13/06/2014
Vai trò của các yếu tố đối với sự trình hình thành và phát triển nhân cách - Bài tập học kỳ Tâm lý học đại cương
Sự hiểu biết về nhân cách con người là tiền đề để điều khiển hoạt động của họ một cách có hiệu quả, đặc biệt trong điều kiện hiện nay khi cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang thâm nhập vào mọi lĩnh vực đời sống xã hội và điều kiện “Nhân tố con người” trở nên cấp bách như Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 7 đã xác định. Do đó, việc nghiên cứu về quá trình hình thành và phát triển nhân cách, đặc biệt là vai trò của các yếu tố thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển đó là rất cần thiết. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài “Vai trò của các yếu tố đối với sự  trình hình thành và phát triển nhân cách. Liên hệ thực tế” cho bài tập lần này.

Bài làm của em còn nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô để bài làm của em được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn.                                                                                                                                          
NỘI DUNG

I.Sự hình thành và phát triển nhân cách

1. Khái niệm “Nhân cách”

Khi xem xét con người với tư cách là một thành viên của một xã hội nhất định, là chủ thể của các mối quan hệ con người, của hoạt động có ý thức và giao tiếp thì chúng ta nói đến nhân cách của họ.

Nhân cách là khái niệm chỉ bản sắc độc đáo, riêng biệt của mỗi cá nhân, là nội dung và tính chất bên trong của mỗi cá nhân. Bởi vậy, nếu cá nhân là khái niệm chỉ sự khác biệt giữa cá thể với giống loài thì nhân cách là khái niệm chỉ sự khác biệt giữa các cá nhân. Cá nhân là phương thức biểu hiện của giống loài, còn nhân cách vừa là nội dung, vừa là cách thức biểu hiện của mỗi cá nhân riêng biệt. Nhân cách biểu hiện thế giới cái tôi của mỗi cá nhân, là sự tổng hợp của các yếu tố sinh học, tâm lý, xã hội, tạo nên đặc trưng riêng về di truyền, về sinh lý thần kinh, về hoàn cảnh sống của cá nhân theo cách riêng của mình. Mỗi cá nhân tiếp thu những giá trị phổ biến của văn hóa xã hội, từ đó, thông qua sự lọc bỏ, tự tiếp nhận của bản thân để hình thành các giá trị định hướng của nhân cách. Các giá trị như lý tưởng, niềm tin, quan hệ lợi ích, nhận thức và hành động được mỗi cá nhân lựa chọn để xác lập hành vi cụ thể, hình thành nhân cách trong quan hệ xã hội.

Trong cuốn Khoa học chẩn đoán tâm lý, PGS. TS Trần Trọng Thuỷ đã cho biết ngay từ năm 1949, G.Allpon đã dẫn ra 50 định nghĩa khác nhau về nhân cách. Ngày nay, đã có tới hàng trăm định nghĩa. Nhưng nhân cách thường được xác định như là một hệ thống các quan hệ của con người đối với thế giới xung quanh và đối với bản thân mình. Quan hệ của con người đối với thế giới xung quanh thể hiện ở niềm tin, thái độ cũng như thế giới quan của họ đối với người khác, chủ yếu là trong hoạt động và giao tiếp. Quan hệ của con người đối với bản thân mình thể hiện ở chỗ: Nhân cách đã được hình thành và phát triển như những quan hệ xã hội mà trong đó cá nhân lớn lên và đang được biến đổi, bắt đầu quá trình hoạt động sống của mình. Chính trong sự hình thành và phát triển nhân cách mà các đặc điểm của con người với tư cách là cá tính được biến đổi và trở thành những đặc điểm mang tính người đích thực, tính xã hội – đạo đức. 

Từ đó có thể định nghĩa về nhân cách như sau:

“ Nhân cách là tổ hợp những thuộc tính tâm lý của một cá nhân biểu hiện ở bản sắc và giá trị xã hội của người ấy”( Nguyễn Quan Uẩn, “Tâm lí học đại cương”, nxb. Đại học Quốc gia).

