Câu 2. Vấn đề bảo lưu trật tự công cộng
1. Khái niệm
1.1. Khái niệm về trật tự công cộng và bảo lưu trật tự công cộng:
Theo nghĩa chung nhất thì khái niệm trật tự công là “…tình trạng xã hội của một quốc gia trong một thời điểm xác định mà hoà bình, ổn định và an toàn công cộng không bị xáo trộn”.
Trên thực tế, mỗi quốc gia xuất phát từ những lợi ích, đường lối phát triển khác nhau trong việc bảo vệ những giá trị nền tảng của mình nên khái niệm “Trật tự công’’ cũng mang màu sắc quốc gia. Tuy nhiên, một mặt, vấn đề trật tự công của quốc gia luôn có tính chất ổn định, bền vững nhưng mặt khác, nó cũng không phải là bất biến. Nói cách khác, khái niệm này có thể thay đổi theo thời gian, trong từng giai đoạn hay thời điểm thích hợp (ví dụ như trong lĩnh vực kinh tế, chính sách, đường lối của một quốc gia có thể thay đổi cho phù hợp với yêu cầu phát triển).
Dưới góc độ pháp lý, nội dung khái niệm cũng thay đổi trong từng lĩnh vực khác nhau.Trong linh vực luật tư, khái niệm trật tự công được sử dụng phổ biến theo nghĩa là các “chuẩn mực mang tính mệnh lệnh mà các chủ thể không thể vi phạm bằng hành vi hoặc thoả thuận khác”. Đó là những giá trị, chuẩn mực hết sức trừu tượng và không thể được qui định một cách rõ ràng, những giá trị này luôn được bảo vệ nhằm đáp ứng tổng thể các yêu cầu căn bản về chính trị, xã hội, kinh tế của quốc gia, nó có chức năng cơ bản nhằm duy trì sự ổn định xã hội, đạo đức và thuần phong mỹ tục, hoặc nhằm bảo vệ những lợi ích căn bản của công dân.
Trong lĩnh vực luật dân sự các nước, khái niệm “trật tự công” để chỉ các quy phạm mang tớnh mệnh lệnh áp dụng điều chỉnh các quan hệ xã hội vì lý do trật tự và đạo đức xã hội. Có thể hiểu các quy định thuộc điều cấm của pháp luật như một loại quy phạm có tính chất mệnh lệnh của quốc gia (quy phạm áp dụng bắt buộc) . Đây là loại qui định luôn được áp dụng trong mọi quan hệ pháp luật dân sự trong nước và quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, nhằm bảo vệ trật tự công của quốc gia cũng như các giá trị đạo đức xã hội.
Tóm lại, “trật tự công” được hiểu là tổng thể các nguyên tắc thành văn hoặc bất thành văn trong một trật tự pháp lý, được coi là các nguyên tắc mang tính nền tảng mà các chủ thể không thể vi phạm hoặc có thỏa thuận khác, các quy phạm này có tính chất loại trừ cả pháp luật nước ngoài cũng như các văn bản có tính chất pháp lý của cơ quan công quyền nước khác.
Bảo lưu trật tự công cộng là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyềnkhông áp dụng những quy định của hệ thống pháp luật nước ngoài, các phán quyết của cơ quan tài phán nước ngoài do các quy định hoặc phán quyết mâu thuẫn với các nguyên tắc cơ bản quốc gia áp dụng mà nguyên tắc đó dựa trênnhững nền tảng kinh tế, chính trị, pháp luật, văn hóa, tôn giáo
Nguyên nhân của việc tồn tại khái niệm bảo lưu trật tự công cộng đó là toàncầu hóa quá nhanh trong khi trình độ phát triển kinh tế - xã hội, đường lốichính trị của các quốc gia có sự khác biệt quá lớn. Ví dụ: Việt Nam là nướcđang phát triển, theo đường lối phát triển chủ nghĩa xã hội; trong khi, Mỹ là quốc gia phát triển, theo đường lối chủ nghĩa tư bản. Như vậy, không thể tránh khỏi những trường hợp không phù hợp các quan hệ xã hội khi công dân, pháp nhân hai quốc gia có các giao lưu dân sự. Một trường hợp điển hình đó là mua bán đất đai, trong khi Việt Nam quy định đất đai thuộc sở hữu nhà nước theo Bộ luật dân sự thì Mỹ quy định đất đai thuộc sở hữu tư nhân.
Ví dụ: Khi đăng ký kết hôn cho trường hợp giữa một nữ công dân Việt Nam (A) và nam công dân nước B (là một quốc gia hồi giáo, pháp luật nước B này còn công nhận chế độ hôn nhân đa thê). Cơ quan có thẩm quyền Việt Nam sẽ áp dụng điều 103 luật hôn nhân gia đình Việt Nam năm 2000 để xác định hệ thống pháp luật được áp dụng để xem xét điều kiện kết hôn cho các bên. Theo điều 103 khoản 1, đoạn 1 thỡ nguyên tắc xác định hệ thống pháp luật được áp dụng trong trường hợp này là nguyên tắc “Luật quốc tịch của của các bên”, nghĩa là mỗi bên sẽ tuân thủ pháp luật nước mà họ có quốc tịch về điều kiện kết hôn. Như vậy, nếu xét riêng quy định này (điều 103 khoản 1 đoạn 1, có tính chất là một quy phạm xung đột) thì khả năng quy phạm này sẽ dẫn chiếu đến hệ thống pháp luật nước B để xem xét điều kiện kết hôn của B. Giả định công dân B đáp ứng đầy đủ quy định của pháp luật nước B kể cả việc công nhận anh B có quyền kết hôn đa thê. Trong tình huống này nếu áp dụng điều 103 khoản 1 nói trên sẽ dẫn đến hậu quả là cơ quan có thẩm quyền sẽ áp dụng hệ thống pháp luật nước ngoài có nội dung vi phạm “các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” (hay trật tự công Việt Nam) vì pháp luật hôn nhân gia đình Việt Nam chỉ công nhận nguyên tắc hôn nhân 1 vợ một chồng tại điều 9 của luật hôn nhân năm 2000. Và do vậy trong trường hợp này cơ quan có thẩm quyền có thể từ chối (hay loại bỏ) không áp dụng pháp luật nước ngoài đó để bảo vệ trật tự công của Việt Nam.
