trên thực tế khi áp dụng đối với hoạt động thanh tra chuyên ngành đã bộc lộ những bất cập và gặp phải những khó khăn nhất định như:

Về thời hạn công bố quyết định và thời hạn báo cáo kết quả thanh tra:

- Về thời hạn công bố quyết định thanh tra theo khoản 1 Điều 25 Nghị định số 41/2005/NĐ- CP, quy định “chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày ra quyết định thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm công bố quyết định thanh tra với đối tượng thanh tra và việc công bố quyết định thanh tra phải được lập thành biên bản”. Có nghĩa là quyết định thanh tra phải được công bố trực tiếp. Quy định này hoàn toàn không phù hợp với các đoàn thanh tra chuyên ngành khi thực hiện thanh tra. Về thời hạn báo cáo kết quả thanh tra theo Luật Thanh tra và Nghị định số 41/2005/NĐ- CP thì: “Chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày kết thúc cuộc thanh tra, Trưởng Đoàn thanh tra phải có văn bản báo cáo kết quả thanh tra…”. Quy định này cũng rất khó thực hiện, thậm chí sẽ làm ảnh hưởng tới thời gian và hiệu quả của một cuộc thanh tra chuyên ngành. Ví dụ: Đối với thanh tra chuyên ngành lao động đối tượng là các doanh nghiệp thì mỗi đợt thanh tra, các đoàn thanh tra thường tiến hành khoảng 10 đến 15 doanh nghiệp, mỗi doanh nghiệp ít nhất 1 ngày, nếu chấp hành quy định này thì sẽ không thể tiến hành thanh tra tại nhiều doanh nghiệp trong một đợt công tác, còn nếu muốn đảm bảo thực hiện chức năng quản lý và làm giảm chi phí đi lại thì không thể thực hiện theo quy định vì sẽ có những doanh nghiệp được công bố quyết định thanh tra sau 15 ngày, kể từ ngày ký quyết định thanh tra. Đối với thời hạn báo cáo, vì mỗi doanh nghiệp được coi là một đối tượng thanh tra, nếu thực hiện việc kiểm soát tất cả các nội dung của Bộ luật lao động thì cũng chỉ mất một đến hai ngày. Nhưng như vậy sẽ không đảm bảo đúng quy định của Luật Thanh tra, vì dù đoàn công tác có đi bất cứ địa phương nào cũng phải trở về trụ sở để báo cáo kết quả thanh tra với người ra Quyết định thanh tra trong vòng 15 ngày. Như vậy là sau khi kết thúc thanh tra tại doanh nghiệp đầu tiên, đoàn thanh tra chỉ có thể tiến hành thanh tra được khoảng 5 doanh nghiệp nữa là phải trở về trụ sở để báo cáo, nếu muốn tiếp tục thanh tra tại địa phương đó thì…trở lại lần thứ hai [20, tr9].

Về thủ tục kết luận một cuộc thanh tra chuyên ngành

Theo quy định tại Điều 41 Luật Thanh tra “chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày kết thúc cuộc thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra phải có văn bản báo cáo kết quả thanh tra”. Căn cứ văn bản báo cáo kết quả thanh tra, nếu chưa đủ cơ sở để ra kết luận thanh tra, người ra quyết định thanh tra có thể yêu cầu Trưởng đoàn thanh tra, thành viên đoàn thanh tra báo cáo, yêu cầu đối tượng thanh tra giải trình để làm rõ thêm những vấn đề cần thiết phục vụ cho việc ra kết luận thanh tra. Quy định như trên chỉ phù hợp với một cuộc thanh tra hành chính vì thời gian của mỗi cuộc thanh tra hành chính ít nhất là 15 ngày, có những cuộc thanh tra lên tới 90 ngày. Do đó, việc xử lý kết quả thanh tra và ra kết luận thanh tra được giao cho người ra quyết định thanh tra là hợp lý và đảm bảo tính chính xác do được chỉ đạo, giám sát kỹ lưỡng và kịp thời. Nhưng quy định này lại rất khó thực hiện đối với một cuộc thanh tra chuyên ngành. Cũng lấy ví dụ đối với một cuộc Thanh tra lao động tại một doanh nghiệp thời gian để tiến hành thường là từ một đến hai ngày, và người trực tiếp thanh tra (Trưởng đoàn thanh tra hoặc thanh tra viên hoạt động độc lập) thì lại không ký kết luận thanh tra và vì thế không chịu trách nhiệm về nội dung kết luận thanh tra, còn người không trực tiếp tiến hành thanh tra thì lại phải ký kết luận thanh tra và chịu hoàn toàn trách nhiệm về nội dung kết luận thanh tra do mình ký. 