2. Sự hình thành và phát triển nhân cách

Hình thành nhân cách được hiểu là một quá trình khách quan mang tính quy luật, trong đó một người thể hiện mình vừa trong tư cách là đối tượng của sự tác động vừa trong tư cách là chủ thể của hoạt động và giao tiếp. Giai đoạn hình thành nhân cách được tính ngay từ khi chủ thể nhân cách còn nằm trong bào thai, giữ vai tò đặc biệt quan trọng – vai trò mang tính tiền định nhân cách.

Phát triển nhân cách là quá trình hình thành nhân cách như là một phẩm chất xã hội của cá nhân, là kết quả của sự xã hội hóa nhân cách và của giáo dục. Giai đoạn phát triển nhân cách có thể được xác định trong khoảng thời gian trước tuổi trưởng thành của chủ thể nhân cách. 

Từ sự xác định trên, chúng ta có thể đưa ra 5 nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến sự phát triển và hình thành nhân cách, đó là: nhân tố di truyền, nhân tố hoàn cảnh sống     (gồm hoàn cảnh tự nhiên và hoàn cảnh xã hội), nhân tố giáo dục, nhân tố hoạt động, nhân tố giao tiếp. 

II.Vai trò của các yếu tố đối với sự hình thành và phát triển nhân cách. Liên hệ thực tế

1. Nhân tố di truyền với sự hình thành và phát triển nhân cách

Đầu tiên cần phải khẳng định, di truyền đóng vai trò là tiền đề vật chất đối với sự hình thành và phát triển nhân cách.

Vào những năm 70 của thế kỷ XX, trước sự phát triển của khoa học, đặc biệt là sinh vật học và khoa học xã hội nhân văn, chủ nghĩa sinh học xã hội đã ra đời như một trào lưu khoa học liên ngành mới ở Tây Âu. Theo họ, "sự phát triển của bộ não, sự chuyên trách của bộ não, tốc độ và tính khuynh hướng của quá trình giáo dục con người được hình thành trên trái đất, chủ yếu bằng con đường di truyền" hay "lý tính của con người có thể được hiểu đúng đắn, rõ ràng nhất từ quan điểm về quá trình phát triển do các yếu tố di truyền quyết định”. 

Bẩm sinh – di truyền là những đặc điểm giải phẫu sinh lý của hệ thần kinh và các cơ quan cảm giác, vận động. Tổ chức cơ thể của con người, như các giác quan, hệ thần kinh trung ương... là những tiền đề sinh học, sinh lý học, tâm sinh học được xem như cơ sở vật chất và có ảnh hưởng tới sự phát triển con người. 

Thực tế đã chứng minh rằng, những khiếm khuyết về mặt cơ thể, về gen… đã có ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển con người, tới thế giới quan, định hướng giá trị... của họ, hay những năng khiếu bẩm sinh, những tài năng như tai nghe nhạc của Moza, mắt hội họa của Raphaen... chính là do các yếu tố sinh học chi phối. 

Một ví dụ khác là, ngày nay, người ta thường nhắc tới nhịp điệu sinh học (đồng hồ sinh học) như một cơ chế có ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động của con người, hay nhiều kết quả nghiên cứu khoa học đã chỉ ra rằng, khi có một bên nào đó hoạt động hoặc ngừng hoạt động thì con người có sự thay đổi nhất định.

Như vậy, bẩm sinh – di truyền đóng vai trò đáng kể trong sự hình thành và phát triên nhân cách. Chính nó tham gia vào sự tạo thành cơ sở vật chất của các hiện tượng tâm lý – những đặc điểm giải phẫu và sinh lý cơ thể, trong đó có hệ thần kinh. 

Ta có thể liên hệ thực tế để thấy rõ vai trò của yếu tố di truyền đối với sự hình thành và phát triển nhân cách như sau: 

Ví dụ như: Những trẻ em bị khiếm khuyết hay dị tật thường sống khép kín, ngại tiếp xúc và dễ bị xúc động hơn những trẻ có thể chất phát triển bình thường. 

Hay ngày nay trong xã hội có căn bệnh “trọng hình thức”, những cô gái có ngoại hình xinh đẹp thường tự tin và gặp nhiều thành công, may mắn hơn trong cuộc sống cũng như trong công việc.