1.2. Một số khái niệm liên quan:
Bảo lưu trong tư pháp quốc tế là việc loại trừ không áp dụng pháp luật nước ngoài theo sự dẫn chiếu của các quy phạm xung đột vì pháp luật nước ngoài trái trật tự công hay trái các nguyên tắc cơ bản của pháp luật nước có tòa án giải quyết vụ việc.
“Trật tự công quốc tế” là tổng thể những giá trị, chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận. Thông thường những giá trị này được thể hiện trong những quy phạm luật thực chất (hay còn gọi là luật nội dung), hoặc trong các quy phạm tập quán của hệ thống pháp luật quốc tế và chỉ được áp dụng trong quan hệ pháp lý quốc tế.
Ví dụ: Các quyền chính trị, dân sự cơ bản trong Tuyên ngôn nhân quyền, công ước của liên minh châu Âu về quyền con người. Đây là những giá trị chuẩn mực tối thiểu mà mỗi quốc gia dù phát triển cao hay đang phát triển đều phải tuân thủ quốc tế.
1.3.Ý nghĩa của bảo lưu trật tự công cộng :
Ý nghĩa của bảo lưu trật tự công là cơ quan tài phán sẽ không áp dụng pháp luật nước ngoài lẽ ra phải được áp dụng theo sự dẫn chiếu của quy phạm xung đột mà áp dụng nội luật của mình trong tình huống pháp lý cụ thể. Nói cách khác là trong truờng hợp xét thấy cần bảo vệ trật tự công quốc gia thì sẽ áp dụng ngay pháp luật của quốc gia để giải quyết mà không cần thông qua quy phạm xung đột. Thông thường trong trường hợp này sẽ áp dụng các quy phạm mệnh lệnh của quốc gia.
Ví dụ, cơ quan có thẩm quyền sẽ không áp dụng pháp luật nước ngoài quy định công nhận hôn nhân đa thê hoặc pháp luật nước ngoài không có quy định xử phạt hành vi cạnh tranh không lành mạnh của một thương nhân khi sử dụng nhãn hiệu rượu Champagne cho sản phẩm nước mắm để bán trên thị trường…
2. Pháp luật Việt Nam liên quan đến bảo lưu trật tự công cộng trong tư pháp quốc tế
Hiện nay, vấn đề bảo lưu trật tự công cộng trong tư pháp quốc tế ở
Việt Nam được thể hiện ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau, tuy nhiên, điển hình là tại một số văn bản sau:
- Bộ luật dân sự 2005: Theo Điều 759 khoản 3, 4 Bộ luật dân sự 2005 về nguyên tắc áp dụng điều ước quốc tế, pháp luật nước ngoài và tập quán quốc tế trong tư pháp quốc tế quy định về việc pháp luật nước ngoài sẽ được áp dụng trong trường hợp: Thứ nhất, “việc áp dụng” không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam; Thứ hai, “hậu quả của việc áp dụng” không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam; Thứ ba, các bên có thỏa thuận và sự thỏa thuận đó cũng không được trái với quy định của Bộ luật dân sự và văn bản pháp luật khác.
Tập quán quốc tế được áp dụng khi: Bộ luật dân sự và các văn bản khác của nước ta hay các điều ước quốc tế Việt Nam là thành viên, hợp đồng dân sự giữa các bên không có quy định về vấn đề đó và “việc áp dụng” hoặc “hậu quả của việc áp dụng” không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Do vậy, nếu trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam thì pháp luật nước ngoài hay tập quán quốc tế sẽ không được áp dụng trong mọi trường hợp.
- Luật Thương mại 2005: Tại Điều 5, khoản 2 Luật Thương mại 2005 quy định: “Các bên trong giao dịch thương mại có yếu tố nước ngoài được thoả thuận áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thuơng mại quốc tế nếu pháp luật nước ngoài, tập quán thuơng mại quốc tế đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”.
Pháp luật nước ngoài hay tập quán thương mại quốc tế được áp dụng khi thỏa mãn các điều kiện sau:
- Các bên có thỏa thuận áp dụng pháp luật nước ngoài;
- Pháp luật nước được chọn không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Việc áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tê chỉ dành cho trường hợp các bên trong giao dịch có thỏa thuận áp dụng luật đó.
Cũng giống như quy định tại Bộ luật dân sự, pháp luật nước ngoài cũng sẽ không được áp dụng khi nó trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
- Luật Đầu tư 2005: Điều 5 khoản 4 Luật đầu tư năm 2005: “Đối với hoạt động đầu tư nước ngoài, trong trường hợp pháp luật Việt Nam chưa có quy định, các bên có thể thỏa thuận trong hợp đồng việc áp dụng pháp luật nước ngoài và tập quán đầu tư quốc tế nếu việc áp dụng pháp luật nước ngoài và tập quán đầu tư quốc tế đó không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”.
Theo quy định trên, pháp luật nước ngoài, tập quán đầu tư quốc tế được áp dụng đối với hoạt động đầu tư nước ngoài khi thỏa mãn các điều kiện:
- Pháp luật Việt Nam chưa có quy định;
- Các bên trong hợp đồng thỏa thuận áp dụng pháp luật nước ngoài;
- Việc áp dụng pháp luật nước ngoài không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Nếu trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam thì đương nhiên pháp luật nước đó hay tập quán đó sẽ không được áp dụng trong giao dịch.