Căn cứ Điều 187 Bộ Luật lao động quy định thanh tra viên lao động có thẩm quyền thanh tra, điều tra những nơi thuộc đối tượng, phạm vi thanh tra được giao bất cứ lúc nào mà không cần báo trước; quyết định tạm đình chỉ việc sử dụng máy, thiết bị, nơi làm việc có nguy cơ gây tai nạn lao động, gây ô nhiễm nghiêm trọng môi trường lao động và Điều 190 quy định quyết định của thanh tra viên lao động có hiệu lực bắt buộc thi hành [20, tr10]. Như vậy vấn đề đặt ra ở đây là thanh tra chuyên ngành có thể độc lập thanh tra như một đoàn thanh tra, có quyền kết luận thanh tra và chịu trách nhiệm trước pháp luật được không hoặc có thể phân công thanh tra viên phụ trách vùng không?

Như vậy, qua phân tích và lấy ví dụ có thể thấy những quy định về thủ tục tiến hành thanh tra theo Luật Thanh tra cho hai hoạt động: thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành về cơ bản là giống nhau đã ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của thanh tra chuyên ngành. 

- Quy định về thủ tục tiến hành hoạt động thanh tra chuyên ngành:

Hiện nay, thủ tục để tiến hành hoạt động thanh tra chuyên ngành nói chung đã được Luật Thanh tra quy định một cách cụ thể. Tuy nhiên trên thực tế chính những quy định này đã làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động thanh tra chuyên ngành. Bởi thanh tra chuyên ngành của mỗi ngành, lĩnh vực được thực hiện đối với các đối tượng thuộc phạm vi quản lý của mỗi ngành, lĩnh vực. Giữa các ngành, lĩnh vực này tuy chúng có mối quan hệ với nhau nhưng do mỗi ngành, lĩnh vực có tính chất, đặc điểm riêng biệt vì vậy áp dụng một thủ tục chung cho tất cả các ngành, lĩnh vực theo quy định của Luật Thanh tra như hiện nay làm cho hoạt động thanh tra của mỗi ngành, lĩnh vực mất đi tính chủ động, dẫn đến hiệu quả không cao.

- Quy định về phối hợp hoạt động giữa các cơ quan thanh tra với cơ quan, tổ chức hữu quan: 

Như chúng ta đã biết xuất phát từ tính chất về lĩnh vực, ngành thuộc phạm vi hoạt động cũng như đối tượng của thanh tra chuyên ngành mà có thể thấy sự phối hợp giữa các cơ quan thanh tra chuyên ngành với các cơ quan, tổ chức hữu quan là cần thiết và nó xảy ra thường xuyên hơn so với hoạt động thanh tra hành chính. Hiện nay, những vi phạm liên quan đến các ngành, lĩnh vực là rất phổ biến. Tuy nhiên, thanh tra chuyên ngành chỉ có thẩm quyền xử lý đối với vi phạm hành chính mà thôi. Vì vậy, đối với những vi phạm pháp luật đã vượt quá vi phạm hành chính, đã đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì theo quy định của Luật Thanh tra, các cơ quan thanh tra có trách nhiệm phải chuyển hồ sơ vụ việc vi phạm đó sang cho cơ quan điều tra hình sự có thẩm quyền giải quyết, nếu xét thấy có dấu hiệu cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, do chưa có quy định về tính ràng buộc giữa các cơ quan này với nhau nên thực tế đã xảy ra trường hợp nhiều hồ sơ vi phạm pháp luật do thanh tra chuyên ngành chuyển đến chỉ được coi là tin báo tội phạm, mặt khác kết quả điều tra thường ít được thông báo lại cho cơ quan thanh tra chuyên ngành đó. Hoạt động thanh tra của các cơ quan thanh tra chuyên ngành còn chưa thường xuyên, thường chỉ khi sự vi phạm đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng, chịu sự phản ứng mạnh mẽ của quần chúng nhân dân, của các tổ chức, cơ quan thì cơ quan thanh tra chuyên ngành mới vào cuộc, gây ảnh hưởng không tốt đến lòng tin của nhân dân. Điển hình trong thời gian qua là vụ việc Công ty VEDAN gây ô nhiễm dòng sông Thị Vải – Đồng Nai được dư luận hết sức quan tâm; hoặc các cuộc thanh tra được chủ yếu tập trung vào tháng hành động hay ngày kỷ niệm của ngành, lĩnh vực đó như thanh tra chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm, thanh tra giáo dục, thanh tra giao thông vận tải…điều này làm cho hoạt động thanh tra nhà nước rời rạc, mất đi tính chuyên nghiệp, không đạt được hiệu quả của quản lý hành chính Nhà nước.

Bên cạnh đó, sự phối hợp hoạt động giữa các lực lượng thanh tra chuyên ngành không chỉ giữa các cơ quan thanh tra giữa các ngành mà thậm chí là giữa các cơ quan thanh tra trong ngành còn chưa chặt chẽ nên làm cho hiệu quả hoạt động thanh tra chuyên ngành không cao, dẫn đến xảy ra tình trạng nhiều đoàn thanh tra cùng đến thanh tra một đối tượng gây phiền hà, ảnh hưởng tới hoạt động của đối tượng bị thanh tra và còn gây ra sự lãng phí không cần thiết về thời gian và vật chất.

