13. TỘI LÀM MÔI GIỚI HỐI LỘ
Điều 290. Tội làm môi giới hối lộ
1. Người nào làm môi giới hối lộ mà của hối lộ có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới mười triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc vi phạm nhiều lần, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:
a) Có tổ chức;
b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
c) Biết của hối lộ là tài sản của Nhà nước;
d) Phạm tội nhiều lần;
đ) Của hối lộ có giá trị từ mười triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;
e) Gây hậu quả nghiêm trọng khác.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ tám năm đến mười lăm năm:
a) Của hối lộ có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng khác.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm:
a) Của hối lộ có giá trị từ ba trăm triệu đồng trở lên;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một lần đến năm lần giá trị của hối lộ.
6. Người môi giới hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.
Định nghĩa: Làm môi giới hối lộ là hành vi làm trung gian giữa người đưa hối lộ với người nhận hối lộ để cho hai người này thực hiện hành vi đưa và nhận hối lộ.
Tội làm mối giới hối lộ cũng là tội phạm được tách từ tội đưa hối lộ, tội làm môi giới hối lộ quy định tại Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985. Tuy nhiên, do tách từ Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985, nên nội dung của Điều 290 có nhiều thay đổi. Trước hết về hình phạt, Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định hình phạt thấp nhất là sáu tháng tù và cao nhất là hai mươi năm tù. So với Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 290 nhẹ hơn nhiều. Các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt quy định tại Điều 290 cũng có nhiều thay đổi theo hướng có lợi cho người phạm tội; quy định thêm trường hợp người phạm tội làm môi giới hối lộ cũng được miễn trách nhiệm hình sự như người đưa hối lộ mà Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985 chưa quy định.
A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM
Tội phạm này là tội phạm vừa có hành vi tương tự của tội nhận hối lộ vừa có hành vi tương tự của tội đưa hối lộ, vì là trung gian nên có lúc họ là người nhận tiền, tài sản của người đưa hối lộ để chuyển cho người nhận hối lộ, có khi lại là người đưa. Tuy nhiên, hành vi chuyển tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác từ người đưa hối lộ đến người nhận hối lộ người làm môi giới hối lộ chỉ đóng vai trò như một phương tiện để người đưa hối lộ và người nhận hối lộ thực hiện hành vi đưa và nhận hối lộ. Nếu người phạm tội lại có hành vi yêu cầu người đưa hoặc nhận hối lộ thì không còn là làm môi giới hối lộ nữa mà tuỳ trường hợp người phạm tội có thể là đồng phạm với người đưa hoặc người nhận hối lộ.
1. Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm
Cũng như đối với tội đưa hối lộ, chủ thể của tội phạm này không phải là chủ thể đặc biệt, người phạm tội không nhất thiết phải là người có chức vụ, quyền hạn và cũng không lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội. Việc nhà làm luật quy định tội phạm này trong chương “các tội phạm về chức vụ” là vì khách thể của tội phạm chứ không phải vì chủ thể của tội phạm. Tuy nhiên, người phạm tội làm môi giới hối lộ cũng có thể là người có chức vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để làm môi giới hối lộ, nhưng không phải là bắt buộc đối với tội phạm này.
Dù là người có chức vụ, quyền hạn hay người không có chức vụ, quyền hạn thì họ chỉ trở thành chủ thể của tội phạm này trong những trường hợp sau:
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội làm môi giới hối lộ thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 290 Bộ luật hình sự, vì các trường hợp phạm tội này là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
Người dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 290 Bộ luật hình sự mà chỉ những người đủ 16 tuổi trở lên mới chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này, vì theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Đối với tội làm môi giới hối lộ quy định tại khoản 1 của điều luật chỉ là tội phạm nghiêm trọng.
Nếu giá trị của hối lộ dưới 500.000 đồng thì người phạm tội phải là người đã vi phạm nhiều lần mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Vi phạm nhiều lần là trường hợp đã có từ hai lần làm môi giới hối lộ nhưng chưa có lần nào đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, các làn vi phạm có thể dã có lần bị xử phạt hành chính hoặc xử lý kỷ luật nhưng chưa hết thời hạn được coi là xoá kỷ luật hoặc không coi là đã bị xâm phạm hành chính.