- Luật các tổ chức tín dụng 2010: Điều 3 khoản 2 Luật các tổ chức tín dụng 1997 ghi nhận: “Các bên tham gia hoạt động ngân hàng có thể thoả thuận áp dụng tập quán quốc tế, nếu tập quán đó không trái với pháp luật của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Kế thừa tư tưởng đó, tại Điều 4 khoản 3 Luật các tổ chức tín dụng 2010 có hiệu lực thi hành từ ngày1/1/2011 cũng nêu rõ: “Tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động ngân hàng được quyền thỏa thuận áp dụng tập quán thương mại, bao gồm: a) Tập quán thương mại quốc tế do Phòng thương mại quốc tế ban hành; b) Tập quán thương mại khác không trái với pháp luật của Việt Nam”.
Theo quy định trên thì tập quán thương mại không được áp dụng khi nó trái với pháp luật Việt Nam. Như phần đầu đã phân tích, việc quy định chung chung “không trái với pháp luật Việt Nam là không còn phù hợp nữa và nên chăng phải quy định lại là “không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” để phù hợp với tinh thần của các văn bản khác.
- Bộ luật hàng hải 2005: Tại Điều 4, khoản 3 Bộ luật hàng hải 2005 quy định: “trong trường hợp Bộ luật này có quy định hoặc các bên có thoả thuận trong hợp đồng, luật nước ngoài có thể được áp dụng tại Việt Nam đối với các quan hệ hợp đồng liên quan đến hoạt động hàng hải, nếu luật đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”.
Như vậy, đối với các quan hệ liên quan đến hoạt động hàng hải, bất kể có yếu tố nước ngoài hay không thì đều có thể áp dụng pháp luật nước ngoài. Việc áp dụng này được thực hiện trong hai trường hợp là: Thứ nhất, do Bộ luật hàng hải quy định; Thứ hai, do có thỏa thuận trong hợp đồng. Tuy nhiên, việc sử dụng thuật ngữ “có thể” mang tính chất chỉ là khả năng áp dụng, có thể sẽ không được áp dụng. Trong khi đó luật nước ngoài sẽ được áp dụng trong mọi trường hợp khi “không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”. Do vậy, phải khẳng định là áp dụng, chứ không phải là “có thể”. Và giống như các trường hợp khác, nếu pháp luật nước ngoài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam thì nó cũng không được áp dụng.
- Luật Hôn nhân- gia đình 2000: Điều 101 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam: “Trong trường hợp Luật này, các văn bản pháp luật khác của Việt Nam có quy định hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia viện dẫn thì pháp luật nước ngoài được áp dụng, nếu việc áp dụng đó không trái với các nguyên tắc quy định trong Luật này.”. Như vậy, pháp luật nước ngoài được áp dụng trong hai trường hợp là:
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và các văn bản luật khác của Việt Nam có quy định áp dụng pháp luật nước ngoài; Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên quy định áp dụng pháp luật nước ngoài. Đương nhiên pháp luật nước ngoài chỉ được áp dụng khi nó không trái với các quy định trong Luật hôn nhân- gia đình năm 2000. Theo đó, các nguyên tắc cơ bản trong trường hợp này được quy định ngay tại Điều 2 của Luật hôn nhân gia đình.
Quy định rõ ràng như vậy đã tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể trong quan hệ hôn nhân và gia đình, cũng như cho các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong việc áp dụng pháp luật. Việc không quy định giống các văn bản khác như trong bài viết đã phân tích, tức Luật hôn nhân – gia đình năm 2000 không sử dụng thuật ngữ “không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” mà sử dụng một thuật ngữ có tính chất cụ thể hơn là “không trái với các nguyên tắc quy định trong Luật này” không hề có sự mâu thuẫn, vì Luật hôn nhân- gia đình được ban hành trên cơ sở có sự phù hợp với thực tiễn và các nguyên tắc của pháp luật Việt Nam. Đây chỉ là sự cụ thể hóa các nguyên tắc đó cho phù hợp với đặc thù của các quan hệ trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình.
3. Vấn đề bảo lưu trật tự công cộng trong việc áp dụng pháp luật nước ngoài và tập quán quốc tế.
3.1. Nguyên nhân của việc “bảo lưu trật tự công”
Trong lý luận về xung đột pháp luật thì đó là khi cơ quan tài phán của quốc gia áp dụng pháp luật nước ngoài. Luật nước ngoài chỉ có thể được áp dụng thông qua một quy phạm xung đột. Ngay cả khi pháp luật nước ngoài là luật do các bên trong hợp đồng lựa chọn thì sự lựa chọn này cũng dựa trên 1 quy phạm xung đột.
Điều 769 Bộ luật dân sự 2005 quy định: “Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng được xác định theo pháp luật nước nơi thực hiện hợp đồng, nếu các bên không có thỏa thuận khác”. Đây là một quy phạm xung đột trong tư pháp quốc tế cho phép các bên đuợc lựa chọn luật áp dụng là pháp luật quốc tế hoặc pháp luật nước ngoài, nhưng việc lựa chọn luật áp dụng trong hợp đồng là pháp luật nào thì lại xuất phát từ ý chí của các bên chứ không dựa trên ý chí của nhà nước, cho nên sự lựa chọn này cũng phải đảm bảo không trái các nguyên tắc cơ bản của pháp luật việt Nam
Như vậy hệ thống các quy phạm xung đột trong tư pháp quốc tế cũng được coi là pháp luật quốc gia, do quốc gia xây dựng trong nội luật hoặc các điều uớc quốc tế, nên việc xây dựng và áp dụng các quy phạm xung đột trước hết cũng dựa trên ý chí và lợi ích quốc gia. Mặt khác, quốc gia cũng là chủ thể cơ bản trong các quan hệ pháp lý quốc tế, đồng thời cũng có chủ quyền tuyệt đối trong việc xây dựng và áp dụng hệ thống pháp luật riêng của mình.Việc áp dụng các quy phạm xung đột trong tư pháp quốc tế cũng là tôn trọng ý chí, lợi ích quốc gia, đồng thời đảm bảo tính thống nhất trong việc áp dụng một cách tổng thể hệ thống các quy phạm pháp luật.