- Quy định về hoạt động thanh tra chuyên ngành đối với doanh nghiệp: 

Trong thời gian qua công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật đối với các doanh nghiệp đã có những chuyển biến tích cực, góp phần đưa các hoạt động sản xuất, kinh doanh theo đúng pháp luật, có hiệu quả; tăng cường pháp chế trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Hiện nay công tác thanh tra, kiểm tra tại các doanh nghiệp, được tiến hành theo quy định tại Nghị định số 61/1998/NĐ- CP ngày 15 tháng 8 năm 1998 và để nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra theo đúng quy định của pháp luật, chấn chỉnh lại công tác thanh tra, kiểm tra đối với các doanh nghiệp theo đúng quy định Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị số 22/2001/CT- TTg ngày 11/9/2007 về công tác thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp. Hai văn bản này giúp các cơ quan thanh tra trong đó bao gồm cơ quan thanh tra chuyên ngành chủ động phối hợp các cơ quan hữu quan trong việc xác định chương trình, kế hoạch thanh tra, kiểm tra tại các doanh nghiệp để tránh trùng lặp, chồng chéo, kéo dài gây khó khăn và ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên như chúng ta đã biết, Nghị định số 61/1998/NĐ- CP ngày 15 tháng 8 năm 1998 được ban hành trên cơ sở của Pháp lệnh thanh tra năm 1990. Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 là văn bản dưới luật ra đời vào thời điểm nhà nước ta đang xây dựng nền kinh tế với cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp. Vì vậy mà đối tượng của hoạt động thanh tra chủ yếu là các cơ quan, tổ chức, đơn vị của Nhà nước. Nên doanh nghiệp là đối tượng thanh tra quy định theo Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 chủ yếu cũng là doanh nghiệp nhà nước. Sự ra đời của Hiến pháp năm 1992 cùng với chính sách đổi mới cơ chế quản lý và chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần có sự điều tiết của Nhà nước đã khiến nhiều lĩnh vực hoạt động được xã hội hóa, đặc biệt là hoạt động sản xuất kinh doanh. Hoạt động thanh tra đối với doanh nghiệp không còn chỉ đối với các doanh nghiệp nhà nước mà mở rộng đến các doanh nghiệp của mọi thành phần kinh tế, đó không chỉ là doanh nghiệp của Nhà nước mà có thể là doanh nghiệp của tư nhân, tập thể, đơn vị, tổ chức khác. Như vậy, có thể thấy trong giai đoạn hiện nay khi thực hiện hoạt động thanh tra chuyên ngành đối với các doanh nghiệp nếu áp dụng quy định của Nghị định số 61/1998/NĐ- CP ngày 15/8/1998 thì sẽ không còn phù hợp. 

Sự không phù hợp khi áp dụng Nghị định này còn được thể hiện qua những quy định của nó, ví dụ như quy định đối với thời hạn để thực hiện công tác thanh tra đối với các doanh nghiệp là không quá (30 ngày), thời hạn này quá sẽ là quá ngắn đối với những cuộc thanh tra tại các doanh nghiệp có quy mô lớn, các vụ việc có nội dung phức tạp, diễn biến nhiều năm [6, tr73]. 

- Quy định về quyền của Trưởng Đoàn thanh tra, Thanh tra viên độc lập khi thực hiện hoạt động thanh tra chuyên ngành: 

Quy định của pháp luật hiện nay về vấn đề này vẫn còn hạn chế chưa thể hiện được tính chủ động trong hoạt động của Đoàn Thanh tra và thanh tra viên độc lập ảnh hưởng đến hiệu quả thanh tra. Ví dụ như đối với thanh tra chuyên ngành ở một số lĩnh vực nhạy cảm như môi trường, an toàn vệ sinh thực phẩm… thường tổ chức thanh tra theo chế độ thanh tra đột xuất nhưng trưởng đoàn thanh tra, thanh tra viên chuyên ngành tiến hành thanh tra độc lập không được xác lập quyền “quyết định trưng cầu giám định” mà quyền này thuộc về người ra quyết định thanh tra, điều này đã làm mất đi tính chủ động, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của hoạt động thanh tra chuyên ngành.

Như vậy, qua đánh giá về thực trạng tổ chức cũng như hoạt động của thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước theo pháp luật hiện hành, có thể nhận thấy một số quy định đã không còn phù hợp với thực tiễn thực hiện hoạt động thanh tra chuyên ngành, làm cho thanh tra chuyên ngành không thể hiện và phát huy được vai trò của mình trong nền quản lý hành chính nhà nước hiện nay. Vì vậy, nhu cầy bức thiết đặt ra hiện nay cần có giải pháp thích hợp nhằm hoàn thiện pháp luật thanh tra chuyên ngành.

CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THANH TRA CHUYÊN NGÀNH TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC.

3.1Phương hướng hoàn thiện pháp luật về thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước.

