20/08/2014
Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân
1. Các khái niệm cơ bản

Trách nhiệm hình sự (TNHS) là một dạng của trách nhiệm pháp lý (TNPL), là hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội phạm, đồng thời được thể hiện bằng việc áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do Bộ luật Hình sự (BLHS) đối với người phạm tội. Do đó, TNHS một vấn đề trọng tâm, xuyên suốt trong quá trình giải quyết bất kỳ một vụ án nào và việc làm sáng tỏ TNHS đối với một nhóm tội phạm cụ thể không thể thiếu đề cập đến những vấn đề chung vê khái niệm của nhóm tội phạm này. Bởi lẽ, BLHS Việt Nam năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009, sau đây gọi tắt là BLHS hiện hành) khi quy định các tội xâm phạm các quyền tự do dân chủ (TDDC) của công dân tại Chương XIII đã thể hiện sự tôn trọng và bảo vệ các quyền TDDC của công dân đã được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận, nhưng mặt khác, cũng thể hiện đây chính là cơ sở pháp lý chắc chắn nhằm xử lý nghiêm minh, kịp thời và đúng pháp luật những người nào đã xâm phạm đến các quyền TDDC của công dân.

1.1. Khái niệm các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân


Trong các giáo trình luật hình sự và một số sách nghiên cứu, bình luận chuyên sâu hiện nay có rất nhiều khái niệm khác nhau về các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân, có thể điểm qua như sau:


PGS. TS. Trần Văn Luyện quan niệm: “Các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực TNHS gây ra, có lỗi, làm nguy hại đến những quyền TDDC của công dân được quy định trong Hiến pháp năm 1992”[1].

ThS. Đinh Văn Quế viết: “Các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực TNHS thực hiện một cách cố ý, xâm phạm đến quyền TDDC của công dân”[2].

TS. Trịnh Tiến Việt và tập thể tác giả quan niệm: “Các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do những người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện một cách cố ý, xâm phạm đến quyền TDDC của công dân được Hiến pháp ghi nhận và pháp luật hình sự bảo vệ”[3].

Tuy nhiên, dưới góc độ khoa học, quan điểm của PGS. TS. Phạm Hồng Hải và GS. TSKH. Lê Cảm bao quát như sau: “Các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân là những hành vi (hành động hoặc không hành động) nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS do người đạt tới một độ tuổi nhất định, có đủ năng lực TNHS và trong một số trường hợp có đủ dấu hiệu của chủ thể đặc biệt của tội phạm thực hiện một cách cố ý xâm phạm tới các quyền TDDC của công dân được quy định là khách thể bảo vệ của luật hình sự”[4]. v.v...

Theo chúng tôi, về cơ bản các quan điểm trên đều phản ánh nội hàm khái niệm các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân. Tuy nhiên, ở chừng mực nhất định, có quan điểm lại chưa đề cập đến dấu hiệu “đủ tuổi chịu TNHS” của chủ thể hoặc chưa khẳng định rõ khách thể của tội phạm này - xâm phạm đến các quan hệ xã hội được Hiến pháp, và cụ thể là pháp luật hình sự xác lập và bảo vệ.

Dưới góc độ chung, quyền TDDC được hiểu là quyền làm chủ của người dân đối với Nhà nước, xã hội, quyền làm chủ suy nghĩ, hành động của bản thân mình trên cơ sở tôn trọng lợi ích chung và trật tự của cộng đồng, xã hội. Là các quyền con người nên quyền TDDC đương nhiên cũng là quyền tự nhiên, vốn có. Tuy nhiên, những quyền này chỉ thực sự có ý nghĩa trên thực tế khi nó được thừa nhận và bảo hộ bởi Nhà nước, được ghi nhận trong Hiến pháp và đồng thời được bảo vệ bằng pháp luật, đặc biệt là pháp luật hình sự. Do đó, để giải thích khái niệm quyền TDDC cần xuất phát từ cặp khái niệm “tự do” và “dân chủ”. Theo Từ điển Tiếng Việt, tự do được hiểu với hai nghĩa: “1) Phạm trù triết học chỉ khả năng biểu hiện ý chí, hành động theo ý muốn của mình trên cơ sở nhận thức quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội; 2) Quyền được sống và hoạt động xã hội theo ý nguyện của mình, không bị cấm đoán, ràng buộc, xâm phạm”[5]. Còn trong Triết học, một trong những cách hiểu được thừa nhận rộng rãi nhất về tự do là khái niệm của Locke: “Tự do là khả năng con người có thể làm bất cứ điều gì mà mình mong muốn mà không gặp bất kỳ cản trở nào”[6]. Theo đó, tự do là quyền, là khả năng của con người được biểu hiện bởi sự làm chủ trong suy nghĩ, hành động của mình mà không bị trói buộc, kìm hãm. Như vậy, tự do thể hiện, hành động theo mong muốn của bản thân mình nhưng phải trên cơ sở nhận thức và tôn trọng cái tất yếu - các quy luật tự nhiên, xã hội. Do đó, tự do là khả năng của con người biểu hiện ý chí và hành động theo ý muốn của mình mà không ngăn cấm, cản trở, ràng buộc.