Tuy nhiên do tính chất của loại qui phạm này là có tính chất trung lập trong việc xác định lựa chọn luật áp dụng, thông thường đây là các quy phạm xung đột hai chiều , nên chỉ đưa ra các nguyên tắc chung để lựa chọn giữa các hệ thống pháp luật có liên quan. Điều đó có nghĩa là trong một tình huống cụ thể, đó xác định hệ thống pháp luật đ-ược áp dụng, các quy phạm xung đột thường dựa trên các “hệ thuộc luật” như hệ thuộc “luật nhân thân”, “luật nơi giao kết hợp đồng”, “luật nơi có tài sản”… được coi là cần có (nguyên tắc) để xác định hệ thống pháp luật áp dụng với một quan hệ tư pháp quốc tế t-ương ứng.
Như vậy, các quy phạm xung đột có tính chất hết sức khách quan trong việc chọn luật, vì các quy phạm này chỉ dựa trên tính chất của chính quan hệ pháp lý phát sinh để xác định một hệ thống pháp luật phù hợp nhất để điều chỉnh một quan hệ tư pháp quốc tế Thông thường đây là hệ thống pháp luật có mối quan hệ “gắn bó” nhất với quan hệ pháp lý phát sinh.
Chính đặc trưng dẫn chiếu một cách hết sức khách quan của quy phạm xung đột trong việc lựa chọn luật áp dụng nên các quy phạm này thường được coi là có tính chất điều chỉnh gián tiếp. Bởi vì các quy phạm xung đột chỉ lựa chọn giữa các hệ thống pháp luật của các quốc gia mà không xác định nội dung cụ thể của các quy phạm đó, hay tinh thần của nhà lập pháp.
Chính do đặc trưng này mà khi áp dụng chúng, khi cơ quan có thẩm quyền có nhiều khả năng phải áp dụng pháp luật nước ngoài và các nguồn pháp luật quốc tế, nh-ưng lại không lường trước được về nội dung các quy định đó. Do vậy, khi pháp luật nước ngoài có nội dung trái trật tự công, trái các nguyên tắc cơ bản của pháp luật có toà án giải quyết vụ việc, hoặc thậm chí pháp luật nước ngoài không có qui định về vấn đề đó thì vấn đề bảo lưu trật tự công được đặt ra.
Như vậy có 2 nguyên chính đặt ra vấn đề bảo lưu trong tư pháp quốc tế, đó là do việc sử dụng các qui phạm xung đột và do nội dung pháp luật các nước có quy định khác nhau về một vấn đề. Sự khác biệt có thể là các quy định nội dung pháp lý cụ thể, có thể rộng hơn, khác biệt về các giá trị, đường lối, hoặc các lợi ích căn bản, do xuất phát từ trình độ phát triển, văn hoá, chính trị…khác nhau nên mỗi quốc gia có những mục tiêu khác nhau cần bảo vệ, chính xác hơn là bảo vệ trật tự công quốc gia cùng ở những cấp độ, sắc thái khác nhau.
3.2. Phạm vi áp dụng bảo lưu trật tự công
Để vận dụng được nguyên tắc bảo lưu trật tự công thì vấn đề lớn nhất đặt ra cho các cơ quan có thẩm quyền là xác định khi nào thì pháp luật nước ngoài bị coi là trái trật tự công quốc gia? Pháp luật nước ngoài sẽ được áp dụng giới hạn trong phạm vi nào? Trong khi bản thân hai khái niệm này trong pháp luật quốc gia và ngay cả việc xác định hay tìm hiểu về pháp luật nước ngoài ngoài còn trừu tượng, phức tạp và không hề dễ xác định. Thực tế cho thấy, đến nay, trên thế giới có bao nhiêu quốc gia thì có bấy nhiêu hệ thống pháp luật khác nhau, mặc dù các học giả trong lĩnh vực luật so sánh đã cố gắng xây dựng và tìm ra các nét tương đồng và khác biệt của các hệ thống pháp luật lớn trong thế giới đương đại giúp thế giới tìm ra những tiếng nói chung trong một số lĩnh vực có tính chất toàn cầu. Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về phạm vi áp dụng các quy phạm của pháp luật nuớc ngoài. Việc loại bỏ không áp dụng pháp luật nước ngoài chỉ đối với một số quy phạm riêng lẻ có nội dung trái trật tự công hay loại bỏ toàn bộ hệ thống pháp luật
Như vậy, không thể coi pháp luật nước ngoài có quy định khác với pháp luật Việt Nam là có thể bị gạt bỏ, không áp dụng để bảo vệ trật tự công quốc gia, mà cần xác định chỉ khi nào thì pháp luật nước ngoài, tập quán quốc tế… trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam thì mới bị gạt bỏ, không áp dụng.
