12. TỘI ĐƯA HỐI LỘ
Điều 289. Tội đưa hối lộ
1. Người nào đưa hối lộ mà của hối lộ có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới mười triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc vi phạm nhiều lần, thì bị phạt tù từ một năm đến sáu năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ sáu năm đến mười ba năm:
a) Có tổ chức;
b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
c) Dùng tài sản của Nhà nước để đưa hối lộ;
d) Phạm tội nhiều lần;
đ) Của hối lộ có giá trị từ mười triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;
e) Gây hậu quả nghiêm trọng khác.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười ba năm đến hai mươi năm:
a) Của hối lộ có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng khác.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Của hối lộ có giá trị từ ba trăm triệu đồng trở lên;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một lần đến năm lần giá trị của hối lộ.
6. Người bị ép buộc đưa hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì được coi là không có tội và được trả lại toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ.
Người đưa hối lộ tuy không bị ép buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và được trả lại một phần hoặc toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ.
Định nghĩa: Đưa hối lộ là hành vi dùng tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trực tiếp hoặc qua trung gian để đưa cho người có chức vụ, quyền hạn, để người này làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của mình.
Tội đưa hối lộ là tội phạm được tách từ tội đưa hối lộ, tội làm môi giới hối lộ quy định tại Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985. Nói chung, so với Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 289 Bộ luật hình sự năm 1999 không có thay đổi lớn. Tuy nhiên, Điều 289 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều quy định theo hướng có lợi cho người phạm tội mặc dù mức hình phạt thấp nhất và cao nhất vẫn không thay đổi ( từ một năm tù đến tử hình).
A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM
Có thể nói, tội phạm này là tội phạm đối xứng với tội nhận hối lộ ( có đưa có nhận). Tuy nhiên, thực tiễn xét xử không phải trường hợp nào cứ có người nhận thì phải có người đưa hối lộ mà tuỳ từng trường hợp có thể có người nhận hối lộ nhưng không có người đưa, ngược lại có trường hợp có người đưa hối lộ nhưng lại không có nhận hối lộ. Vì vậy, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà xác định hành vi phạm tội của người đưa tiền hoặc lợi ích vật chất khác có phải là hành vi đưa hối lộ hay không.
1. Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm
Khác với các tội phạm về chức vụ, tội đưa hối lộ không phải là chủ thể đặc biệt, người phạm tội không nhất thiết phải là người có chức vụ, quyền hạn và cũng không lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội. Việc nhà làm luật quy định tội phạm này trong chương “ các tội phạm về chức vụ” là vì khách thể của tội phạm chứ không phải vì chủ thể của tội phạm. Tuy nhiên, người phạm tội đưa hối lộ cũng có thể là người có chức vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để đưa hối lộ, nhưng không phải là dấu hiệu bắt buộc đối với tội phạm này.
Dù là người có chức vụ, quyền hạn hay người không có chức vụ, quyền hạn thì họ chỉ trở thành chủ thể của tội phạm này trong những trường hợp sau:
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đưa hối lộ thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 289 Bộ luật hình sự, vì các trường hợp phạm tội này là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
Người dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 289 Bộ luật hình sự mà chỉ những người đủ 16 tuổi trở lên mới chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này, vì theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Đối với tội đưa hối lộ quy định tại khoản
1 của điều luật chỉ là tội phạm nghiêm trọng.
2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm
Khách thể của tội đưa hối lộ là hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức; làm cho cơ quan, tổ chức bị suy yếu, mất uy tín, mất lòng tin của nhân dân vào chế độ; làm cho cán bộ, công chức ở cơ quan, tổ chức mình bị thoái hoá biến chất.