Trong khi đó, dân chủ luôn song hành với tự do. Trong Từ điển Tiếng Việt, dân chủ có hai nghĩa: “1) Dân chủ là dân có quyền tham gia, bàn bạc vào công việc chung, quyền lợi của từng thành viên trong xã hội được tôn trọng; 2) Dân chủ là chế độ chính trị theo đó quyền làm chủ thuộc về nhân dân”[7]. Xét trong mối quan hệ với tự do và pháp luật, muốn có dân chủ thực sự, thì dân chủ phải đặt trong mối quan hệ với tự do và pháp luật. Theo đó, pháp luật là đại lượng, động lực thúc đẩy và phát triển và là phương tiện của dân chủ. Pháp luật còn là điều kiện, là bảo đảm của dân chủ. Đến lượt mình, dân chủ lại làm cho pháp luật phát triển và trở nên công bằng hơn, hoàn thiện hơn cũng như bảo vệ vững chắc các quyền và tự do của con người hơn. Dân chủ nếu được xem xét với tư cách là quyền dân chủ, tự do được xem với tư cách là quyền tự do lúc này các quyền TDDC chính là các quyền con người và là sự cụ thể hóa quyền con người trong pháp luật...[8].

Qua sự phân tích trên, dưới góc độ khoa học, quyền TDDC của công dân là quyền làm chủ của người dân đối với Nhà nước, xã hội; quyền làm chủ suy nghĩ, hành động của bản thân mình trên cơ sở tôn trọng lợi ích chung và trật tự của cộng đồng, của xã hội. Là các quyền con người nên quyền TDDC chỉ thực sự có ý nghĩa trên thực tế khi nó được thừa nhận và bảo hộ bởi Nhà nước.

Các quyền TDDC của công dân Việt Nam được quy định bởi Hiến pháp và pháp luật (trong đó có pháp luật hình sự) thể hiện tính đầy đủ và tính rộng rãi, công bằng. Tính đầy đủ thể hiện ở chỗ mọi công dân của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều có các quyền trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong khi đó, tính rộng rãi và công bằng lại được thể hiện ở chỗ: mọi công dân không phân biệt về trình độ chính trị, kinh tế, văn hóa, giới tính... đều được hưởng các quyền cơ bản mà Hiến pháp và pháp luật đã quy định. Trong những quyền này, các quyền TDDC của công dân lại được bảo đảm thực hiện trên nguyên tắc thống nhất với các nghĩa vụ của công dân, bên cạnh đó, cũng loại trừ việc lợi dụng quyền TDDC để đi ngược lại lợi ích chung của cộng đồng, của xã hội và của Nhà nước. Nếu vi phạm các quyền này, ở mức độ nghiêm khắc nhất thì người vi phạm sẽ bị xử lý theo những quy định trong Chương XIII - Các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân của BLHS.

Nghiên cứu các quy định liên quan đến các tội xâmphạm quyền TDDC của công dân tại Chương XIII BLHS, có thể thấy những đặc điểm cơ bản của nhóm tội phạm này như sau:

Một là, căn cứ tên gọi của Chương XIII BLHS là: “Các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân”, do đó các tội phạm được quy định tại Chương này xâm phạm tới các quan hệ xã hội liên quan tới việc xác lập và thực hiện các quyền TDDC của công dân đã được Hiến pháp và pháp luật hình sự ghi nhận. Ngoài ra, tùy từng trường hợp tương ứng có thể gián tiếp xâm phạm đến một số quan hệ khác như: tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa (XHCN).

Hai là, các hành vi phạm tội của nhóm tội xâm phạm các quyền TDDC công dân chủ yếu được thực hiện dưới dạng hành động phạm tội. Tuy nhiên, hành vi phạm tội xâm phạm tới các quyền này cũng còn có thể được thể hiện dưới dạng không hành động phạm tội tùy vào từng cấu thành tội phạm cụ thể tương ứng trong chương tội phạm đã nêu.

Ba là, chủ thể của các tội phạm này là những người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS do luật định tương ứng với các cấu thành tội phạm cụ thể. Tuy nhiên, cũng có một số tội xâm phạm các quyền TDDC của công dân có chủ thể đặc biệt, có nghĩa đòi hỏi chủ thể của tội phạm phải có thêm dấu hiệu là người có chức vụ, quyền hạn hoặc là người đang đảm nhiệm một công việc nhất định nào đó, và điều kiện chủ thể này cũng tùy thuộc vào từng cấu thành tội phạm cụ thể.