Thực tiễn vận dụng nguyên tắc này tại hệ thống cơ quan tài phán Việt Nam còn rất hạn chế, hay nói cách khác vấn đề này mới chỉ dừng lại ở các quy định của pháp luật trên giấy tờ. Nguyên nhân chính là do hiện nay các cơ quan tài phán rất ít (hoặc hầu nh-ư) không áp dụng pháp luật nước ngoài khi giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài.. Các cơ quan tài phán của nhà nước chỉ thiên về áp dụng các quy phạm luật nội dung (luật thực chất) của quốc gia. Nguyên nhân là do chưa có quy định về việc áp dụng các quy phạm luật nội dung với quy phạm xung đột, nên ưu tiên loại quy phạm nào trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Trong tương lai, không thể không chú trọng đến vấn đề này khi số lượng các vụ việc loại này ngày một gia tăng, yêu cầu đòi hỏi việc bảo vệ lợi ích công của nhà nước sẽ đặt ra.
Ngoài ra, bảo lưu trật tự công cũng được sử dụng trong một số lĩnh vực khác như lĩnh vực luật lao động hay luật an sinh xã hội. Trong luật lao động, các quy định liên quan đến trật tự công cũng được coi là các quy phạm mang tính mệnh lệnh Nhưng cũng có thể bị huỷ bỏ trong trường hợp cần thiết bảo vệ quyền lợi người lao động (đối tượng được coi là một bên “yếu hơn” trong hợp đồng) và cần sự bảo vệ của pháp luật. Ví dụ, trong pháp luật của hầu hết các nước đều quy định cần tôn trọng sự thoả thuận của các bên trong hợp đồng lao động, đây là nguyên tắc mang tính mệnh lệnh, nhưng những thoả thuận này cũng bị hạn chế bởi pháp luật nhà nước, nói cách khác các bên không được thoả thuận trong hợp đồng những điều khoản trái với các quy định của pháp luật nhà nước gây bất lợi cho người lao động. Vì vậy pháp luật thường quy định những chuẩn mực tối thiểu nhằm bảo vệ quyền lợi của người lao động, những quy định này có tính chất Như “trật tự công” và cần tuân thủ.
Trong lĩnh vực pháp luật quốc tế là một lĩnh vực mà các quy phạm pháp luật quốc tế có tính chất là các chuẩn mực tối thiểu để mọi quốc gia dù ở trình độ phát triển nào cũng có thể thực hiện được, các điều ước quốc tế cũng có những quy định ngoại lệ cho phép một quốc gia không áp dụng pháp luật nước ngoài nếu nội dung của luật nước ngoài xâm hại đến trật tự công của quốc gia đó. Nếu không quy định như vậy các điều ước quốc tế khó mà có thể được phê chuẩn.
Tuy nhiên, cần nhấn mạnh việc áp dụng các quy phạm xung đột trong hệ thống pháp luật quốc gia cũng khác với việc áp dụng các quy phạm xung đột trong ĐƯQT. Đối với các QPXĐ thống nhất trong các ĐƯQT khi dẫn chiếu áp dụng pháp luật nước ngoài cũng không xác định rõ nội dung pháp luật nước ngoài, đồng thời việc áp dụng các quy phạm này cũng không dựa trên nguyên tắc có đi có lại . Do vậy, các công ước của hội nghị Lahaye cũng có các quy định cho phép loại trừ không áp dụng pháp luật nước ngoài được dẫn chiếu đến nếu PLNN đó trái với trật tự công của nước có toà án có thẩm quyền.
3.3. Hệ quả của việc bảo lưu trật tự công
Khi cơ quan có thẩm quyền viện dẫn bảo lưu trật tự công để giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài có thể dẫn đến một số hệ quả pháp lý sau:
Hiệu lực của các quy phạm xung đột bị triệt tiêu (mất hiệu lực)
Bởi vì khi áp dụng các quy phạm xung đột trong một tình huống cụ thể nếu quy phạm xung đột dẫn chiếu chọn áp dụng pháp luật nước ngoài và pháp luật nước ngoài có nội dung trái trật tự công hay các nguyên tắc nền tảng cơ bản của pháp luật của tòa án đang giải quyết vụ việc thì pháp luật nước ngoài sẽ không được áp dụng (bị gạt bỏ). Và Như vậy quy phạm xung đột dẫn chiếu đến hệ thông pháp luật trong trường hợp này sẽ không có hiệu lực vì đã lựa chọn một hệ thống pháp luật không được áp dụng trên thực tế.
Hệ quả tích cực của bảo luu trật tự công
Hệ quả tích cực của bảo lưu trật tự công là cơ quan tài phán sẽ không áp dụng pháp luật nước ngoài lẽ ra phải được áp dụng theo sự dẫn chiếu của quy phạm xung đột mà áp dụng nội luật của mình trong tình huống pháp lý cụ thể. Nói cách khác là trong trường hợp xét thấy cần bảo vệ trật tự công quốc gia thì sẽ áp dụng ngay pháp luật của quốc gia để giải quyết mà không cần thông qua quy phạm xung đột. Thông thường trong trường hợp này sẽ áp dụng các quy phạm mệnh lệnh của quốc gia.
Ví dụ, cơ quan có thẩm quyền sẽ không áp dụng pháp luật nước ngoài quy định công nhận hôn nhân đa thê hoặc pháp luật nước ngoài không có quy định xử phạt hành vi cạnh tranh không lành mạnh của một thương nhân khi sử dụng nhãn hiệu rượu Champagne cho sản phẩm nước mắm để bán trên thị trường…
Hệ quả tiêu cực của bảo lưu trật tự công
Đây là trường hợp áp dụng pháp luật nước ngoài, pháp luật nước ngoài có thể được áp dụng nhưng hậu quả của việc áp dụng pháp luật nước ngoài đó ảnh hưởng đến trật tự công quốc gia. Cụ thể là trong trường hợp tòa án phải công nhận hiệu lực của một bản án hay quyết định do tòa án hoặc trọng tài nước ngoài giải quyết hoàn toàn theo pháp luật nước ngoài.