Hans Eysenck (1919 – 1997, nhà tâm lí học người Anh) đã tiến hành nghiên cứu nhằm so sánh trẻ sinh đôi cùng trứng và khác trứng. Nghiên cứu cho thấy những trẻ sinh đôi cùng trứng có nhân cách giống nhau nhiều hơn trẻ sinh đôi khác trứng, thậm chí cả khi trẻ sinh đôi cùng trứng được nuôi dưỡng của bố mẹ khác và trong môi trường khác biệt trong suốt giai đoạn thơ ấu. Nghiên cứu trẻ em được nhận làm con nuôi cho thấy các em có nhân cách rất giống nhau và giống cả cha mẹ đã sinh ra chúng hơn là cha mẹ nuôi, mặc dù các em không tiếp xúc với cha mẹ đẻ của mình. Đây là một ví dụ cho ý tưởng của Eysenck rằng nhân cách phát triển bị ảnh hưởng nhiều của yếu tố di truyền.

Hay một ví dụ khác như căn bệnh rối loạn nhân cách, nhiều nghiên cứu đã đưa tới khẳng định gen di truyền là nguyên nhân quan trọng dẫn tới căn bệnh về nhân cách này. Điều đó càng khẳng định những khiếm khuyết về gen có ảnh hưởng không nhỏ tới hình thành và phát triển nhân cách.

2. Hoàn cảnh sống với sự hình thành và phát triển nhân cách

Hoàn cảnh sống của chủ thể thì bao gồm hoàn cảnh tự nhiên và hoàn cảnh xã hội. 

Hoàn cảnh tự nhiên không giữ vai trò quan trọng và quyết định trong sự phát triển tâm lí nhân cách. Hoàn cảnh tự nhiên chính là những điều kiện tự nhiên nơi chủ thể sinh sống. Mỗi cá nhân lại sống trong một lãnh thổ nhất định, có cái độc đáo của hoàn cảnh địa lý: Ruộng đồng và khoáng sản, núi và sông, trời và biển, mưa và gió, hoa cỏ và âm thanh. Những điều kiện ấy quy định đặc điểm của các dạng, các ngành sản xuất, đặc tính của nghề nghiệp (tức những phương thức hoạt động của con người trong tự nhiên) và một số nét riêng trong phạm vi sáng tạo nghệ thuật. Qua đó, quy định các giá trị vật chất và tinh thần ở một mức độ nhất định. Cho nên có thể nói rằng, tâm lý dân tộc mang dấu ấn của hoàn cảnh tự nhiên thông qua khâu trung gian là phương thức sống. Xét cho cùng, nhiều phong tục tập quán và các nét tâm lí bản địa đều có nguồn gốc từ điều kiện và hoàn cảnh sống tự nhiên. Có thể nói vậy là bởi nhân cách như là một thành viên xã hội, chịu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên thông qua những giá trị vật chất và tinh thần, qua phong tục tập quán của dân tộc, của địa phương, của nghề nghiệp. 

Ví dụ: Ở nhiều vùng quê Việt Nam ngày nay vẫn còn truyền thống làm lễ cầu mua, cầu mưa hay mừng gặt … phong tục này bắt nguồn từ điều kiện tự nhiên của nước ta ( thích hợp trồng lúa nước, nhiệt đới có mưa theo mùa).

Ngược lại, hoàn cảnh xã hội lại có vai trò rất quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách. Có thể nói vậy là bởi nếu không có sự tiếp xúc với con người thì cá thể lớn lên và phát triển trong trạng thái động vật, nó không thể trở thành một con người, một nhân cách. Nhân cách đó là một sản phẩm của xã hội. Như thế có nghĩa là đứa trẻ muốn trở thành nhân cách phải có sự tiếp xúc với người lớn để nắm vững tri thức, kinh nghiệm lịch sử xã hội, để được chuẩn bị trước vào cuộc sống và lao động trong văn hóa của thời đại. 

Yếu tố xã hội thì bao gồm những tác động từ phía môi trường xã hội (môi trường vĩ mô) và những hoạt động của chủ thể trong môi trường đó ở cấp độ vi mô. 