Qua việc đánh giá quy định của pháp luật hiện hành về tổ chức và hoạt động của thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước có thể thấy yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về thanh tra chuyên ngành là một nhu cầu bức thiết, là một tất yếu khách quan. Tuy nhiên, khi thực hiện việc hoàn thiện pháp luật về thanh tra chuyên ngành chúng ta cần lưu ý một số điểm sau:

- Hoàn thiện pháp luật thanh tra chuyên ngành nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức thanh tra chuyên ngành, góp phần nâng cao hiêu lực quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mô hình tổ chức và hoạt động của thanh tra chuyên ngành phù hợp, đơn giản, gọn nhẹ, không chồng chéo. Bộ máy đó phải trong sạch, vững mạnh. Đội ngũ cán bộ thanh tra chuyên ngành phải đáp ứng đầy đủ về số lượng và chất lượng, có đầy đủ các quyền hạn cần thiết, có phẩm chất đạo đức tốt, năng lực chuyên môn cao, từng bước áp dụng kỹ thuật, phương tiện hiện đại phục vụ cho hoạt động thanh tra.

- Đổi mới tổ chức và hoạt động của thanh tra chuyên ngành phải trên cơ sở tổng kết thực tiễn công tác thanh tra chuyên ngành từ khi quy định của pháp luật về thanh tra chuyên ngành ra đời cho đến nay, cần đánh giá một cách khách quan về những ưu điểm và những mặt tồn tại của nó để có thể rút ra những kinh nghiệm về tổ chức và hoạt động của thanh tra chuyên ngành trong thời gian qua để vận dụng vào quá trình hoàn thiện pháp luật thanh tra chuyên ngành trong giai đoạn hiện nay. 

- Đổi mới tổ chức và hoạt động thanh tra chuyên ngành phải phù hợp với vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của mỗi ngành.

Chức năng, nhiệm vụ của mỗi ngành là giới hạn hoạt động của thanh tra chuyên ngành đó, mỗi ngành chỉ thực hiện quyền thanh tra trong phạm vi quản lý nhà nước của mình, việc phân quyền cho các tổ chức thanh tra chuyên ngành đó phải dựa trên cơ sở quyền hạn mà Nhà nước giao cho Thủ trưởng cơ quan quản lý ngành đó. Những đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của ngành là cơ sở hình thành nên tính đặc thù của thanh tra chuyên ngành. Vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật thanh tra chuyên ngành cần phải tính đến yếu tố này.

- Hoàn thiện pháp luật thanh tra chuyên ngành phải trên cơ sở Hiến pháp và đảm bảo phù hợp với những văn bản pháp luật hiện hành khác có liên quan. Phải được tiến hành đúng thủ tục theo quy định của pháp luật. Phải gắn với quá trình cải cách cơ chế quản lý kinh tế và cải cách nền hành chính hiện nay. Mặt khác, hoàn thiện pháp luật về thanh tra chuyên ngành phải có chọn lọc yếu tố hợp lý, khoa học trong tổ chức và hoạt động của thanh tra chuyên ngành các nước trên thế giới trên cơ sở phù hợp với điều kiện Việt Nam.

3.2Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước.

Văn bản pháp luật làm cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của thanh tra chuyên ngành hiện nay là Luật Thanh tra năm 2004 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật này. Tuy nhiên nhìn chung như chúng tôi đã đánh giá ở Chương II thì những quy định đó hiện nay có nhiều bất hợp lý, gây ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của thanh tra chuyên ngành. Vì vậy, để hoàn thiện pháp luật về thanh tra chuyên ngành, chúng tôi xin được đóng góp một số ý kiến sau:

- Cần phải có mô hình tổ chức và hoạt động mới cho cơ quan thanh tra để nhằm phát huy được hiệu quả của thanh tra nói chung và thanh tra chuyên ngành nói riêng:

Mô hình tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra cũng như thẩm quyền của cơ quan này theo quy định của pháp luật hiện nay còn quá chú trọng vào bảo đảm sự kiểm soát chặt chẽ của thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động thanh tra mà không chú ý tới tính độc lập tương đối của hoạt động này. Chính vì sự lệ thuộc thái quá vào người đứng đầu cơ quan quản lý hành chính nhà nước đã làm mất đi tính khách quan, độc lập tương đối của hoạt động thanh tra, làm giảm đi hiệu lực, hiệu quả của hoạt động thanh tra trong đó có hoạt động thanh tra chuyên ngành. Do đó, việc sửa đổi Luật Thanh tra cần phải bám sát vào đặc điểm của hoạt động thanh tra và giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa thanh tra với hoạt động quản lý nhà nước. Mô hình tổ chức và hoạt động của thanh tra phải bảo đảm cho thanh tra vừa là công cụ của quản lý hành chính nhà nước, vừa bảo đảm được tính độc lập tương đối của nó. Thể hiện như:

- Cơ quan thanh tra phải được tổ chức nhằm hỗ trợ cho hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Theo đó, Thủ trưởng cơ quan thanh tra phải do người đứng đầu cơ quan quản lý bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức nhưng cần được sự đồng ý của Thủ trưởng cơ quan thanh tra cấp trên trực tiếp.