Cách khắc phục hậu quả: “Trật tự công” trước hết là một phạm trù mang màu sắc quốc giađiều đó có nghĩa mỗi nước có những khác biệt về giá trị đạo đức xã hội, đường lối hoặc các lợi ích văn bản, do xuất phát từ trình độ phát triển, văn hóa chính trị khác nhau. Những giá trị này luôn được nhà nước bảo vệ nhằm duy trì sự ổn định xã hội, đạo đức và thuần phong mỹ tục. Mỗi quốc gia theo đuổi những mục tiêu, lợi ích khác nhau nên việc bảo vệ trật tự công cộng ở quốc gia cũng có cấp độ, sắc thái thái khác nhau. Vì thế áp dụng bảo lưu trật tự công cộng là sự thể hiện ý chí của quố gia, nó cho phép quốc gia bảo vệ được chủ quyền cũng như lợi ích của mình trong các quan hệ dân sự quốc tế . Do đó đối với quốc gia áp dụng bảo lưu trật tự mang một ý nghĩ tích cực . Chính vì bảo lưu trật tự công cộng mang một ý nghĩa tích cực đối với các quốc gia nên các quốc gia sử dụng bảo lưu trật tự công cộng như một công cụ nhằm hạn chế áp dụng pháp luật nước ngoài .Song việc áp dụng bảo lưu trật tự công cộng không thể hiểu đó là việc phủ nhận các hệ thống pháp luật nước ngoài mà nó chỉ là không áp dụng một số quy định liên quan không phù hợp mà thôi. Trước khi áp dụng bảo lưu trật tự công cộng các cơ quan tư pháp và tòa án có trách nhiệm tìm hiểu nội dung đích thực của pháp luật nước ngoài xem nó có phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật nước mình hay không.
Mặt khác, các quốc gia nên kí kết ĐƯQT với nhau trong đó cần xây dựng các quy định mang tính nguyên tắc cũng như có hướng dẫn cụ thể trong việc áp dụng bảo lưu trật tự công cộng, đồng thời cũng cần tìm hiểu pháp luật của nhau để có những quy định phù hợp hơn cho pháp luật nước mình.
4.Bảo lưu trật tự công cộng trong việc công nhận và thi hành bản án quyết định dân sự của tòa án nước ngoài và trọng tài nước ngoài.
4.1. Văn bản pháp luật.
Hiến pháp luật Việt Nam có nhiều quy định liên quan đến việc từ chối công nhận một bản án,quyết định của tòa án hoặc trọng tài nước ngoài.
Cụ thể tại Điều 356 khoản 6 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 quy định: Những bản án, quyết định dân sự của Toà ánnước ngoài không được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam nếu ‘’…việccông nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Toà án nu?cngoài tại Việt Nam trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.”
Tương tự, tại điều 370 khoản 1 điểm b của Bộ luật tố tụng dân sự cũng quy định về những trường hợp tòa án sẽ không công nhận quyết định của Trọng tài nước ngoài trong trường hợp:“Việc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọngtài nu?c ngoài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”.
Ngay từ năm 1995, Việt Nam đã tham giavà chính thức là thành viên công ước New York 1958 về công nhận và thihành các quyết định của trọng tài nước ngoài, nhà nước ta cũng đã ký kết nhiều các điều ước quốc tế song phương về tương trợ tư pháp,trong đó có các cam kết về công nhận và thi hành lẫn nhau quyết định của trọng tài của các nước.
Việc gia nhập các điều ước quốc tế và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm nội luật hóa các điều ướcquốc tế đã thể hiện nhận thức của Nhà nước ta rằng, việc từ chối côngnhận quyết định trọng tài nước ngoài sẽ làm ảnh hưởng đến môi trườngkinh doanh tại Việt Nam cũng như ảnh hưởng đến của các doanh nghiệpViệt Nam có yêu cầu thi hành quyết định trọng tài tại nước ngoài.
Tại điều V của công ước 1958 cũng quy định: Việc công nhận và thi hành quyết định của trọng tài nướcngoài có thể bị tự chối nếu việc công nhận và thi hành quyết định đótrái với trật tự công cộng của nước bên được yêu cầu công nhận.
Để tương thích hơn với pháp luật quốc tế về vấn đề này trong điều 54 khoản 6 Pháp lệnh trọng tài năm 2003 dóđưa ra quy định và căn căn cứ huỷ quyết định trọng tài: nếu “Quyết định trọng tài trái với lợi ích công cộng của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam”
Như vậy, có thể thấy các quy định củapháp luật Việt Nam về công nhận và cho thi hành bản án quyết định dânsự của toà án nuớc ngoài hoặc phán quyết của trọng tài nước ngoài,căn cứ huỷ quyết định trọng tài khi các bản án, quyết định đó trái trậttự công của Việt Nam sẽ không đuợc công nhận có hiệu lực tại Việt Nam.Đây được coi là hệ quả tiêu cực của việc bảo luu trật tự công, vì cônglý của nước ngoài không được thực thi trên lãnh thổ Việt Nam nếu vi phạm những giá trị, lợi ích của pháp luật Việt Nam.
4.2.Thực tiễn
Nếu Như trong lĩnh vực áp dụng phápluật nước ngoài, chúng ta rất khó thấy có trường hợp tòa án áp dụngpháp luật nước ngoài, do vậy cũng gần Như không có vụ việc nào tòa ánViệt Nam phải viện dẫn vấn đề bảo luu trật tự công thì trong trườnghợp công nhận hiệu lực của các phán quyết trọng tài quốc tế thì sự việccó nhiều thay đổi.