Bốn là, dấu hiệu lỗi, người thực hiện hành vi phạm tội xâm phạm quyền TDDC của công dân phải là người có lỗi. Lỗi là thái độ tâm lý của một người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả của hành vi đó dưới hình thức cố ý hoặc vô ý. Luật hình sự Việt Nam không chấp nhận hình thức buộc tội khách quan; tội phạm là hành vi tổng hợp các yếu tố chủ quan và khách quan, các yếu tố này có liên quan chặt chẽ với nhau trong một thể thống nhất. Nói một cách khác, bất kỳ hành vi phạm tội nào, dù ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng, dù xâm phạm đến quan hệ xã hội nào, dù mức hình phạt và loại hình phạt ít nghiêm khắc hay có nghiêm khắc đến như thế nào đi chăng nữa, thì “cũng đều là thể thống nhất giữa mặt khách quan và mặt chủ quan - giữa những biểu hiện bên ngoài và những quan hệ tâm lý bên trong, đều là hoạt động của con người cụ thể xâm hại hoặc nhằm xâm hại quan hệ xã hội nhất định”[9].

Trên cơ sở phân tích các quan niệm và với các đặc điểm ở trên, theo chúng tôi, dưới góc độ khoa học luật hình sự, các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện một cách cố ý, xâm phạm đến quyền TDDC của công dân được Hiến pháp và pháp luật hình sự ghi nhận, bảo vệ.

1.2. Khái niệm trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân

TNHS là một trong những vấn đề lý luận phức tạp, giải quyết bất kỳ nội dung nào trong khoa học luật hình sự, suy cho cùng, đều là giải quyết vấn đề TNHS. Cho đến nay trong giới luật học vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau xoay quanh khái niệm TNHS, hình thức biểu hiện của TNHS, các cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp tác động của TNHS; v.v...

Khái niệm TNPL vốn cũng được hiểu theo nhiều nghĩa, do vậy khái niệm TNHS cũng có nhiều cách hiểu khác nhau. Do đó, chúng tôi tiếp cận các khái niệm TNHS chung, từ đó đưa ra khái niệm TNHS đối với nhóm tội phạm này theo nghĩa tương ứng.

Có tác giả cho rằng: “TNHS là một dạng TNPL, là hậu quả pháp lý bất lợi mà người phạm tội phải gánh chịu trước Nhà nước do việc người đó thực hiện tội phạm và là kết quả của việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự, được thể hiện ở bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật và một số biện pháp cưỡng chế hình sự khác do luật hình sự quy định”[10]. Theo nghĩa này, TNHS đối với các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân được hiểu là hậu quả pháp lý bất lợi mà người phạm tội phải gánh chịu trước Nhà nước do việc người đó thực hiện tội phạm xâm phạm quyền TDDC của công dân và là kết quả của việc Tòa án áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội xâm phạm quyền TDDC của công dân.

Như vậy, khái niệm về TNHS này được xây dựng dựa trên cơ sở sự tổng hợp các đặc điểm cấu thành của nó bao gồm: TNHS là hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi bị luật hình sự coi là tội phạm; TNHS là trách nhiệm của cá nhân người phạm tội; TNHS được thể hiện ở bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật và; TNHS là trách nhiệm trước Nhà nước chứ không phải là trách nhiệm trước cá nhân người bị hại.

Có tác giả lại cho rằng, “TNHS là một dạng của TNPL, là hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội phạm, đồng thời được thể hiện bằng việc áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do BLHS quy định đối với người phạm tội”[11]. Do đó, theo nghĩa này, TNHS  đối với các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân là một dạng của TNPL, là hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân, đồng thời được thể hiện bằng việc áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do BLHS quy định đối với người phạm tội xâm phạm quyền TDDC của công dân.

Tuy nhiên, cách hiểu này về TNHS còn chung, ở một góc độ nào đó chưa phân định rõ bản chất của TNHS với hình thức biểu hiện của TNHS, đặc biệt là vấn đề hậu quả của những người phạm các tội này (hình phạt, biện pháp tư pháp, việc truy cứu, chịu án tích...).

Ngoài ra, phổ biến hơn là các khái niệm về TNHS theo nghĩa tổng thể (nghĩa rộng) và nghĩa trực tiếp.

Theo nghĩa tổng thể, TNHS bao gồm hai mặt đan xen thống nhất là: “1) thực hiện TNHS từ phía Nhà nước; và 2) chịu TNHS của người phạm tội. TNHS thực chất là nội dung của mối quan hệ giữa Nhà nước và người phạm tội, phát sinh từ thời điểm tội phạm được thực hiện, và được cụ thể hoá bằng các quyền và nghĩa vụ của Nhà nước và người phạm tội”[12].Theo nghĩa này, TNHS  đối với các tội xâm phạm quyền TDDC của công dânlà tổng hợp các quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể tham gia quan hệ pháp luật hình sự - phát sinh trên cơ sở một hành vi phạm tội xâm phạm quyền TDDC của công dân được thực hiện. Các bên chủ thể tham gia quan hệ pháp luật hình sự này, cũng như các quan hệ pháp luật hình sự nói chung là Nhà nước và người phạm tội.