3. Các dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm
a. Hành vi khách quan
Người phạm tội chỉ có hành vi khách quan duy nhất là “đưa”. Nhưng biểu hiện của hành đưa hối lộ rất đa dạng. Có trường hợp người phạm tội trực tiếp đưa hối lộ cho người nhận hối lộ, có trường hợp qua trung gian (người môi giới) để đưa hối lộ cho người nhận hối lộ, có trường hợp người đưa hối lộ dùng thủ đoạn tinh vi xảo quyệt không trực tiếp đưa hối lộ cho người nhận hối lộ cũng không qua trung gian mà tìm cách mua chuộc những người thân thích của người có chức vụ, quyền hạn theo kiểu “mưa dầm thấm đất”; cũng có trường hợp người đưa hối lộ thông qua việc thanh toán hợp đồng kinh tế, hợp đồng mua bán, thông qua việc nộp thuế, nộp lệ phí để đưa hối lộ từ ít đến nhiều, rồi đến một lúc nào đó người đưa hối lộ mới yêu cầu người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của mình. Loại hành vi này, hiện nay đang phổ biến. Qua các vụ án, Tân Trường Sanh, Anh Lâm, Mỹ Phượng, Trịnh Vĩnh Bình, Tamexco, Epco- Minh Phụng và đặc biệt là vụ án Năm Cam cho thấy một số cán bộ, công chức kể cả cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước cũng bị những người phạm tội mua chuộc theo kiểu “mưa dầm thấm đất”. Do mất cảnh giác, nên đã vô tình hoặc cố ý tiếp tay cho kể phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
Khi xác định hành vi đưa hối lộ cần phân biệt với hành vi làm môi giới hối lộ trong trường hợp người đưa hối lộ không dùng tiền, tài sản của mình và mục đích đưa hối lộ cũng không đem lại lợi ích cho mình mà đem lại lợi ích cho người mà người đưa hối lộ yêu cầu. Ví dụ: Trong vụ án Năm Cam, Trần Văn Thuyết (Thuyết trăm voi, Thuyết buôn vua) nhận tiền của Năm Cam từ Dương Ngọc Hiệp (Hiệp phò mã) là con rể của Năm Cam để đưa hối lộ cho Trần Mai Hạnh, Tổng giám đốc Đài tiếng nói Việt Nam để Trần Mai Hạnh lợi dụng chức vụ quyền hạn can thiệp thả Năm Cam đang bị tập trung cải tạo. Trong trường hợp này, nếu xem xét một cách máy móc, thì Trần Văn Thuyết phạm tội làm môi giới hối lộ nhưng căn cứ vào hành vi và các dấu hiệu của tội nhận hối lộ và tội đưa hối lộ, thì hành vi của Thuyết là hành vi đưa hối lộ.
b. Hậu quả
Hậu quả của tội phạm này không phải dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, nếu của hối lộ chưa đến 500.000 đồng thì hậu quả lại là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, nhưng phải là hậu quả nghiêm trọng.
Hậu quả nghiêm trọng do hành vi đưa hối lộ là những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, tài sản của con người; những thiệt hại về tài sản, uy tín của cơ quan, tổ chức và những thiệt hại phi vật chất khác.
Hành vi đưa hối lộ gây ra hậu quả nghiêm trọng, được xác định như là một nguyên nhân gián tiếp.
Tuy chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi đưa hối lộ gây ra, nhưng tham khảo hướng dẫn của liên ngành về các tội xâm phạm sơ hữu, thì có thể coi hậu quả nghiêm trọng do hành vi đưa hối lộ gây ra nếu:
- Làm chết một người;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% đến 100%, trong đó không có người nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng;
- Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng.
- Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra đã là nghiêm trọng chưa.58
4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm
Tội đưa hối lộ người thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.
Động cơ phạm tội tuy không phải là yếu tố bắt buộc của cấu thành tội phạm này, nhưng hầu hết các trường hợp đưa hối lộ đều có động cơ.
B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1. Phạm tội đưa hối lộ không có các tình tiết định khung hình phạt
Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 289 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội đưa hối lộ.
So với tội đưa hối lộ quy định tại khoản 1 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 1 Điều 289 Bộ luật hình sự năm 1999 không nặng hơn mà cũng không nhẹ hơn, vì đều có khung hình phạt từ một năm đến sáu năm tù và nếu so sánh Điều 227 với Điều 289 thì không tội phạm nào nặng hơn hoặc nhẹ hơn tội phạm nào. Vì vậy, đối với hành vi đưa hối lộ xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện, xử lý thì áp dụng khoản 1 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985 đối với người phạm tội.
Khi áp dụng khoản 1 Điều 289 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự (từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc nếu có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, phạm tội lần đầu, có nhân thân tốt có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới một năm tù) hoặc cho người phạm tội được hưởng án treo. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt tới 6 năm tù.
2. Đưa hối lộ thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 289 Bộ luật hình sự
a. Có tổ chức.