Có thể viện dẫn một vụ việc tiêu biểu đã được nhiều tác giả phân tích, bình luận như vụ TYCO. Tóm lược vụ việc Như sau:
Trong một tranh chấp hợp đồng liên doanh xây dựng khách sạn Indochina Beach tại Đà Nẵng giữa 2 bên:
Công ty TYCO services (Singapore) vàcông ty Leighton Contractors (Việt Nam) có địa chỉ trụ sở tại thành phốHồ Chí Minh được Trọng tài bang Queensland Úc giải quyết theo thỏathuận trọng tài trong hợp đồng. Theo phán quyết của trọng tài Úc năm2000 thì công ty Leighton Việt Nam thua kiện.
Phán quyết của trọng tài được TYCO (Bên yêu cầu thi hành) gửi đến Toà Kinh tế Toà án Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân Tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh, yêu cầu công nhận và thi hành Quyết định của trọng tài bang Queensland.
Tuy nhiên, một trong hai lý do mà TòaPhúc thẩm đã đưa ra để từ chối công nhận quyết định trọng tài nói trênlà những quyết định này trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luậtViệt Nam. Nhận định này của Tòa Phúc thẩm dựa trên lập luận cho rằngTYCO hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam mà chưa được Nhà nước Việt Namcho phép (thỏa thuận Thiess – Tyco chưa được cơ quan nhà nước có thẩmquyền phê duyệt và Tyco cũng không có giấy phép thầu xây dựng); và theothỏa thuận giữa hai bên, Tyco không thuộc diện pháp nhân chịu thuế
Đây là một tình huống tiêu biểu mà tòa án thường gặp trong thực tiễn giải quyết các tranh chấp có yếu tố nướcngoài. Điểm mấu chốt trong vụ việc trên mà tòa cần xác định có hai vấnđề:
- Thứ nhất là: Cần xem xét tư cách chủ thể của TYCO. Căn cứ vào pháp luật Việt Nam hay Singapore để xác địnhTYCO có tư cách chủ thể được phép hoạt động thương mại trên lãnh thổViệt Nam? Đây là một pháp nhân nước ngoài, được thành lập tại Singaporecấp phép và đăng ký kinh doanh theo pháp luật Singapore. Cho nên tưcách chủ thể của của TYCO trước hết được xác định theo pháp luậtSingapore. Trong trường hợp pháp nhân nước ngoài này hoạt động trênlãnh thổ Việt Nam thì cũng phải tuân thủ pháp luật Việt Nam về hoạtđộng của Pháp nhân nước ngoài. Như vậy TYCO cần đáp ứng đầy đủ cácquy định của cả hai hệ thống pháp luật Singapore và pháp luật Việt Nam.
- Thứ hai: Việc pháp nhân nước ngoài cóhoạt động thương mại trên lãnh thổ Việt Nam như TYCO nhưng chưa đượcnhà nước cấp phép, chưa được phê duyệt hợp đồng liên doanh thì có bịcoi là vi phạm “trật tự công”, hay các nguyên tắc cơ bản của pháp luậtViệt Nam hay không?
Tuy nhiên, theo quan riêng của cá nhân thì trong vụ việc nói trên tòa án Việt Nam hoàn toàn có thể viện dẫn “bảo lưu trật tự công” để từ chối công nhận và chothi hành phán quyết của tòa án Úc vì những lý do sau:
Thứ nhất, các vấn đề thuộc quy chế nhân thân ( liên quan đến tư cách chủ thể của TYCO) thuộc tính chất là các qui phạm áp dụng bắt buộc, quy phạm mệnh lệnh của quốc gia và luôn phải tuân thủ. TYCO có hoạt động thương mại trên lãnh thổ Việt Nam phải tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam về hoạt động của thương nhân nước ngoài là đương nhiên. Không chỉ cần có tư cách pháp nhân theo luậtquốc tịch của pháp nhân là đủ và không cần tuân thủ pháp luật nơi thựchiện hợp đồng. Các thương nhân trong nước cũng phải tuân thủ các quy định về phê duyệt hợp đồng hoặc cấp phép hoạt động thì không có lý gìpháp nhân nước ngoài lại không cần tuân thủ. Về vấn đề này điều 765 Bộluật dân sự 2005 cũng đã đưa ra nguyên tắc xác định rõ.
Thứ hai, tranh chấp hợp đồng giữa TYCO và Leighton Contractors là một tranh chấp trong việc thực hiện một dự án đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam, một loại vụ việc hoàn toàn thuộc thẩm quyền tài phán của pháp luật Việt Nam. Pháp luật các nước và nhiều quy định của pháp luật Việt Nam đều khẳng định: các tranh chấp liên quan đến bất động sản luôn thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án và pháp luật nơi có bất động sản, (nơi có công trình xây dựng đó, hay nơi thực hiện dự án đầu tư). Tính chất của các quy định này cũng là các quy phạm mệnh lệnh, có tính chất áp dụng bắt buộc, và do vậy tòa án ViệtNam hoàn toàn có thể cho rằng việc TYCO không tuân thủ các quy định nàycủa pháp luật Việt nam là trái trật tự công quốc gia.
Ngoài ra, Việt Nam là một quốc gia đangchập chững tham gia quá trình hội nhập quốc tế, năng lực cạnh tranh cònyếu kém so với các cường quốc khác,việc tuân thủ các chuẩn mực của pháp luật quốc tế là cần thiết nhưngcũng cần tương xứng với nội lực và trình độ phát triển của chúng ta.Ngay cả các cường quốc trong các quan hệ pháp lý quốc tế cũng phải đưa« lợi ích quốc gia” của họ lên hàng đầu, và vấn đề «bảo lưu trật tự công” được sử dụng trong những trường hợp như vậy.