2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm
Khách thể của tội làm môi giới hối lộ là hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức; làm cho cơ quan, tổ chức bị suy yếu, mất uy tín, mất lòng tin của nhân dân vào chế độ; làm cho cán bộ, công chức ở cơ quan, tổ chức bị thoái hoá biến chất. Làm môi giơi hối lộ chính là hành vi giúp sức, tiếp tay không chỉ cho một tội phạm mà cho nhiều tội phạm mà thể là tội nhận hối lộ và tội đưa hối lộ.
3. Các dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm
a. Hành vi khách quan
Người phạm tội chỉ có hành vi khách quan duy nhất là làm môi giới giữa người đưa và nhận hối lộ. Nhưng biểu hiện của hành vi làm môi giới hối lộ rất đa dạng.
Người có hành vi làm môi giới hối lộ có thể gặp người nhận hối lộ để gợi ý thăm dò và đưa ra những yêu cầu của người đưa hối lộ hoặc nhận lời với người nhận hối lộ là sẽ tìm gặp người đưa hối lộ để đưa ra những điều kiện của người nhận hối lộ. Việc làm này có thể chỉ diễn ra một lần hoặc có thể diễn ra nhiều lần.
Người có hành vi làm môi giơi hối lộ có thể chỉ thu xếp, bố trí thời gian, địa điểm để người đưa hối lộ và người nhận hối lộ tiếp xúc, giao thiệp với nhau về việc đưa và nhận hối lộ.
Cũng có trường hợp người làm môi giới hối lộ có mặt trong cuộc tiếp xúc giữa người đưa hối lộ và người nhận hối lộ để chứng kiến hoặc tham gia vào việc đưa và nhận hối lộ.
Khi xác định hành vi làm môi giới hối lộ cần phân biệt với hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi; hành vi lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi hoặc hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Nếu hành vi tuy có tính chất làm môi giới hối lộ nhưng người có hành vi đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi” theo Điều 283 Bộ luật hình sự.
Nếu hành vi tuy có tính chất làm môi giới hối lộ nhưng người có hành vi đã lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi” theo Điều 291 Bộ luật hình sự.
Nếu hành vi tuy có tính chất làm môi giới hối lộ nhưng người có hành vi đã dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người đưa hối lộ thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “lửa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Điều 139 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, người bị chiếm đoạt tài sản là người đưa hối lộ nên họ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đưa hối lộ và của hối lộ sẽ bị tịch thu sung quỹ Nhà nước.
b. Hậu quả
Hậu quả của tội phạm này không phải dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, nếu của hối lộ chưa đến 500.000 đồng thì hậu quả lại là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, nhưng phải là hậu quả nghiêm trọng.
Hậu quả nghiêm trọng do hành vi làm môi giới hối lộ là những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, tài sản của con người; những thiệt hại về tài sản, uy tín của cơ quan, tổ chức và những thiệt hại phi vật chất khác.
Hành vi làm môi giới hối lộ gây ra hậu quả nghiêm trọng, được xác định như là một nguyên nhân gián tiếp.
Cũng như đối với các tội phạm khác về chức vụ, tuy chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi làm môi giới hối lộ gây ra, nhưng tham khảo hướng dẫn của liên ngành về các tội xâm phạm sơ hữu, thì có thể coi hậu quả nghiêm trọng do hành vi làm môi giới hối lộ gây ra nếu:
- Làm chết một người;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% đến 100%, trong đó không có người nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng;
- Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng.
- Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra đã là nghiêm trọng chưa.65
4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm
Tội làm môi giới hối lộ người thực hiện hành vi phạm tội là do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi của mình là làm môi giới hối lộ, thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn việc đưa và nhận hối lộ được thực hiện, hoặc tuy không mong muốn nhưng có ý thức bỏ mặc cho việc đưa và nhận hối lộ xảy ra.
Người làm môi giới hối lộ có nhiều động cơ khác nhau, có thể vì tình cảm, có thể vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác; động cơ phạm tội không phải là yếu tố bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Tuy nhiên, các cơ quan tiến hành tố tụng cần xác định động cơ để làm căn cứ khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội.