Cũng tương tự như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, đưa hối lộ có tổ chức là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức. Tuy nhiên, không phải vụ án đưa hối lộ có tổ chức nào cũng có đủ những người giữ vai trò như trên, mà tuỳ từng trường hợp, có thể chỉ có người tổ chức và người thực hành mà không có người xúi dục hoặc người giúp sức, nhưng nhất định phải có người tổ chức và người thực hành. Các yếu tố để xác định phạm tội có tổ chức được quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự.
Đưa hối lộ có tổ chức thường khó bị phát hiện, vì có sự cấu kết, phân công vai trò, trách nhiệm của từng người đồng phạm nên khó bị phát hiện. Điển hình cho việc đưa hối lộ có tổ chức là vụ án Tân Trường Sanh, vụ Anh Lâm và vụ Năm Cam. Trong đó, việc đưa hối lộ của Trần Đàm, Anh Lâm và Năm cam được tổ chức rất tinh vi, Trần Đầm và Anh Lâm giao cho thuộc hạ của mình mỗi lần nhận hàng lậu hoặc mối lần Hải quan tổ chức kiểm hoá hàng lậu đã đưa tiền cho cán bộ Hải quan thuộc các Cục hải quan Thừa Thiên-Huế, Long An, Cần Thơ, Vũng Tàu và Phòng chống buôn lậu Hải quan thành phố Hồ Chí Minh trong một thời gian dài. Đối với Năm Cam cũng giao cho “đàn em” móc nối với một số cán bộ có chức có quyền và đưa hối lộ để chạy tội cho Năm Cam. Chỉ khi cơ quan điều tra phát hiện hành vi phạm tội của Trần Đàm, của Anh Lâm và Năm Cam thì hành vi đưa hối lộ của mới bị phát hiện.
b. Dùng thủ đoạn xảo quyệt
Dùng thủ đoạn xảo quyệt để đưa hối lộ là người phạm tội đưa hối lộ có những mánh khoé, cách thức gian dối, thâm hiểm làm cho người nhận hối lộ hoặc những người khác khó lường thấy được để đề phòng.
Những mánh khoé, cách thức mà người đưa hối lộ sử dụng để đưa hối lộ rất đa dạng, nhưng chỉ coi là dùng thủ đoạn xảo quyệt đối với những mánh khoé, cách thức làm cho người nhận không thể từ chối hoặc nếu biết cũng không đối phó được như: Đưa hối lộ nhưng núp dưới hình thức quà tặng nhân ngày sinh nhật, ngày lễ, tết, nhân đám tang, đám cưới, tân gia; chi phí cho một chuyến du lịch, tham quan nước ngoài; chi phí cho con của người nhận hối lộ đi du học nước ngoài; cho vay tiền nhưng “quên” không đòi; bán nhà, đất với giá rất rẻ hoặc mua tài sản với giá rất đắt v.v...
Nói chung, những mánh khoé, cách thức đưa hối lộ mà người đưa hối lộ sử dụng rất khó phát hiện hoặc nếu có bị phát hiện thì khó tìm được chứng cứ để buộc tội họ.
c. Dùng tài sản của Nhà nước để hối lộ
Dùng tài sản của Nhà nước để hối lộ là người đưa hối lộ lấy tài sản của Nhà nước để đưa hối lộ cho người khác.
Trương hợp phạm tội này hoàn toàn tương tự như trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 Điều 179 Bộ luật hình sự đối với tội nhận hối lộ. Tuy nhiên, trường hợp phạm tội này thường đối với người đưa hối lộ là người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội đã dùng tiền hoặc tài sản của cơ quan, tổ chức của mình để đưa hối lộ cho người khác với động vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác. Ví dụ: Dùng tiền của công ty để đưa hối lộ, để được giảm thuế nhập khẩu, để được cấp quota, để được trúng thầu, để che giấu hành vi phạm tội của mình...
Cũng như đối với một số tội phạm khác, Bộ luật hình sự năm 1985 chưa quy định tài sản của Nhà nước mà chỉ quy định tài sản xã hội chủ nghĩa. Việc nhà làm luật thay đổi khái niệm tài sản xã hội chủ nghĩa bằng khái niệm tài sản của Nhà nước không chỉ đơn thuần thay đổi về tên gọi tính chất tài sản mà nó làm thay đổi tính chất, phạm vi áp dụng đối với hành vi phạm tội nói chung và tội đưa hối lộ nói riêng. Tài sản xã hội chủ nghĩa có nội hàm rộng hơn tài sản của Nhà nước. Tài sản xã hội chủ nghĩa bao gồm cả tài sản của các tổ chức kinh tế tập thể, nhưng tài sản của Nhà nước thì chỉ bao gồm tài sản thuộc quyền sở hữu của Nhà nước.