Như vậy, theo khái niệm này, Nhà nước và người phạm tội đồng thời là hai bên chủ thể của TNHS. Nhà nước là bên thực hiện TNHS. Người phạm tội là bên chịu TNHS. Nhà nước, đại diện là các cơ quan tiến hành tố tụng có quyền truy tố, xét xử và buộc người phạm tội phải chịu hình phạt tương xứng và có nghĩa vụ đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người phạm tội không bị xâm phạm. Người phạm tội có nghĩa vụ phải chịu sự tác động của hoạt động truy cứu TNHS, của các biện pháp cưỡng chế Nhà nước và có quyền yêu cầu Nhà nước đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Ngoài ra, theo nghĩa trực tiếp, “TNHS là nghĩa vụ của người phạm tội đối với Nhà nước do việc thực hiện hành vi phạm tội, bao hàm nghĩa vụ phải gánh chịu các hậu quả pháp lý bất lợi mà pháp luật quy định đối với hành vi phạm tội đó”[13].Tương tự, TNHS  đối với các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân là nghĩa vụ của người phạm tội đối với Nhà nước phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi do việc đã thực hiện hành vi bị coi là tội phạm xâm phạm quyền TDDC của công dân.

Chúng tôi cho rằng, khái niệm TNHS theo nghĩa trực tiếp không hề mâu thuẫn với khái niệm TNHS theo nghĩa rộng. Nghĩa vụ của người phạm tội phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi do việc đã thực hiện hành vi bị coi là tội phạm xâm phạm quyền TDDC của công dân đồng thời cũng chính là quyền và nghĩa vụ của Nhà nước buộc người phạm tội gánh chịu các hậu quả bất lợi đó. Tuy nhiên, cách tiếp cận và diễn đạt TNHS theo nghĩa trực tiếp không phản ánh được hết mối quan hệ giữa các bên chủ thể của TNHS. Khái niệm TNHS theo nghĩa rộng lại chưa phản ánh được nội dung trực tiếp của TNHS.

Gắn với cách hiểu về TNHS theo nghĩa trực tiếp, thuật ngữ TNHS đối với các tội phạm xâm phạm quyền TDDCcủa công dân chỉ mang tính quy ước và đã được sử dụng thành thông lệ trong nghiên cứu khoa học và thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự. Thực chất đây là TNHS của người phạm tội xâm phạm quyền TDDC của công dân.

Chúng tôi cho rằng có thể đưa ra một cách diễn đạt về TNHS đối với các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân vừa trực tiếp thể hiện nội dung cơ bản của TNHS vừa phản ánh được mối quan hệ giữa các bên chủ thể của TNHS, thông qua khái niệm cơ bản và tổng quát sau: TNHS đối với các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân là nghĩa vụ pháp lý mà người đã thực hiện hành vi bị coi là tội phạm, xâm phạm quyền TDDC của công dân phải thực hiện theo quy định của pháp luật hình sự, thể hiện trong sự tác động mang tính cưỡng chế của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng.

Trên cơ sở khái niệm này, căn cứ vào các quy định của BLHS và thực tiễn áp dụng, có thể chỉ ra các đặc điểm cơ bản của TNHS đối với các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân như sau:

* Thứ nhất, TNHS đối với các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân mang đầy đủ các đặc điểm của TNHS đối với tội phạm nói chung. Đó là:

(i) TNHS luôn được thực hiện trong phạm vi của quan hệ pháp luật hình sự giữa hai bên chủ thể có quyền và nghĩa vụ đối nhau: Nhà nước và người phạm tội. Sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật hình sự đồng thời cũng làm phát sinh TNHS. TNHS đối với các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân phát sinh khi có hành vi bị coi là tội phạm xâm phạm quyền TDDC của công dân.

(ii) TNHS được biểu hiện cụ thể ở việc Nhà nước cưỡng chế và người phạm tội phải gánh chịu các hậu quả pháp lý bất lợi do việc đã thực hiện hành vi phạm tội. Các hậu quả mà người phạm tội phải gánh chịu với ý nghĩa là hình thức biểu hiện cụ thể của TNHS phải mang tính pháp lý, nghĩa là phải được quy định trong luật hình sự hoặc tố tụng hình sự. Đó là hậu quả phải chịu sự tác động của các hoạt động truy cứu TNHS, chịu bị kết tội, chịu biện pháp cưỡng chế của TNHS (hình phạt, biện pháp tư­ pháp) và mang án tích. Trong đó hình phạt là biện pháp cưỡng chế Nhà nước nghiêm khắc nhất đối với người phạm tội. Hình phạt là một dạng (hình thức) phổ biến và chủ yếu của TNHS. Hình phạt có thể được áp dụng đối với người phạm các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân được quy định trong các điều luật cụ thể của Chương XIII BLHS hiện hành.

(iii) TNHS là trách nhiệm của cá nhân người phạm tội phải gánh chịu trực tiếp và trước Nhà nước. Theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam, chủ thể của tội phạm nói chung và của các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân nói riêng được xác định chỉ với t­ư cách là cá nhân. Vì vậy, TNHS được đặt ra cũng chỉ với cá nhân người phạm tội. Vấn đề TNHS đối với pháp nhân không còn xa lạ với pháp luật hình sự của nhiều quốc gia trên thế giới[14], song vẫn chưa được ghi nhận trong BLHS Việt Nam. Trong trường hợp tội phạm do người đại diện pháp nhân thực hiện không chỉ vì lợi ích của cá nhân người đó mà còn vì lợi ích của các pháp nhân thì TNHS cũng chỉ có thể áp dụng đối với cá nhân người phạm tội. TNHS mà người phạm tội phải gánh chịu là trách nhiệm đối với Nhà nước chứ không phải đối với người mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị hành vi phạm tội trực tiếp xâm hại.