B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1. Phạm tội làm môi giới hối lộ không có các tình tiết định khung hình phạt
Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 290 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội làm môi giới hối lộ.
So với tội làm môi giới hối lộ quy định tại khoản 1 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 1 Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn, vì khoản 1 Điều 190 có khung hình phạt từ sáu tháng đến năm năm, trong khi đó khoản 1 Điều 227 có khung hình phạt từ một năm đến sáu năm, và nếu so sánh Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985 với Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999, thì Điều 290 nhẹ hơn. Vì vậy, đối với hành vi làm môi giới hối lộ xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện, xử lý thì được áp dụng khoản 1 Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội.
Khi áp dụng khoản 1 Điều 290 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng, phạm tội lần đầu, có nhân thân tốt có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt ( dưới sáu tháng tù) hoặc cho người phạm tội được hưởng án treo. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt tới năm năm tù.
2. Môi giới hối lộ thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 290 Bộ luật hình sự
a. Có tổ chức.
Cũng tương tự như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, làm môi giới hối lộ có tổ chức là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức. Tuy nhiên, không phải vụ án môi giới hối lộ có tổ chức nào cũng có đủ những người giữ vai trò như trên, mà tuỳ từng trường hợp, có thể chỉ có người tổ chức và người thực hành mà không có người xúi dục hoặc người giúp sức, nhưng nhất định phải có người tổ chức và người thực hành.
Các yếu tố để xác định phạm tội có tổ chức được quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự.
Thực tiễn xét xử cho thấy, hành vi làm môi giới hối lộ có tổ chức ít xẩy ra hoặc nếu có xảy ra thì cũng khó phát hiện, vì làm môi giới hối lộ có tổ chức thường gắn liền với hành vi đưa hoặc nhận hối lộ có tổ chức, nên khó có thể phân biệt làm môi giới hối lộ với hành vi đưa hoặc nhận hối lộ có tổ chức.
b. Dùng thủ đoạn xảo quyệt
Dùng thủ đoạn xảo quyệt để làm môi giới hối lộ là người phạm tội đưa hối lộ có những mánh khoé, cách thức gian dối, thâm hiểm làm cho người đưa và nhận hối lộ hoặc những người khác khó lường thấy được để đề phòng.
Những mánh khoé, cách thức mà người làm môi hối lộ sử dụng rất đa dạng, nhưng chỉ coi là dùng thủ đoạn xảo quyệt đối với những mánh khoé, cách thức làm cho người nhận và người đưa hối lộ không thể từ chối hoặc nếu biết cũng không đối phó được.
Nói chung, những mánh khoé, cách thức làm môi giới hối lộ mà người phạm tội sử dụng rất khó phát hiện hoặc nếu có bị phát hiện thì khó tìm được chứng cứ để buộc tội họ.
c. Biết của hối lộ là tài sản của Nhà nước
Trương hợp phạm tội này hoàn toàn tương tự như trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 Điều 179 Bộ luật hình sự đối với tội nhận hối lộ và điểm c khoản 2 Điều 289 Bộ luật hình sự đối với tội đưa hối lộ. Tuy nhiên, trường hợp phạm tội này thường đối với người làm môi giới hối lộ là người biết người đưa hối lộ là người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội sẽ dùng tiền hoặc tài sản của cơ quan, tổ chức để đưa hối lộ cho người khác với động cơ cá nhân hoặc với động cơ vụ lợi cho cơ quan, tổ chức của mình. Ví dụ: Nguyễn Hồng A là nhân viên của Công ty dịch vụ nhà đất đã nhận lời với Lê Văn K là Giám đốc Công ty xây dựng thuộc Tổng công ty xây dựng thành phố H tìm cách móc lối với Nguyễn Trọng Th. là Phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh và là chủ đầu tư dự án phát triển khu đô thị mới. A đã nhiều lần gặp Th để thăm dò những thông tin vè dự án và báo cho K biết, đồng thời đưa K đến nhà Th để K xin Th cho Công ty của mình được đáu thầu xây dựng phần các công trình hạ tầng, nếu được K sẽ biếu ông Th 3% tổng giá trị công trình trúng thầu, ngoài 10% mà bên B phải trả cho bên A theo thoả thuận.