- Hoạt động thanh tra phải được thực hiện theo yêu cầu của nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước. Điều đó có nghĩa là hoạt động thanh tra chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở quyết định của người đứng đầu cơ quan quản lý, kể cả trong trường hợp phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Trên cơ sở chương trình, kế hoạch thanh tra do người đứng đầu cơ quan quản lý quyết định và thủ tục thanh tra đã được pháp luật quy định chặt chẽ, thủ trưởng cơ quan thanh tra chủ động tổ chức việc thực hiện; người đứng đầu cơ quan quản lý không được can thiệp vào việc thực hiện chương trình, kế hoạch thanh tra trừ trường hợp chương trình, kế hoạch này có sự thay đổi nhằm đưa ra một kết luận thanh tra đúng đắn

- Kết luận thanh tra phải là của cơ quan thanh tra chứ không phải là của Đoàn thanh tra, Thanh tra viên chuyên ngành cũng như của người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước. Kết luận thanh tra phải được cơ quan thanh tra báo cáo với người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước để xử lý. Sau khi có kết luận thanh tra, người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước hoàn toàn có thể đồng ý hoặc không đồng ý với kết luận thanh tra nhưng không thể sửa kết luận thanh tra. Trường hợp người đứng đầu cơ quan quản lý không đồng ý với kết luận thanh tra thì cơ quan thanh tra phải tuân thủ quyết định đó nhưng có quyền báo cáo với cơ quan thanh tra cấp trên trực tiếp để cơ quan này xem xét báo cáo với cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp.

Kết luận thanh tra là do người ra quyết định thanh tra ban hành – tuy nhiên trong một số trường hợp người ra quyết định thanh tra có thể không phải là thủ trưởng cơ quan thanh tra ví dụ trường hợp quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 47 Luật Thanh tra. Vì vậy, đối với những trường hợp này, thì kết quả thanh tra cần được báo cáo cho người đã ra quyết định thanh tra, đồng thời gửi báo cáo này cho Thủ trưởng cơ quan thanh tra cùng cấp. Đảm bảo cho cơ quan thanh tra vẫn có thể đóng góp ý kiến của mình cho người đã ra quyết định thanh tra đối với kết luận thanh tra.

Việc xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của thanh tra bảo đảm cho thanh tra vừa là công cụ của quản lý hành chính nhà nước, vừa bảo đảm được tính độc lập tương đối của nó như trên sẽ giúp phát huy được hiệu quả của hoạt động thanh tra nói chung và thanh tra chuyên ngành nói riêng. 

- Quy định về thanh tra chuyên ngành trong luật Thanh tra:

Những quy định chung của pháp luật hiện nay cho thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành thực tiễn đã chứng mình là không phù hợp bởi giữa hai hoạt động thành tra này có nhiều sự khác biệt.

Luật Thanh tra chỉ nên qui định mang tính nguyên tắc về hoạt động thanh tra chuyên ngành. Những quy định về thủ tục thanh tra của ngành, lĩnh vực nào sẽ do pháp luật chuyên ngành đó điều chỉnh. Điều này được giải thích bởi lý do mỗi ngành, mỗi lĩnh vực có những nét đặc thù cho nên sẽ không thể quy định được một, thủ tục chung cho tất cả các ngành, lĩnh vực (và giống như thủ tục đối với thành tra hành chính hiện nay).

- Cần thành lập cơ quan thanh tra chuyên ngành tại một số Tổng cục, Cục được phân cấp quản lý:

Để tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, bảo đảm tính hiệu quả và khả thi của hoạt động thanh tra trên thực tế việc thành lập cơ quan thanh tra chuyên ngành tại một số Tổng cục, Cục được phân cấp quản lý là hết sức cần thiết (lý do đã giải thích ở trên). Do đó, pháp luật về tổ chức của Thanh tra chuyên ngành nhất thiết phải bổ sung quy định về Thanh tra Tổng cục, Thanh tra Cục. Tuy nhiên, cần thống nhất rằng không phải ở bất kỳ Tổng cục, Cục nào cũng thành lập cơ quan thanh tra mà chỉ nên thành lập ở một số Tổng cục, Cục, tránh tình trạng thành lập Thanh tra Tổng cục, Thanh tra Cục tràn lan, không hiệu quả. Ví dụ đối với một số Tổng cục, Cục trực tiếp là đơn vị tác nghiệp nên chỉ đơn thuần thực hiện việc quản lý mang tính nội bộ đối với đội ngũ cán bộ, công chức của mình (Cục công nghệ thông tin thuộc Bộ Tư pháp; Cục công nghệ thông tin thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường...). Đối với loại Tổng cục, Cục này thì trong thực tế cũng phát sinh nhu cầu thanh tra, nhưng chỉ có một loại là thanh tra hành chính, tức thanh tra đối với hoạt động của chính đội ngũ cán bộ, công chức của Tổng cục, Cục. Về nguyên tắc thì do các Tổng cục, Cục này là đơn vị độc lập, tuy không quản lý đối với các đối tượng là cơ quan, tổ chức, cá nhân bên ngoài nhưng vẫn thực hiện quản lý đối với đội ngũ cán bộ, công chức của cơ quan mình nên vẫn cần có hoạt động thanh tra để tham mưu giúp mình trong việc quản lý đội ngũ này. Tuy nhiên, do các Tổng cục, Cục này không được phân cấp quản lý hành chính nhà nước nên tính độc lập không cao, chỉ đơn thuần quản lý đối với đội ngũ cán bộ, công chức của mình nên phần nào trùng với trách nhiệm quản lý của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ. Vì thế, đối với các Tổng cục, Cục loại này không nhất thiết phải thành lập cơ quan thanh tra để tham mưu cho mình trong quản lý mà hoàn toàn có thể sử dụng cơ chế “kiểm tra” để quản lý đội ngũ cán bộ, công chức trực thuộc; còn trong trường hợp cần thiết vượt quá thẩm quyền của Tổng cục, Cục thì Thanh tra Bộ sẽ tiến hành thanh tra để tham mưu cho Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ trong việc quản lý. Quy định như vậy nhằm đơn giản hoá tổ chức thanh tra tại các Bộ, cơ quan ngang Bộ như mục tiêu đề ra khi xây dựng Luật Thanh tra năm 2004. 