(iv) TNHS được thực hiện bằng biện pháp cưỡng chế nhà nước đặc biệt là hình phạt. Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước so với các biện pháp cưỡng chế pháp lý khác. Người chịu TNHS phải bị tước bỏ hoặc hạn chế các quyền và lợi ích hợp pháp về vật chất hoặc tinh thần và việc đó được bảo đảm thực hiện bằng bộ máy cưỡng chế của Nhà nước.

* Thứ hai, TNHS đối với các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân cũng mang những đặc điểm riêng. Theo đó, nội dung của đặc điểm này được phản ánh như sau:

(i) Pháp luật hình sự của các nước trên thế giới và Việt Nam hầu như không có sự khác biệt trong việc nhìn nhận và xử lý đối với một số nhóm tội khác như: các tội xâm phạm an ninh quốc gia, nhân thân, sở hữu.., cho dù các nước này có khác nhau về chế độ chính trị, văn hóa, xã hội, trình độ phát triển kinh tế... Tuy nhiên, nếu nền văn minh, dân chủ, tiến bộ xã hội ở mỗi quốc gia đạt được ở mức độ phát triển khác nhau thì tất yếu dẫn đến quy định khác nhau về các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân và TNHS đối với các tội phạm này. Ngoài ra, ở cùng một quốc gia với sự xác lập ổn định về thể chế chính trị, chế độ kinh tế, nhưng trong các giai đoạn phát triển khác nhau, giai cấp cầm quyền cũng có thể đ­ưa ra các chính sách hình sự xử lý đối với hành vi xâm phạm quyền TDDC của công dân và do đó cũng có thể kéo theo những sửa đổi về TNHS đối với các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân để phù hợp với điều kiện phát triển xã hội trong từng giai đoạn. Tuy nhiên, luôn theo chiều hướng, đất nước, xã hội ngày càng văn minh, hiện đại, tiến bộ, tăng cường hội nhập quốc tế bao nhiêu thì việc đòi hỏi bảo đảm các quyền của công dân tăng lên bấy nhiêu, trong đó đặc biệt là các quyền TDDC ngày càng phải được tôn trọng và bảo vệ, thì việc sửa đổi, bổ sung những quy định về các tội phạm liên quan xâm phạm quyền TDDC công dân và TNHS đối với các tội phạm này cũng là một đòi hỏi tất yếu, khách quan nhằm thích ứng, phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện chính trị - kinh tế- xã hội của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn phát triển. Điều này tạo nên tính “động” rất đặc trưng ở nhóm tội xâm phạm các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân và TNHS đối với nhóm tội này.

(ii) Lý luận cũng như thực tiễn đã chỉ ra rằng tội phạm nói chung đều có tính lịch sử và tính phụ thuộc pháp lý, nghĩa là có tính “động”. Đối với những nhóm tội như các tội xâm phạm an ninh quốc gia, các tội xâm phạm quan hệ nhân thân, sở hữu..., các đặc tính này thường chỉ thể hiện sau một thời gian dài vận động, gắn liền với các biến cố chính trị, kinh tế xã hội rõ nét. Đối với nhóm tội xâm phạm quyền TDDC của công dân, nhất là trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế, tăng cường hội nhập quốc tế, tiến hành cải cách trên nhiều lĩnh vực và trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, tiến tới xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh như hiện nay, chúng ta không thể không nhắc đến tính “động” trong các quy định về tội phạm và chính sách tội phạm nói chung, đối với các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân nói riêng.

(iii) Các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân gắn liền với chế độ chính trị, cơ chế bảo đảm các quyền cơ bản và lợi ích hợp pháp của công dân mà Nhà nước đặt ra và về hình thức, các hành vi xâm phạm TDDC của công dân được xác định bằng việc vi phạm các quy định của Hiến pháp, pháp luật liên quan đến bảo vệ và bảo đảm thực hiện các quyền TDDC của công dân.

2. Các hình thức trách nhiệm hình sự  đối với các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân

Theo lý luận chung, hình thức TNHS (còn được gọi là hình thức biểu hiện cụ thể của TNHS, dạng của TNHS) chính là dạng hậu quả bất lợi mà người phạm tội phải gánh chịu do việc đã thực hiện tội phạm. Phổ biến nhất và nghiêm khắc nhất là hình phạt và kèm theo nó là án tích. Tội phạm luôn gắn liền với hình phạt, hình phạt là hậu quả pháp lý của tội phạm. Đối với một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm thì việc bị đe doạ áp dụng biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước là hình phạt là điều không tránh khỏi. Hình phạt đối với các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân được quy định ngay trong chế tài của các tội phạm cụ thể trong BLHS (hiện nay là Chương XIII của BLHS hiện hành).