Cũng như đối với các tội phạm khác có quy định tình tiết “tài sản Nhà nước”, khái niệm tài sản của Nhà nước cho đến nay vẫn còn ý kiến khác nhau đối với tài sản chỉ thuộc quyền sở hữu một phần của Nhà nước như: Các công ty cổ phần, Công ty có vốn đầu tư nước ngoài, các đơn vị liên doanh, liên kết giữa Nhà nước với các đơn vị kinh tập thể hoặc tư nhân...
Có thể còn ý kiến khác nhau về thế nào là tài sản của Nhà nước, nhưng chúng tôi cho rằng, về nguyên tắc, tài sản của Nhà nước phải thuộc sở hữu của Nhà nước. Nếu tài sản đó Nhà nước chỉ có quyền sở hữu một phần dù đó là phần lớn thì cũng chưa thể coi đó là tài sản của Nhà nước.
d. Phạm tội nhiều lần
Phạm tội làm môi giới hối lộ nhiều lần là có từ hai lần làm môi giới hối lộ trở lên và mỗi lầngilamf môi giới hối lộ đều đã cấu thành tội phạm, không phụ thuộc vào khoảng cách thời gian từ lần phạm tội trước với lần phạm tội sau. Tuy nhiên, chỉ coi là phạm tội nhiều lần nếu tất cả những lần phạm tội đó chưa bị xử lý (kỷ luật, phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự). Nếu trong các lần phạm tội đó đã có lần bị xử lý kỷ luật, bị phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì không được tính để xác định là phạm tội nhiều lần.
đ. Của hối lộ có giá trị từ mười triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng
Đây là trường hợp người phạm tội làm môi giới hối lộ mà của hối lộ có giá trị từ mười triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng. Nếu của hối lộ không phải là tiền mà là tài sản thì giá trị tài sản đó là giá thị trường vào thời điểm đưa hoặc nhận của hối lộ hoặc đã hứa đưa hoặc nhận hối lộ, vì trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của một người khi thực hiện hành vi phạm tội. Trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng không tự mình xác định được giá trị của hối lộ thì phải trưng cầu giám định (định giá).
Điều luật quy định của hối lộ có giá trị từ mười triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng, chứ không quy định người phạm tội đã môi giới hối lộ mà người đưa hoặc người nhận được của hối lộ có giá trị như trên, nên chỉ cần xác định người phạm tội có ý định môi giới hối lộ mà của hối lộ có giá trị từ mười triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng là thuộc trường hợp quy định tại điểm e khoản 2 Điều 290 Bộ luật hình sự, còn đã đưa hoặc nhận được số tiền đó hay chưa, không phải là dấu hiệu bắt buộc.
e. Gây hậu quả nghiêm trọng khác
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng quy định ở khoản 1 của điều luật, chỉ khác ở chỗ trường hợp phạm tội này là hậu quả nghiêm trọng do hành vi làm môi giới hối lộ từ 500.000 đồng đến dưới 10.000.000 đồng. Nếu dưới 500.000 đồng mà gây hậu quả nghiêm trọng thì chỉ thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 của điều luật. Được coi là gây hậu quả nghiêm trọng khác nếu do hành vi làm môi giới hối lộ mà:
- Làm chết một người;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% đến 100%, trong đó không có người nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng;
- Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng.
- Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra đã là nghiêm trọng chưa.66
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 290 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ ba năm đến mười năm, là tội phạm rất nghiêm trọng.
So với khoản 2 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 2 Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn khoản 2 Điều 227, vì khoản 2 Điều 290 có khung hình phạt nhẹ hơn và nếu so sánh Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985 với Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999 thì Điều 290 nhẹ hơn, đồng thời khoản 2 Điều 290 có nhièu quy định có lợi cho người phạm tội. Vì vậy, nếu hành vi làm môi giới hối lộ xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì áp dụng khoản 2 Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội làm môi giới hối lộ theo khoản 2 Điều 290 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, không tập trung nhiều tình tiết là yếu tố định khung hình phạt, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới ba năm tù) nhưng không được dưới sáu tháng tù, vì theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự thì, khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật (khung hình phạt nhẹ hơn liền kề của khoản 2 là khoản 1 Điều 290 Bộ luật hình sự). Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, lại tập trung nhiều tình tiết là yếu tố định khung hình phạt, thì có thể bị phạt tới mười năm tù.