Để bảo đảm cho việc Thanh tra Tổng Cục, Thanh tra Cục thành lập là phù hợp và cần thiết thì pháp luật cần đưa ra các tiêu chí cụ thể cho các Tổng cục, Cục được phép thành lập cơ quan thanh tra. Đồng thời, Luật Thanh tra nên sửa đổi theo hướng quy định rõ: Thanh tra Tổng cục, Thanh tra Cục chỉ đảm nhận chức năng thanh tra chuyên ngành; còn thanh tra hành chính thì vẫn nên để Thanh tra Bộ đảm nhiệm. Bên cạnh đó, thực tế tổ chức bộ máy Nhà nước ta cho thấy, ngoài các Tổng cục, Cục được phân cấp quản lý nhà nước còn có một số ủy ban, Ban thuộc Bộ cũng được giao chức năng này, chẳng hạn như ủy ban chứng khoán thuộc Bộ Tài chính, Ban cơ yếu Chính phủ thuộc Bộ Nội vụ... Đối với các cơ quan này cũng cần được thành lập cơ quan thanh tra để đảm nhiệm chức năng thanh tra chuyên ngành trong phạm vi lĩnh vực phụ trách [16, tr31].

Vấn đề này cũng đã được đề cập đến trong dự thảo sửa đổi Luật Thanh tra mà Chính phủ trình Quốc hội vào tháng 1 năm 2009. Như vậy có thể nói, trong quá trình hoàn thiện pháp luật thanh tra nói chung, pháp luật thanh tra chuyên ngành nói riêng việc bổ sung quy định thành lập Thanh tra Tổng cục, Thanh tra Cục thuộc Bộ là rất cần thiết, phù hợp với thực tiễn của hoạt động thanh tra chuyên ngành hiện nay. 

Mặt khác, hiện nay trên thực tế không còn cơ quan thuộc Chính phủ có chức năng quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực. Vì vậy, quy định tại điểm a khoản 1 Điều 23 Luật Thanh tra về việc thành thành lập cơ quan thanh tra để thực hiện hoạt động thanh tra chuyên ngành đối với cơ quan thuộc Chính phủ có chức năng quản lý hành chính nhà nước theo ngành, lĩnh vực nên được bãi bỏ cho phù hợp với thực tiễn.

- Việc thành lập thanh tra chuyên ngành ở một số ngành, lĩnh vực ở cấp huyện và cấp xã như hiện nay là không cần thiết: 

Hiện nay một số ngành, lĩnh vực đã thành lập cơ quan thanh tra chuyên ngành ngoài quy định của Luật thanh tra. Đây là vấn đề cần được tổng kết, đánh giá kỹ càng. Tuy nhiên theo chúng tôi việc thành lập cơ quan thanh tra chuyên ngành ở một số ngành, lĩnh vực ở cấp huyện và cấp xã là không thiết thực và hiệu quả, có thể làm phát sinh nhiều vấn đề phức tạp trong hoạt động thanh tra và không phù hợp với quy định về tổ chức thanh tra chuyên ngành của Luật thanh tra hiện nay. Nguyên nhân chính của việc xuất hiện những cơ quan thanh tra chuyên ngành ngoài quy định của Luật Thanh tra hiện nay là do thiếu lực lượng thanh tra chuyên ngành để đảm nhiệm hoạt động thanh tra. Vì vậy, đối với những ngành, lĩnh vực này giải pháp tối ưu là phải đào tạo, bổ sung thêm lực lượng thanh tra viên chuyên ngành đảm bảo thực hiện tốt công tác thanh tra.

- Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thanh tra theo ngành, lĩnh vực: 

Nhằm tăng cường tính chủ động trong hoạt động thanh tra, cần bổ sung nhiệm vụ, quyền hạn cho cơ quan thanh tra và người đứng đầu cơ quan thanh tra ví dụ: như sau: Đối với người đứng đầu cơ quan thanh tra, đề nghị bổ sung trách nhiệm theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra thuộc phạm vi trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước; chủ trì giải quyết chồng chéo về chương trình, kế hoạch, nội dung với cơ quan thanh tra cấp dưới; giúp thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp thanh tra trách nhiệm đối với thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cấp dưới trong việc thực hiện pháp luật về thanh tra; kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, đình chỉ hoặc huỷ bỏ những quy định trái pháp luật được phát hiện qua công tác thanh tra; Cơ quan thanh tra theo ngành, lĩnh vực thực hiện hai hoạt động thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành do đó việc xác định phạm vi thẩm quyền và nhiệm vụ thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành là rất quan trọng đảm bảo cho các cơ quan này thực hiện tốt chức năng của mình. Bên cạnh đó cần tăng cường phối hợp hoạt động giữa các cơ quan thanh tra theo cấp hành chính và cơ quan thanh tra theo ngành, lĩnh vực. Nâng cao việc sử dụng kết quả giữa thanh tra theo cấp hành chính và thanh tra theo ngành, lĩnh vực nhằm tránh hiện tượng chồng chéo trong hoạt động thanh tra…

- Cần quy định thêm quyền cho Trưởng đoàn thanh tra, Thanh tra viên khi thực hiện hoạt động thanh tra chuyên ngành:

Nhằm tạo ra sự chủ động cho Trưởng đoàn thanh tra, Thanh tra viên khi thực hiện hoạt động thanh tra chuyên ngành, pháp luật cần có những quy định theo hướng mở rộng thêm quyền cũng như trách nhiệm cho các đối tượng này. Ví dụ như quyền được “quyết định trưng cầu giám định và chịu trách nhiệm đối với quyết định ấy” khi tiến hành hoạt động thanh tra để tăng thêm tính chủ động của các chủ thể đảm bảo cho hiệu quả của hoạt động thanh tra.

- Bảo đảm thi hành kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra:

Nhằm khắc phục tình trạng các yêu cầu, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra chưa được cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan thực hiện nghiêm chỉnh, tránh sự chậm trễ, kéo dài hoặc xử lý thiếu nghiêm minh. Cần quy định cụ thể hơn trách nhiệm của người có thẩm quyền trong việc thực hiện kiến nghị, kết luận thanh tra. Theo đó, thủ trưởng cơ quan quản lý hành chính nhà nước, trong thời hạn hợp lý có trách nhiệm xem xét kết luận thanh tra và ra quyết định hoặc yêu cầu thủ trưởng cơ quan, đơn vị thuộc thẩm quyền quản lý thu hồi tiền, tài sản bị chiếm đoạt, sử dụng trái phép hoặc bị thất thoát; xem xét để xử lý hoặc yêu cầu người có thẩm quyền xử lý kỷ luật cán bộ, công chức có hành vi vi phạm pháp luật; áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền hoặc kiến nghị người có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cần thiết để chấn chỉnh, khắc phục sơ hở, yếu kém trong công tác quản lý.

- Cần có quy định tăng thêm tính trách nhiệm trong phối hợp hoạt động giữa các cơ quan thanh tra nói chung, cơ quan thanh tra chuyên ngành nói riêng đối với các cơ quan hữu quan trong việc phòng ngừa, phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm.

Để tăng thêm trách nhiệm giữa các cơ quan này có sự liên kết, ràng buộc với nhau trong việc phòng ngừa và xử lý các vi phạm pháp luật, bảo vệ quyền lợi ích cá nhân, tổ chức và Nhà nước chúng tôi đồng ý với ý kiến sửa đổi điều 9 Luật Thanh tra năm 2004 theo hướng như dự thảo sửa đổi Luật thanh tra đã nêu ra. Sự phối hợp giữa cơ quan thanh tra với cơ quan, tổ chức hữu quan là nghĩa vụ, đồng thời cũng cần quy định thêm trách nhiệm cho các cơ quan, tổ chức hữu quan như: cơ quan công an, viện kiểm sát trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình phải xem xét kiến nghị khởi tố vụ án hình sự do cơ quan thanh tra chuyển đến và trả lời việc xử lý kiến nghị đó; cơ quan, tổ chức hữu quan khác khi nhận được yêu cầu, kiến nghị, quyết định xử lý của cơ quan thanh tra có trách nhiệm phối hợp với cơ quan thanh tra để thực hiện các yêu cầu, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra. 

- Cần ban hành nghị định mới quy định về hoạt động thanh tra chuyên ngành đối với các doanh nghiệp: 

Hiện nay công tác thanh tra chuyên ngành đối tượng chủ yếu của nó là các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khác nhau. Vì vậy, nhằm đảm bảo cho việc thực hiện hoạt động thanh tra chuyên ngành đối với các doanh nghiệp này đạt hiệu quả, vấn đề đặt ra là phải xây dựng một văn bản quy phạm pháp luật mới thay thế Nghị định số 61/1998/NĐ- CP ngày 15 tháng 8 năm 1998 đã không còn phù hợp với hoạt động thanh tra hiện nay. 