Về khái niệm tài sản của Nhà nước cho đến nay vẫn còn ý kiến khác nhau, nếu tài sản thuộc quyền sở hữu hoàn toàn của Nhà nước thì không cò phải bàn cãi, nhưng nếu tài sản chỉ thuộc quyền sở hữu một phần của Nhà nước thì vấn đề lại không đơn giản như: Các công ty cổ phần, Công ty có vốn đầu tư nước ngoài, các đơn vị liên doanh, liên kết giữa Nhà nước với các đơn vị kinh tập thể hoặc tư nhân... Nếu người đưa hối lộ biết của hối lộ là tài sản của các đơn vị kinh tế này thì có coi là tài sản của Nhà nước không ? Đây là vấn chưa được hướng dẫn giải thích nên trong thực tiễn xét xử các cơ quan tiến hành tố tụng thường có quan điểm khác nhau khi phải xác định tài sản của Nhà nước là yếu tố định khung hình phạt hoặc là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong một số tội phạm.
Có thể còn ý kiến khác nhau về thế nào là tài sản của Nhà nước, nhưng chúng tôi cho rằng, về nguyên tắc, tài sản của Nhà nước phải thuộc sở hữu của Nhà nước. Nếu tài sản đó Nhà nước chỉ có quyền sở hữu một phần dù đó là phần lớn thì cũng chưa thể coi đó là tài sản của Nhà nước.
d. Phạm tội nhiều lần
Phạm tội đưa hối lộ nhiều lần là có từ hai lần đưa hối lộ trở lên và mỗi lần đưa hối lộ đều đã cấu thành tội phạm, không phụ thuộc vào khoảng cách thời gian từ lần phạm tội trước với lần phạm tội sau. Tuy nhiên, chỉ coi là phạm tội nhiều lần nếu tất cả những lần phạm tội đó chưa bị xử lý (kỷ luật, phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự). Nếu trong các lần phạm tội đó đã có lần bị xử lý kỷ luật, bị phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì không được tính để xác định là phạm tội nhiều lần.
đ. Của hối lộ có giá trị từ mười triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng
Đây là trường hợp người phạm tội đưa hối lộ mà của hối lộ có giá trị từ mười triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng. Nếu của hối lộ không phải là tiền mà là tài sản thì giá trị tài sản đó là giá thị trường vào thời điểm đưa của hối lộ hoặc đã hứa đưa hối lộ, vì trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của một người khi thực hiện hành vi phạm tội. Ví dụ: Trần Văn T mua chiếc xe máy Dream II Trung quốc với giá 13.000.000 đồng, nhưng khi đưa hối lộ cho Phạm Văn B thì giá xe của Trung Quốc chỉ còn 9.000.000 đồng. Nếu tính giá trị chiếc xe khi T mua thì T phạm tội đưa hối lộ thuộc trường hợp quy định tại điểm e khoản 2 Điều 289 Bộ luật hình sự, nhưng nếu tính giá trị chiếc xe vào thời điểm T đưa hối lộ cho B thì chỉ thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 289 Bộ luật hình sự. Trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng không tự mình xác định được giá trị của hối lộ thì phải trưng cầu giám định (định giá).
Điều luật quy định của hối lộ có giá trị từ mười triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng, chứ không quy định người phạm tội đã đưa được của hối lộ có giá trị như trên, nên chỉ cần xác định người phạm tội có ý định đưa hối lộ mà của hối lộ có giá trị từ mười triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng là thuộc trường hợp quy định tại điểm e khoản 2 Điều 289 Bộ luật hình sự, còn người phạm tội đã đưa được hay chưa, không phải là dấu hiệu bắt buộc.
e. Gây hậu quả nghiêm trọng khác
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng quy định ở khoản 1 của điều luật, chỉ khác ở chỗ, trường hợp phạm tội này là hậu quả nghiêm trọng do hành vi đưa hối lộ từ 500.000 đồng đến dưới 10.000.000 đồng. Nếu dưới 500.000 đồng mà gây hậu quả nghiêm trọng thì chỉ thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 của điều luật. Được coi là gây hậu quả nghiêm trọng khác nếu do hành vi nhận hối lộ mà:
- Làm chết một người;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% đến 100%, trong đó không có người nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng;
- Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng.
- Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra đã là nghiêm trọng chưa.59
Tương tự như đối với tội tham ô, tội nhận hối lộ, khoản 1 của điều luật chỉ quy định gây hậu quả nghiêm trọng còn điểm e khoản 2 của điều luật lại quy định gây hậu quả nghiêm trọng khác, nên có ý kiến cho rằng hậu quả nghiêm trọng khác và hậu quả nghiêm trọng không phải là một.
Nếu sự phân biệt trên là có căn cứ thì khoản 1 của điều luật quy định hậu quả nghiêm trọng cũng khó xác định đâu là hậu quả trực tiếp do hành vi đưa hối lộ gây ra, còn đâu là hậu quả gián tiếp do hành vi nhận hối lộ gây ra ? vì các thiệt hại khác đều là những thiệt hại gián tiếp do hành vi đưa hối lộ gây ra và nó chỉ là hậu quả khác. Do đó có ý kiến cho rằng, khoản 1 điều luật cũng nên quy định gây hậu quả khác mới chính xác. Quan điểm này cũng có cơ sở lý luận và thực tiễn. Hy vọng rằng khi có điều kiện, nhà làm luật sẽ nghiên cứu sửa đổi để phù hợp hơn.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 289 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ sáu năm đến mười ba năm, là tội phạm rất nghiêm trọng.
So với khoản 2 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985, nếu chỉ căn cứ vào khung hình phạt thì khoản 2 Điều 289 Bộ luật hình sự năm 1999 không nặng hơn và cũng không nhẹ hơn khoản 2 Điều 227. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 289 có nhiều thay đổi theo hướng có lợi cho người phạm tội. Vì vậy, khi áp dụng khoản 2 Điều 289 Bộ luật hình sự năm 1999, cần chú ý:
- Nếu hành vi đưa hối lộ xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý mà của hối lộ từ 10.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng thì vẫn áp dụng khoản 2 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985;
- Nếu hành vi đưa hối lộ xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý mà của hối lộ là tài sản xã hội chủ nghĩa nhưng không phải là tài sản của Nhà nước thì chỉ áp dụng khoản 1 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985 mà không áp dụng điểm c khoản 2 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội đưa hối lộ theo khoản 2 Điều 279 Bộ luật hình sự, Toà án cũng cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới sáu năm tù) nhưng không được dưới một năm tù, vì theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự thì, khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật ( khung hình phạt nhẹ hơn liền kề của khoản 2 là khoản 1 Điều 289 Bộ luật hình sự ). Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt tới mười ba năm tù. Khi cân nhắc để quyết định một mức hình phạt cụ thể đối với người phạm tội đưa hối lộ, Toà án cần căn cứ vào nguyên tắc đã được nêu ở tội tham ô tài sản 60
3. Đưa hối lộ thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 289 Bộ luật hình sự
a. Của hối lộ có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm đ khoản 2 của điều luật chỉ khác ở chỗ: Giá trị của hối lộ từ năm mươi triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng.
Cũng như đối với trường hợp quy định tại điểm đ khoản 2 của điều luật, nếu của hối lộ không phải là tiền mà là tài sản thì giá trị tài sản đó là giá thị trường vào thời điểm đưa của hối lộ hoặc đã hứa đưa hối lộ; chỉ cần xác định người phạm tội sẽ đưa của hối lộ có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng là thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 3 Điều 289 Bộ luật hình sự, còn người phạm tội đã đưa được hay chưa, không phải là dấu hiệu bắt buộc; nếu người phạm tội chưa đưa được của hối lộ, thì cũng không vì thế mà cho rằng thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt.
b. Gây hậu quả rất nghiêm trọng khác
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm e khoản 2 của điều luật chỉ khác ở chỗ: Hậu quả do hành vi đưa hối lộ gây ra là hậu quả rất nghiêm trọng khác.
Hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi đưa hối lộ gây ra là những thiệt rất nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Cũng như đối với tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ, tuy chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả rất nghiêm trọng khác do hành vi đưa hối lộ gây ra, nhưng căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự đối chiếu với hướng dẫn về các tội phạm khác trong Bộ luật hình sự, thì có thể coi các thiệt hại sau là hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi đưa hối lộ gây ra:
- Làm chết hai người;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm đến bảy người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 101% đến 200%, trong đó không có trường hợp nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên;
- Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng;
- Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản thuộc hai đến ba trường hợp được coi là hậu quả nghiêm trọng. Ví dụ: Làm chết một người và còn làm bị thương hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; Làm chết một người và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. v.v...
- Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng rất xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là rất nghiêm trọng.61
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 289 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ mười ba năm đến hai mươi năm, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
So với khoản 3 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985, nếu chỉ căn cứ vào khung hình phạt thì khoản 3 Điều 289 Bộ luật hình sự năm 1999 không nặng hơn và cũng không nhẹ hơn khoản 3 Điều 227. Tuy nhiên, khoản 3 Điều 289 có nhiều thay đổi theo hướng có lợi cho người phạm tội. Vì vậy, khi áp dụng khoản 3 Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999, cần chú ý:
- Nếu hành vi đưa hối lộ xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý mà của hối lộ từ 30.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng thì vẫn áp dụng khoản 3 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985, nhưng khi quyết định hình phạt thì phải căn cứ vào khung hình phạt tại khoản 2 Điều 289 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội.
- Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 của điều luật thì cũng chỉ áp dụng khoản 2 điều luật mà không áp dụng khoản 3 của điều luật, vì tình tiết “có nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 Điều này” khoản 3 Điều 289 Bộ luật hình sự năm 1999 không còn quy định nữa.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 3 Điều 289 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự (từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu người người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới mười ba năm tù) nhưng không được dưới sáu năm tù, vì theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự thì khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật ( khung hình phạt nhẹ hơn liền kề của khoản 3 là khoản 2 Điều 289 Bộ luật hình sự ).
Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt tới hai mươi năm tù. Khi cân nhắc để quyết định một mức hình phạt cụ thể đối với người phạm tội đưa hối lộ, Toà án cần căn cứ vào nguyên tắc đã được nêu ở tội tham ô tài sản 62
4. Đưa hội lộ thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 289 Bộ luật hình sự
a. Của hối lộ có giá trị từ ba trăm triệu đồng trở lên
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm đ khoản 2, điểm a khoản 3 của điều luật chỉ khác ở chỗ: Giá trị của hối lộ từ ba trăm triệu đồng trở lên.
Cũng như đối với trường hợp quy định tại điểm đ khoản 2, điểm a khoản 3 của điều luật, nếu của hối lộ không phải là tiền mà là tài sản thì giá trị tài sản đó là giá thị trường vào thời điểm đưa của hối lộ hoặc đã hứa đưa hoặc nhận hối lộ; chỉ cần xác định người phạm tội sẽ đưa của hối lộ có giá trị từ ba mươi triệu đồng trở lên là thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 4 Điều 289 Bộ luật hình sự, còn người phạm tội đã đưa được hay chưa, không phải là dấu hiệu bắt buộc; nếu người phạm tội chưa đưa được hoặc mới đưa được một phần của hối lộ, thì thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt.
b. Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm e khoản 2, điểm b khoản 3 của điều luật chỉ khác ở chỗ: Hậu quả do hành vi đưa hối lộ gây ra là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác.
Hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác do hành vi đưa hối lộ gây ra là những thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Cũng như đối với tội nhận hối lộ, tuy chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi đưa hối lộ gây ra, nhưng căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự đối chiếu với hướng dẫn về các tội phạm khác trong Bộ luật hình sự, thì có thể coi các thiệt hại sau là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi đưa hối lộ gây ra:
Làm chết ba người trở lên;
Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên;
Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của tám người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%;
Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 201% trở lên, trong đó không có trường hợp nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên;
Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ một tỷ năm trăm triệu đồng trở lên;
Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc bốn trường hợp được coi là hậu quả nghiêm trọng;
Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc hai trường hợp được coi là hậu quả rất nghiêm trọng;
Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là đặc biệt nghiêm trọng.63
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 289 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
So với khoản 4 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 4 Điều 289 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn khoản 4 Điều 227, vì khoản 4 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985 có khung hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, còn khoản 4 Điều 289 Bộ luật hình sự năm 1999 có khung hình phạt tù hai năm, tù chung thân hoặc tử hình. Mặt khác, khoản 4 Điều 289 không còn quy định tình tiết “có nhiều tình tiết quy định tại khoản 3 Điều này” là yếu tố định khung hình phạt và giá trị của hối lộ quy định tại khoản 4 Điều 289 cũng lớn hơn ( 300.000.000 đồng so với 50.000.000 đồng). Vì vậy, khi áp dụng khoản 4 Điều 289 Bộ luật hình sự năm 1999, cần chú ý:
- Nếu hành vi nhận hối lộ xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý mà của hối lộ từ 50.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng thì vẫn áp dụng khoản 4 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985, nhưng khi quyết định hình phạt thì phải căn cứ vào khung hình phạt tại khoản 3 Điều 289 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội.
- Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết quy định tại khoản 3 của điều luật thì cũng chỉ áp dụng khoản 3 điều luật mà không áp dụng khoản 4 của điều luật, vì tình tiết “có nhiều tình tiết quy định tại khoản 3 Điều này” khoản 4 Điều 289 Bộ luật hình sự năm 1999 không còn quy định nữa.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội đưa hối lộ theo khoản 4 Điều 289 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu người người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới hai mươi năm tù) nhưng không được dưới mười ba năm tù, vì theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự thì khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật (khung hình phạt nhẹ hơn liền kề của khoản 4 là khoản 3 Điều 289 Bộ luật hình sự). Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc tuy có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, là người có nhân thân xấu, không còn khả năng cải tạo thì có thể áp dụng hình phạt tử hình.
Do điều luật quy định khung hình phạt có ba mức khác nhau và để việc áp dụng thống nhất pháp luật, Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 01/2001/NQ-HĐTP ngày 15-3-2001 dẫn áp dụng một số quy định của các Điều 139, 193, 194, 278, 279 và 289 Bộ luật hình sự. Theo hướng dẫn này thì:
Trong trường hợp không có tình tiết tăng nặng và không có tình tiết giảm nhẹ hoặc vừa có tình tiết tăng
nặng, vừa có tình tiết giảm nhẹ, nhưng đánh giá tính chất tăng nặng và tính chất giảm nhẹ tương đương nhau, thì xử phạt người phạm tội mức án tương ứng với của hối lộ như sau:
- Xử phạt hai mươi năm tù nếu của hối lộ có giá trị từ ba trăm triệu đồng đến dưới tám trăm triệu đồng;
- Xử phạt tù chung thân nếu của hối lộ có giá trị từ tám trăm triệu đồng đến dưới hai tỷ đồng;
- Xử phạt tử hình nếu của hối lộ có giá trị từ hai tỷ đồng trở lên.
Trong trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ mà không có tình tiết tăng nặng hoặc có ít tình tiết tăng nặng hơn, đồng thời đánh giá tính chất giảm nhẹ và tính chất tăng nặng xét thấy có thể giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội, thì có thể xử phạt người phạm tội mức án nhẹ hơn mức án được hướng dẫn trên, cụ thể như sau:
- Xử phạt tù từ mười ba năm đến dưới hai mươi năm nếu của hối lộ có giá trị từ ba trăm triệu đồng đến dưới tám trăm triệu đồng (trường hợp này phải có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS);
- Xử phạt hai mươi năm tù nếu của hối lộ có giá trị từ tám trăm triệu đồng đến dưới hai tỷ đồng;
- Xử phạt tù chung thân nếu của hối lộ có giá trị từ hai tỷ đồng trở lên.
Trong trường hợp có nhiều tình tiết tăng nặng mà không có tình tiết giảm nhẹ hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ hơn, đồng thời đánh giá tính chất tăng nặng và tính chất giảm nhẹ xét thấy cần tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, thì có thể xử phạt người phạm tội mức án nặng hơn mức án được hướng dẫn trên, cụ thể như sau:
- Xử phạt tù chung thân nếu của hối lộ có giá trị từ ba trăm triệu đồng đến dưới tám trăm triệu đồng;
- Xử phạt tử hình nếu của hối lộ có giá trị từ tám trăm triệu đồng trở lên.
5. Đưa hội lộ thuộc các trường hợp quy định tại khoản 6 Điều 289 Bộ luật hình sự
Đối với hành vi đưa hối lộ, tuy cũng là hành vi phạm tội nguy hiểm và cũng bị trừng trị rất nghiêm khắc như đối với tội nhận hối lộ. Tuy nhiên, đối với người bị ép buộc phải đưa hối lộ hoặc sau khi đưa hối lộ đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì chính sách hình sự đối với họ là rất khoan hồng. Vì vậy, khoản 6 Điều 289 Bộ luật hình sự quy định: “Người bị ép buộc đưa hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì được coi là không có tội và được trả lại toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ. Người đưa hối lộ tuy không bị ép buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và được trả lại một phần hoặc toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ.”