Đối với các án lệ cũng như thực tiễn thi hành Công ước New York năm 1958 về công nhận và thi hành quyết địnhcủa trọng tài nước ngoài ở các nước thành viên đã cho thấy, Toà án các nước, về cơ bản là đều giải thích điều khoản về trật tự công cộng theo nghĩa rất hẹp, và hạn chế từ chối thi hành quyết định trọng tài, chỉ trong những trường hợp cực kỳ hãn hữu mà thôi.
Đối với Việt Nam vấn đề là ở chỗ cần xác định trong thời điểm nào, đối với những lợi ích nào chúng ta có thể tiệp cận và thực hiện được các chuẩn mực nói trên.
Mặc dù tính chất của thuật ngữ trật tự công hay các nguyên tắc cơ bản của pháp luật là trừu tượng, không rõràng, nhưng không có nghĩa là không thể xác định được hoặc hiểu quáchung chung như “những quy tắc hay nguyên lý có tác dụng định hướng hay chỉ đạo việc xây dựng và áp dụng pháp luật…”. Tóm lại, cần phải biết chuyển hóa từ các nguyên lý chung vào giải quyết các vấn đề cụ thể.
5.Kết luận và hướng hoàn thiện về bảo lưu trật tự công cộng trong tư pháp quốc tế.
Đối với các cơ quan Lập pháp
Cần xây dựng các quy định mang tính nguyên tắc cũng như có hướng dẫn cụ thể trong việc áp dụng các quy phạm pháp luật trong lĩnh vực tư pháp quốc tế (đặc biệt các qui định về việc áp dụng các quy phạm xung đột trong mối tương quan với các quy phạm luật nội dung khác). Rộng hơn nữa cần xây dựng các nguyên tắc về thứ bậc áp dụng các loại nguồn luật trong các quan hệ pháp lý có tính chất quốc tế. Nếu trong nội luật chưa có điều kiện xây dựng và hoàn thiện các quy phạm điều chỉnh quan hệ tư pháp quốc tế thì cần thừa nhận các loại nguồn pháp luật quốc tế khác (điều ước quốc tế và các tập quán quốc tế), trong những chừng mực có thể, nên thừa nhận các nguồn luật bổ trợ (án lệ quốc tế, công trình nghiên cứu, các học thuyết…) bên cạnh các nguồn luật chính thống của tư pháp quốc tế vì đây là một ngành luật còn thiếu rất nhiều các quy định tương xứng
Đối với các cơ quan xét xử
Trong hoàn cảnh pháp luật chưa quy định (hoặc có nhưng chưa đầy đủ) cần phải có các giải thích về ”các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” hoặc các quy định về khái niệm ’’trật tự công” một cách thống nhất tại hệ thống các cơ quan xét xử. Thông qua thực tiễn xét xử (đặc biệt trong các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài), ngành tòa án nên tổng kết những vướng mắc, khó khăn trong quá trình áp dụng pháp luật nước ngoài, qua đó tham khảo ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học, kể cả tham khảo thực tiễn xét xử của tòa án các nước để có giải pháp đúng đắn, phù hợp. Nên hệ thống hóa, và có cách giải thích thống nhất về khái niệm trật tự công và các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam theo hướng :
- Nên hiểu mọi hành vi vi phạm ’’luật công” là vi phạm trật tự công;
- Nên thừa nhận và xác định rõ các quy phạm mang tính chất mệnh lệnh, đây là các quy phạm áp dụng bắt buộc đối với các quan hệ pháp luật trong nước và cả các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
- Nếu dùng các thuật ngữ các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam thì cần chỉ rõ hệ thống các nguyên tắc đó như Tôn trọng và tuân thủ pháp luật quốc tế, các nguyên tắc hiến định là tối cao và luôn phải tuân thủ…
- Nên công bố các bản án quyết định (không chỉ giới hạn ở các bản án, quyết định của Tòa án tối cao như hiện nay). Cần xây dựng thành một tài liệu pháp lý như sổ tay thẩm phán để đạt được sự chấp nhận chung của các nhà làm luật cũng như thực hiện công tác xét xử. §ặc biệt, cÇn nâng cao kiến thức cho các cơ quan thực thi pháp luật, các thẩm phán trẻ và luật gia trẻ trong tương lai để họ có thể trở thành những người bảo vệ công lý, bảo vệ những lợi ích của toàn thể cộng đồng thực sự.
Hoàn thiện việc giảng dạy môn tư pháp quốc tế tại các trường Đại học
Một trong những giải pháp quan trọng nhằm hoàn thiện hơn việc giảng dạy bộ môn tư pháp quốc tế là các trường không chỉ chuyên giảng dạy về lý thuyết thuần túy (mặc dù ngay cả các học thuyết mang tính lý luận cũng còn rất hạn chế, chưa toàn diện). Cần tạo ra một cơ chế liên thông cho các giảng viên tiếp cận khía cạnh thực tiễn (như ra tòa án tìm hiểu bản án, thực tiễn xét xử…), đặc biệt, nếu có thể được tham gia với tư cách luật sư trong các vụ việc. Nếu không, rất khó có thể xây dựng được hệ thống lý luận tốt khi tách rời thực tiễn.
Trong xu thế hội nhập hiện nay của Việt Nam, chúng ta cần thừa nhận thực tế việc sử dụng các thuật ngữ “trật tự công”, hay các “nguyên tắc cơ bản của pháp luật” hay các thuật ngữ tương tự khác (như pháp luật các nước đã thừa nhận) trong hệ thống pháp luật quốc gia, coi đó như một công cụ sắc bén để bảo vệ những lợi ích hay giá trị, chuẩn mực mà quốc gia cần bảo vệ. Tuy nhiên để hoàn thiện được vấn đề này, còn rất nhiều việc phải làm, và mọi việc cần chuẩn bị từ ngày hôm nay.
Cảm ơn bạn Hoài Nguyễn - ĐH Vinh đã chia sẻ tài liệu này!
No comments:
Post a Comment