Trong các sách báo pháp lý, có ý kiến đồng nhất TNHS với hình phạt - hậu quả bất lợi nhất mà người phạm tội phải gánh chịu về hành vi phạm tội của họ. Theo chúng tôi, TNHS và hình phạt tuy có mối quan hệ mật thiết với nhau nhưng là hai khái niệm riêng biệt. Trong phần lớn các trường hợp, TNHS được thực hiện thông qua việc áp dụng hình phạt - biện pháp cưỡng chế về hình sự của Nhà nước mang tính nghiêm khắc nhất. Hình phạt là hình thức trách nhiệm mang tính phổ biến mà Nhà nước áp dụng đối với người phạm tội.

Hình phạt thực chất là một hình thức biểu hiện cụ thể của hậu quả pháp lý bất lợi mà Nhà nước áp dụng đối với người phạm tội. Tuy nhiên, do TNHS và hình phạt đều gắn liền với tội phạm và chịu hình phạt là hình thức biểu hiện trách nhiệm phổ biến nên không có sự phân định rạch ròi hai khái niệm này trên thực tế. Ý nghĩa của việc phân biệt chúng, theo chúng tôi, cũng chỉ mang tính lý luận.

Chúng tôi cho rằng TNHS đối với các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân không chỉ bó hẹp ở nghĩa vụ phải chịu hình phạt được quy định đối với các tội phạm này, mà còn bao gồm cả nghĩa vụ chịu sự tác động của các hoạt động truy cứu TNHS, chịu bị kết tội, bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế TNHS (hình phạt và các biện pháp tư pháp) và bị mang án tích. Ngay cả trường hợp được miễn TNHS cũng vẫn khẳng định tính chất tội phạm của hành vi mà người đó đã thực hiện và nghĩa vụ pháp lý phải gánh chịu các biện pháp tác động mang tính hình sự (TNHS). TNHS phát sinh từ thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, gắn liền với các hoạt động truy cứu TNHS (nếu có). Miễn TNHS chỉ có thể được áp dụng đối với người thực hiện hành vi phạm tội. Quyết định miễn TNHS của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, một mặt chính là căn cứ pháp lý ghi nhận chính thức hành vi của một người là tội phạm và TNHS của họ, mặt khác cũng là căn cứ chấm dứt TNHS đối với họ do đã thỏa mãn điều kiện được miễn TNHS (Điều 25, Điều 19, khoản 2 Điều 69, Điều 80, khoản 6 Điều 289, khoản 3 Điều 314 BLHS hiện hành). Người được miễn TNHS không phải gánh chịu trên thực tế (được miễn) những hậu quả bất lợi mà luật quy định cho người đã thực hiện tội phạm đó. Việc truy cứu TNHS và áp dụng hình phạt trong những trường hợp này được cho là không cần thiết...[15].

Khi người phạm tội bị tác động bằng hình phạt (phổ biến) hay ngay cả trong trường hợp được miễn hình phạt thì đều có hậu quả là bị mang án tích trong một thời hạn nhất định và bị ghi vào lý lịch tư pháp. Trong thời gian chưa được xóa án tích mà lại phạm tội mới thì tùy từng trường hợp sẽ bị coi là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.

Hình thức TNHS đối với các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân được quy định trong luật và quyết định trên thực tế cũng có các nét riêng biệt so với các hình thức TNHS được quy định và quyết định đối với người phạm các nhóm tội khác. Điều này chịu sự chi phối, đồng thời cũng thể hiện tính chất nguy hiểm cho xã hội, đặc trưng của nhóm các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân và chính sách hình sự của Nhà nước đối với nhóm các tội phạm này.

Hậu quả pháp lý hình sự đối với các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân được quy định trong BLHS nhẹ hơn rất nhiều so với hậu quả pháp lý hình sự đối với một số nhóm tội phạm khác như: các tội xâm phạm an ninh quốc gia, các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người hay các tội xâm phạm sở hữu...Trong BLHS hiện hành, hầu hết các điều luật trong Chương XIII - Các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân quy định hình phạt chính đều là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù dưới 3 năm, ngoại trừ 02 điều luật có hình phạt cao nhất 5 năm tù và 10 năm tù, còn hình phạt chính là tù chung thân, hoặc tử hình không được áp dụng đối với các tội phạm này. Điều này khác hẳn với việc nhiều hình phạt đặc biệt nghiêm khắc được quy định ở các điều luật trong các chương về nhóm tội khác, ví dụ như: hình phạt là tù chung thân, tử hình ở các chương khác có: 9 điều luật Chương các tội xâm phạm an ninh quốc gia; 7 điều luật Chương các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người; 7 điều luật Chương các tội xâm phạm sở hữu… Ở các nhóm tội phạm này, khách thể bị xâm hại là an ninh quốc gia, vận mệnh chính trị và sự tồn tại vững mạnh của chính quyền nhân dân, là các quyền lợi cơ bản về nhân thân, tài sản của đông đảo quần chúng nhân dân.