Người bị ép buộc đưa hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác là trường hợp trước khi đưa hối lộ, người có hành vi đưa hối lộ đã bị người nhận hối lộ hoặc bị người khác có những hành vi ép buộc để người đưa hối lộ phải đưa hối lộ.
Hành vi ép buộc người khác phải đưa hối lộ là hành vi đe doạ để đòi hối lộ, sách nhiễu hoặc dùng thủ đoạn xảo quyệt buộc người khác phải đưa hối lộ cho mình hoặc cho người khác mà minh quan tâm. Người bị ép buộc không thể không đưa hối lộ, nếu không đưa thì chắc chắn quyền và lợi ích hợp pháp của mình không được bảo đảm thậm chí còn bị thiệt hại hơn, vì muốn được việc và biết đưa hối lộ là sai nhưng buộc phải đưa, vì bị ép buộc mà phải đưa chứ thực lòng không muốn làm như vậy. Người đưa hối lộ phải thật sự bị ép buộc nên phải đưa hối lộ mới được coi là không phạm tội, nếu mới có sự gợi ý, đòi hối lộ của người khác mà đã vội đưa hối lộ thì không được coi là không phạm tội.
Chủ động khai báo trước khi bị phát giác là trường hợp việc đưa hối lộ chưa bị phát giác ( chưa ai biết gì ) mà người đưa hối lộ đã tự mình viết đơn hoặc trực tiếp đến cơ quan, tổ chức khai báo toàn bộ sự việc đưa hối lộ mà mình thực hiện, tố cáo hành vi ép buộc của người nhận hối lộ. Nếu bị ép buộc phải đưa hối lộ và việc đưa và nhận của hối lộ đó đã bị phát hiện, thấy không có cách nào che giấu được hành vi phạm tội của mình nữa mới tố giác, thì dù người đưa hối lộ có chủ động khai báo cũng không được loại trừ trách nhiệm hình sự.
Bị ép buộc và chủ động khai báo là hai điều kiện cần và đủ để được coi là không phạm tội, nếu thiếu một trong hai điều kiện này thì người phạm tội vẫn bị coi là phạm tội đưa hối lộ. Tuy nhiên, người đưa hối lộ tuy không bị ép buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và được trả lại một phần hoặc toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ. Miễn trách nhiệm hình sự là hành vi đã cấu thành tội phạm nhưng do có tình tiết giảm nhẹ đặc biệt là trước khi hành vi phạm tội bị phát giác đã khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của mình nên được miễn trách nhiệm hình sự. Trường hợp này cũng tương tự như trường hợp người phạm tội tự thú quy định tại khoản 2 Điều 25 Bộ luật hình sự.
Có thể coi quy định tại khoản 6 Điều 289 Bộ luật hình sự là trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự hoặc là trường hợp miễn trách nhiệm hình sự đối với hành vi đưa hối lộ, nên khi xác định trường hợp bị ép buộc cũng như việc chủ động khai báo của người đưa hối lộ phải thật chính xác, phải phù hợp với các tình tiết và diễn biến của vụ án.
Nếu được coi là không phạm tội đưa hối lộ thì người có hành vi đưa hối lộ được trả lại toàn bộ của hối lộ đã đưa, nếu được miễn trách nhiệm hình sự thì người có hành vi đưa hối lộ được trả lại một phần hoặc toàn bộ của hối lộ đã đưa.
6. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội đưa hối lộ
Ngoài hình phạt chính người phạm tội đưa hối lộ còn có thể bị phạt tiền từ một lần đến năm lần giá trị của hối lộ.
So với Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về hình phạt bổ sung đối với tội phạm này thì khoản 5 Điều 289 Bộ luật hình sự năm 1999 chỉ quy định hình phạt tiền mà không quy định hình phạt tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Mặt khác, khoản 5 Điều 289 Bộ luật hình sự năm 1999 chỉ quy định “có thể bị phạt...”, còn Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “thì bị phạt...” Vì vậy, đối với hành vi đưa hối lộ xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì áp dụng khoản 5 Điều 289 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội.
No comments:
Post a Comment