- Về thanh tra viên:

Hiện nay, nhân lực trong thanh tra chuyên ngành hiện nay đang thiếu về số lượng và yếu về chất lượng, cần sự giúp đỡ của cộng tác viên những người có chuyên môn nhưng không được đào tạo về nghiệp vụ thanh tra và cũng không phải là lực lượng chuyên trách thực hiện nhiệm vụ thanh tra.Vì vậy để giải quyết vấn đề này, vấn đề đặt ra là cần phải tăng cường công tác đào tạo cả về số lượng và chất lượng, bồi dưỡng về nghiệp vụ thanh tra cũng như kiến thức chuyên môn liên quan đến ngành cho cán bộ, thanh tra viên đảm bảo nhân lực cho hoạt động thanh tra chuyên ngành đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Bên cạnh đó, cũng cần có chế độ tiền lương, thưởng và phụ cấp hợp lý để các thanh tra viên yên tâm thực hiện nhiệm vụ của mình.

- Đảm bảo về kinh phí, cơ sở vật chất và những điều kiện cần thiết phục vụ cho hoạt động thanh tra chuyên ngành: 

Một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của thanh tra chuyên ngành hiện nay là do thiếu kinh phí, cũng như cơ sở vật chất không đáp ứng để có thể hoạt động thanh tra một cách thường xuyên, đúng chương trình, đúng kế hoạch và đạt hiệu quả cao. Quy định của pháp luật về Ngân sách Nhà nước cần phải đảm bảo đủ kinh phí hoạt động cho các cơ quan này hoặc quy định cho phép các cơ quan thanh tra chuyên ngành có thể thực hiện một số hoạt động phù hợp nhằm bổ sung hỗ trợ thêm phần kinh phí.

- Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về thanh tra chuyên ngành, tổ chức lấy ý kiến nhằm hoàn thiện pháp luật thanh tra chuyên ngành.

Để pháp luật về thanh tra không ngừng được hoàn thiện thì các cơ quan, tổ chức cũng cần phải có biện pháp đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến những quy định về thanh tra chuyên ngành. Để từ cán bộ, thanh tra viên chuyên ngành đến các đối tượng của thanh tra chuyên ngành đều thực hiện một cách nghiêm chỉnh, thống nhất. Bên cạnh đó, khi xây dựng, bổ sung pháp luật về thanh tra chuyên ngành không những các cơ quan thẩm quyền chỉ xin ý kiến của các chuyên gia mà cũng cần phải tổ chức lấy ý kiến của nhân dân, phần lớn họ là đối tượng của thanh tra chuyên ngành. Những ý kiến này sẽ góp phần làm cho quy định của pháp luật về thanh tra chuyên ngành hoàn thiện, phù hợp với thực tiễn hơn.

KẾT BÀI

Sự ra đời của thanh tra nói chung và thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước là một tất yếu khách quan. Thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước có ý nghĩa hết sức quan trọng thể hiện mối quan hệ giữa Nhà nước và xã hội. Thanh tra chuyên ngành cùng với hoạt động thanh tra khác góp phần xây dựng một thiết chế hữu hiệu, phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, phát hiện những sơ hở trong cơ chế, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục, phát huy nhân tố tích cực, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý hành chính nhà nước, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân.

Những quy định của pháp luật hiện hành đã góp phần không nhỏ trong việc tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của thanh tra chuyên ngành. Giúp cho thanh tra chuyên ngành khi thực hiện hoạt động phát huy tích cực được chức năng của mình, góp phần phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện nhiều quy định của pháp luật đã không còn phù hợp, nảy sinh những bất cập và hạn chế làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động thanh tra chuyên ngành. Vì vậy nhu cầu đặt ra hiện nay là cần phải có những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thanh tra chuyên ngành. Để thanh tra chuyên ngành phát huy được vai trò của nó trong cơ chế mới. Tuy nhiên những giải pháp đưa ra cần phải được xem xét một cách kỹ lưỡng, đảm bảo tuân thủ những nguyên tắc mang tính kim chỉ nam và tính đến những yếu tố liên quan, ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật thanh tra chuyên ngành, để có thể đưa ra những giải pháp hợp lý. 

Qua phân tích trên phương diện lý luận chúng tôi đã phần nào giúp người đọc hiểu được thế nào là thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước, đặc điểm cũng như vai trò của nó. Đồng thời từ việc đánh giá thực trạng quy định của pháp luật hiện nay về thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước chúng tôi đã đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn đề này. Hi vọng, những giải pháp chúng tôi đưa ra trong khóa luận sẽ phần nào giúp ích cho quá trình hoàn thiện pháp luật về thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước đang đặt ra ở Việt Nam hiện nay. 

No comments:

Post a Comment