3. Làm môi giới hối lộ thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 290 Bộ luật hình sự
a. Của hối lộ có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm đ khoản 2 của điều luật chỉ khác ở chỗ: Giá trị của hối lộ từ năm mươi triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng.
Cũng như đối với trường hợp quy định tại điểm đ khoản 2 của điều luật, nếu của hối lộ không phải là tiền mà là tài sản thì giá trị tài sản đó là giá thị trường vào thời điểm đưa hoặc nhận của hối lộ, hoặc đã hứa đưa hứa nhận của hối lộ có giá trị như trên; chỉ cần xác định người phạm tội sẽ làm môi giới hối lộ có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng là thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 3 Điều 290 Bộ luật hình sự, còn người đưa hoặc người nhận đã đưa hoặc đã nhận được hay chưa, không phải là dấu hiệu bắt buộc.
b. Gây hậu quả rất nghiêm trọng khác
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm e khoản 2 của điều luật chỉ khác ở chỗ: Hậu quả do hành vi làm môi giới hối lộ gây ra là hậu quả rất nghiêm trọng khác.
Hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi làm môi giới hối lộ gây ra là những thiệt rất nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Cũng như đối với tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ, tội đưa hối lộ và một số tội phạm khác, tuy chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả rất nghiêm trọng khác do hành vi làm môi giới hối lộ gây ra, nhưng căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự đối chiếu với hướng dẫn về các tội phạm khác trong Bộ luật hình sự, thì có thể coi các thiệt hại sau là hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi làm môi giới hối lộ gây ra:
- Làm chết hai người;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm đến bảy người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 101% đến 200%, trong đó không có trường hợp nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên;
- Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng;
- Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản thuộc hai đến ba trường hợp được coi là hậu quả nghiêm trọng. Ví dụ: Làm chết một người và còn làm bị thương hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; Làm chết một người và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. v.v...
- Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng rất xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là rất nghiêm trọng.67
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 290 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ tám năm đến mười lăm năm, cũng là tội phạm rất nghiêm trọng, nhưng so với khoản 2 của điều luật thì mức độ nghiêm trọng cao hơn.
So với khoản 3 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 3 Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn khoản 3 Điều 227, vì khoản 3 Điều 290 có khung hình phạt nhẹ hơn và nếu so sánh Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985 với Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999 thì Điều 290 nhẹ hơn, đồng thời khoản 3 Điều 290 có nhiều quy định có lợi cho người phạm tội. Vì vậy, nếu hành vi làm môi giới hối lộ xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì áp dụng khoản 3 Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 3 Điều 290 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự (từ Điều 45 đến Điều 54).
Nếu người người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới tám năm tù) nhưng không được dưới ba năm tù, vì theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự thì khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật ( khung hình phạt nhẹ hơn liền kề của khoản 3 là khoản 2 Điều 290 Bộ luật hình sự ).
Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt tới mười lăm năm tù.
4. Làm môi giới hội lộ thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 290 Bộ luật hình sự
a. Của hối lộ có giá trị từ ba trăm triệu đồng trở lên
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm đ khoản 2, điểm a khoản 3 của điều luật chỉ khác ở chỗ: Giá trị của hối lộ từ ba trăm triệu đồng trở lên.
Cũng như đối với trường hợp quy định tại điểm đ khoản 2, điểm a khoản 3 của điều luật, nếu của hối lộ không phải là tiền mà là tài sản thì giá trị tài sản đó là giá thị trường vào thời điểm đưa hoặc nhận của hối lộ hoặc đã hứa đưa hoặc nhận hối lộ; chỉ cần xác định người phạm tội làm môi giới hối lộ mà của hối lộ có giá trị từ ba mươi triệu đồng trở lên là thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 4 Điều 290 Bộ luật hình sự, còn của hối lộ đó đã đưa hoặc nhận được hay chưa, không phải là dấu hiệu bắt buộc.
b. Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm e khoản 2, điểm b khoản 3 của điều luật chỉ khác ở chỗ: Hậu quả do hành vi làm môi giới hối lộ gây ra là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác.
Hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác do hành vi làm môi giới hối lộ gây ra là những thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Cũng như đối với tội nhận hối lộ, tội đưa hối lộ, tuy chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi làm môi giới hối lộ gây ra, nhưng căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự đối chiếu với hướng dẫn về các tội phạm khác trong Bộ luật hình sự, thì có thể coi các thiệt hại sau là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi làm môi giới hối lộ gây ra:
Làm chết ba người trở lên;
Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên;
Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của tám người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%;
Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 201% trở lên, trong đó không có trường hợp nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên;
Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ một tỷ năm trăm triệu đồng trở lên;
Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc bốn trường hợp được coi là hậu quả nghiêm trọng;
Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc hai trường hợp được coi là hậu quả rất nghiêm trọng;
Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là đặc biệt nghiêm trọng.68
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 290 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
So với khoản 4 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 4 Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn khoản 4 Điều 227, vì khoản 4 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985 có khung hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, còn khoản 4 Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999 có khung hình phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm. Mặt khác, nếu so sánh Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985 với Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999 thì Điều 290 nhẹ hơn, đồng thời khoản 4 Điều 290 có nhiều quy định có lợi cho người phạm tội. Vì vậy, nếu hành vi làm môi giới hối lộ xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì áp dụng khoản 4 Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 4 Điều 290 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54).
Nếu người người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới mười hai năm tù) nhưng không được dưới tám năm tù, vì theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự thì khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật ( khung hình phạt nhẹ hơn liền kề của khoản 4 là khoản 3 Điều 290 Bộ luật hình sự ). Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc tuy có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, là người có nhân thân xấu, thì có thể bị phạt tới hai mươi năm tù.
5. Làm môi giới hội lộ thuộc các trường hợp quy định tại khoản 6 Điều 290 Bộ luật hình sự
Đối với hành vi làm môi giới hối lộ, người phạm tội sau khi đã thực hiện hành vi phạm tội đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự .
Chủ động khai báo trước khi bị phát giác là trường hợp đã thực hiện hành vi làm môi giới hối lộ; việc đưa hoặc nhận hối lộ chưa thực hiện hoặc đã thực hiện nhưng chưa bị phát giác ( chưa ai biết gì ) mà người làm môi giới hối lộ đã tự mình viết đơn hoặc trực tiếp đến cơ quan, tổ chức khai báo toàn bộ sự việc phạm tội mà mình thực hiện, góp phần vào việc ngăn chặn, phát hiện hoặc điều tra tội phạm.
Chủ động khai báo trước khi hành vi bị bị phát hiện được coi như là trường hợp tự thú nên có thể được miễn trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 25 Bộ luật hình sự.
Có thể coi quy định tại khoản 6 Điều 290 Bộ luật hình sự là trường hợp miễn trách nhiệm hình sự đối với hành vi làm môi giới hối lộ, nên khi xác định trường hợp này phải đối chiếu với các quy định về miễn trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 25 Bộ luật hình sự.
Đây là quy định mới theo hướng có lợi cho người phạm tội mà Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985 chưa quy định. Vì vậy, đối với hành vi làm môi giới hối lộ thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 chưa bị phát hiện mà người phạm tội chủ động khai báo thì được áp dụng khoản 6 Điều 290 Bộ luật hình sự để miễn trách nhiệm hình sự đối với họ.
6. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội làm môi giới hối lộ
Ngoài hình phạt chính người phạm tội làm môi giới hối lộ còn có thể bị phạt tiền từ một lần đến năm lần giá trị của hối lộ.
So với Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về hình phạt bổ sung đối với tội phạm này thì khoản 5 Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999 chỉ quy định hình phạt tiền mà không quy định hình phạt tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Mặt khác, khoản 5 Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999 chỉ quy định “có thể bị phạt...”, còn Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “thì bị phạt...” Vì vậy, đối với hành vi làm môi giới hối lộ xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì áp dụng khoản 5 Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội.
No comments:
Post a Comment