Có thể lý giải điều này bởi: Ở các giai đoạn phát triển khác nhau của đất nước, các khách thể này luôn được khẳng định về tầm quan trọng hàng đầu cũng như được xác định tương đối nhất quán về các nội dung thể hiện và biểu hiện vi phạm, tội phạm. Quyền TDDC của công dân liên quan đến hoạt động quản lý của Nhà nước và thể hiện ưu điểm của nền dân chủ mang lại cho người dân. Ở mỗi thời kỳ, giai đoạn lịch sử nhất định, Nhà nước luôn có những điều chỉnh để ngày càng ghi nhận và bảo vệ tốt hơn các quyền TDDC của công dân. Điều này cho thấy sự đánh giá tính chất nghiêm trọng và yêu cầu xử lý hình sự các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân có phần nhẹ hơn so với các nhóm tội phạm khác.

Các biện pháp tác động về kinh tế hoặc hạn chế bớt quyền trong thời gian nhất định đối với người phạm tội như phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ với tính chất là hình phạt bổ sung cũng được áp dụng đối với các tội phạm này. Đây là quan điểm đánh giá và xử lý của Nhà nước đối với các hành vi xâm phạm quyền TDDC của công dân xuất phát từ động cơ “chèn ép, vùi dập”, không cho công dân được hưởng những quyền và lợi ích hợp pháp của họ trong việc thực hiện TDDC hoặc xâm phạm đến những quyền này của họ một cách trái pháp luật của người phạm tội (người phạm tội thường là người có chức vụ, quyền hạn mới có cơ hội, điều kiện để phạm tội) và những thiệt hại về kinh tế, tài sản mà hành vi phạm tội đã gây ra cho người bị hại.

Về hậu quả pháp lý hình sự, BLHS quy định hệ thống hình phạt (bao gồm các hình phạt chính và các hình phạt bổ sung) và biện pháp tư pháp với tư cách là các biện pháp tác động TNHS được áp dụng đối với người phạm tội. Tuy nhiên, như trên đã phân tích, không phải tất cả các biện pháp này đều được quy định để áp dụng đối với người phạm tội đối với các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân. Như Điều 28 khoản 2 BLHS hiện hành quy định 7 loại hình phạt bổ sung, bao gồm cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; cấm cư trú; quản chế; t­ước một số quyền công dân; tịch thu tài sản; phạt tiền và trục xuất. Ngoài hình phạt trục xuất không được quy định cụ thể trong các chế tài nói chung, chỉ 2 trong số các hình phạt này được quy định trong khung chế tài bổ sung đối với các tội xâm phạm quyền TDDC công dân, đó là: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định và phạt tiền.

3. Chính sách hình sự đối với các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân

Trong bất cứ một chế độ xã hội có giai cấp nào, giai cấp nắm quyền lực chính trị luôn luôn quan tâm đến việc củng cố các quan hệ pháp luật, sử dụng pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo các mục đích nhất định. Chính sách pháp luật là “những nguyên tắc, định hướng cơ bản trong từng giai đoạn phát triển nhằm tạo ra những cơ sở đúng đắn cho việc sử dụng một cách có hiệu quả các khả năng điều chỉnh của pháp luật; nhằm xác định đúng đắn tổ chức và hoạt động của các cơ quan pháp luật và nhằm xây dựng ở mỗi người dân ý thức và lối sống tuân theo pháp luật”[16]. Do đó, dưới góc độ hẹp, chính sách hình sự là “một bộ phận của chính sách pháp luật. Chính sách hình sự là chính sách sử dụng các biện pháp pháp luật hình sự, cụ thể là đưa ra các định hướng, chủ trương trong việc sử dụng pháp luật hình sự vào lĩnh vực đấu tranh chống tội phạm và phòng ngừa tội phạm”[17].

Như vậy, chính sách hình sự được phản ánh thông qua hoạt động xây dựng pháp luật hình sự mà kết quả là việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hình sự, thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng. Chính sách hình sự là kim chỉ nam cho toàn bộ hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Chính sách hình sự “có thể mang tính chất đường lối, chiến lược lâu dài như “nghiêm trị kết hợp với khoan hồng”, “trừng trị kết hợp với giáo dục, cải tạo”... nhưng cũng có thể mang tính chất sách lược được thực hiện trong những giai đoạn nhất định cũng như đối với các đối tượng nhất định”[18].

Như vậy, lịch sử phát triển của pháp luật hình sự nói chung, pháp luật hình sự về các tội phạm xâm phạm quyền TDDC của công dân nói riêng gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển hơn 60 năm của Nhà nước và pháp luật Việt Nam. Từ khi giành được độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho đến nay, Nhà nước luôn quan tâm đến việc xây dựng và phát triển nền kinh tế đất nước, đồng thời chú ý xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật để bảo vệ nền độc lập, dân chủ của đất nước, trong đó rất quan tâm, chú trọng đến vấn đề bảo vệ các quyền của con người, của công dân và pháp luật hình sự nhằm xử lý các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân. Trong mỗi giai đoạn phát triển của đất nước, Đảng và Nhà nước ta đều có các chủ trương, đường lối, chính sách cụ thể nhằm bảo vệ nền độc lập, dân chủ, bảo vệ chế độ, an ninh chính trị quốc gia và phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội của đất nước trong đó có vấn đề bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của từng thời kỳ. 
Điều này yêu cầu chính sách hình sự cũng luôn phải có sự thay đổi, phát triển phù hợp, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội của đất nước và bảo đảm tôn trọng giá trị con người và các quyền công dân của họ không bị xâm phạm. Chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta trong đấu tranh với các tội phạm nói chung, các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân nói riêng cũng nhằm mục đích nêu trên, nó có ý nghĩa quan trọng, góp phần bảo đảm giữ vững nền an ninh - chính trị quốc gia, tạo điều kiện ổn định trật tự xã hội và sự phát triển bền vững của đất nước, ngăn ngừa các nguy cơ bất ổn, khủng hoảng về an ninh, chính trị và sự phá hoại của các thế lực thù địch; nhất là trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đang chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, đòi hỏi phải có một nền dân chủ cao, trong đó mọi quyền và lợi ích hợp pháp của công dân phải được tôn trọng và bảo đảm thực thi, không bị xâm phạm. Nhìn chung, pháp luật hình sự của Nhà nước ta về các tội phạm xâm phạm quyền TDDC của công dân qua từng thời kỳ đã đáp ứng khá tốt yêu cầu thể chế hoá các chủ trương, đường lối, chính sách như đã nêu trên, với ý nghĩa là công cụ sắc bén của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm.

***

Việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về TNHS đối với tội phạm nói chung, về các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân nói riêng phải đặt trong mối liên hệ tổng thể với chính sách hình sự về tội phạm nói chung, chính sách hình sự đối với các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân nói riêng. Những thay đổi của chính sách hình sự về các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân qua các thời kỳ được phản ánh qua quá trình sửa đổi, bổ sung, pháp điển hóa các quy định pháp luật liên quan, tội phạm hóa và phi tội phạm hóa, hình sự hóa và phi hình sự hóa đối với các hành vi xâm hại quyền TDDC của công dân của Nhà nước, và được cụ thể hóa bằng việc quy định vấn đề TNHS đối với nhóm tội phạm này: tội danh và các dấu hiệu pháp lý xác định tội phạm (định tội); các dấu hiệu định khung tăng nặng, giảm nhẹ hình phạt; cũng như loại và mức hình phạt áp dụng đối với các tội phạm này (định khung hình phạt và quyết định hình phạt)./.

-------------------------------------------------------------------

[1] Xem: Trần Văn Luyện, Chương XIII - Các tội xâm phạm quyền TDDCcủa công dân, Trong sách: Bình luận khoa học BLHS (Phần các tội phạm), Tập thể tác giả, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2001, tr.144.
[2] Xem: Đinh Văn Quế, Bình luận chuyên sâu BLHS, Tập III - Các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân; xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, Nxb. thành phố Hồ Chí Minh, 2002, tr.14.
[3] Xem: Trịnh Tiến Việt (chủ biên), Các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân theo luật hình sự Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010,tr.71-72.
[4] Xem: Phạm Hồng Hải, Lê Cảm, Chương 5 - Các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân, Trong sách: Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Tập thể tác giả, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003, tr.71.
[5] Xem: Nguyễn Như Ý (chủ biên), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 2008, tr.1710.
[6] Xem: Nguyễn Trần Bạt, Biện chứng của tự do, Tạp chí Khoa học và Tổ quốc, số 23 (12)/2004, tr.18.
[7] Xem: Nguyễn Như Ý (chủ biên), Tlđd, tr.398.
[8] Xem: Trịnh Tiến Việt (chủ biên), Tlđd, tr.58.
[9] Xem: Nguyễn Ngọc Hòa, Chương 4 - Cấu thành tội phạm, Trong sách: Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2002, tr. 52.
[10] Xem: Phạm Mạnh Hùng, Chế định trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2004, tr.45-46.
[11] Xem: Trịnh Tiến Việt, Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam: Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 11/2006, tr.3-12.
[12] Xem: Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên), Trách nhiệm hình sự và hình phạt, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2001,tr.5-8.
[13] Xem: Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2005, tr.210.
[14] Xem: Trịnh Quốc Toản, TNHS của pháp nhân trong pháp luật hình sự, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011.
[15] Xem: Trịnh Tiến Việt, Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam, Tlđd, tr.18-21.
[16] Xem: Đào Trí Úc, Luật hình sự Việt Nam (Quyển I - Những vấn đề chung), Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2000, tr.176.
[17] Xem: Đào Trí Úc, Luật hình sự Việt Nam, Tlđd, tr.176.
[18] Xem: Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học (Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1999, tr.30.

ThS. Nguyễn Xuân Hà
Viện Khoa học kiểm sát, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao

No comments:

Post a Comment