Môi trường vĩ mô được hiểu là toàn bộ những sự kiện và hiện tượng của đời sống xã hội diễn ra trong phạm vi rộng về không gian và kéo dài về thời gian. Môi trường vĩ mô vượt quá giới hạn của địa phương nơi trẻ sinh sống (phường, xã, thành phố, tỉnh, quốc gia..). Về thời gian, môi trường vĩ mô bao gồm cả quá khứ (di sản văn hóa vật thể và phi vật thể …), hiện tại ( nền văn hóa vật chất và tinh thần) và tương lai (viễn cảnh về mô hình phát triển của đất nước). Môi trường vĩ mô là những điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp, nhiều hay ít tùy thuộc mối quan hệ của chủ thể với môi trường đó (quan tâm, thích thú, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng …). 

Ví dụ: Một đứa trẻ sống ở Mỹ - đất nước phát triển, đa sắc tộc, đa văn hóa sẽ khác một đứa trẻ sống ở Việt Nam – đất nước đang phát triển với nền văn hóa phương Đông đậm nét. Đứa trẻ sống ở Mỹ sẽ có lối sống phóng khoáng hơn, tự do hơn và cũng có thể năng động hơn, đứa trẻ sống ở Việt Nam sẽ có lối sống khuôn phép, kín đáo hơn.  

Môi trường vi mô được giới hạn trong phạm vi hẹp, gần gũi với cuộc sống thường nhật của trẻ ở gia đình, nhà trường, cộng đồng dân cư, Đội thiếu niên tiền phong, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, câu lạc bộ …Ở gia đình, trẻ không chi học những điều cha mẹ chỉ bảo, uốn nắn mà bầu không khí tâm lí – đạo đức cùng với tình cảm gắn bó ruột thịt là những tác động có sức cảm hóa mạnh mẽ. Nhà trường, với chức năng và nhiệm vụ đào tạo thế hệ trẻ, đã có vai trò chủ đạo, định hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách học sinh thông qua các hình thức và nội dung của các loại hình hoạt động dạy học và giáo dục như học tập văn hóa, lao động hướng nghiệp, văn nghệ, thể dục thể thao … Ngoài học tập văn hóa, hầu hết những hoạt đồng trên được các tổ chức Đội, Đoàn cùng với nhà trường tổ chức trong thời gian ngoài giờ lên lớp. Điều đó giúp học sinh có cơ hội mở rộng phạm vi giao tiếp và rèn luyện tính năng động, tháo vát, hợp tác, …

Nếu không được tiếp xúc với môi trường xã hội, trẻ sẽ không có điều kiện phát triển bình thường. Chẳng hạn, bác sỹ Sing, người Ấn Độ, có kể về trường hợp cô Kamala được chó sói nuôi từ nhỏ. Khi được đưa ra khỏi rừng, cô đã 12 tuổi. Bình thường, cô ngủ trong xó nhà, đêm đến thì tỉnh táo và đôi khi sủa lên như chó rừng. Cô đi lại bằng hai chân, nhưng khi bị đuổi thì chạy bằng bốn chi khá nhanh. Người ta dạy nói cho Kamala trong bốn năm, nhưng cô chỉ nói được hai từ. Cô không thể thành người và chết ở tuổi 18. Đến nay, người ta đã biết được trên 30 trường hợp tương tự. 

Những sự thực đó đã khẳng định tính đúng đắn trong nhận xét của C.Mác: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội”. Như vậy, có thể thấy rằng, đứa trẻ ra đời mới chỉ như một con người "dự bị". Nó không thể trở thành con người nếu bị cô lập, tách khỏi đời sống xã hội, nó cần phải học để trở thành người.

3. Giáo dục với sự hình thành và phát triển nhân cách

Giáo dục giữ vai trò chủ đạo trong sự phát triển nhân cách.

Với nghĩa rộng, giáo dục bao gồm giáo dục nhà trường, giáo dục xã hội và giáo dục gia đình, trong đó giáo dục nhà trường là quá trình tác động một cách chuyên biệt, không chỉ cung cấp cho học sinh những tri thức khoa học cơ bản, hiện đại, mà thông qua việc dạy học còn hình thành ở học sinh những năng lực và phẩm chất trí tuệ, hứng thú. Mặt khác, việc giáo dục thông qua các hình thức sinh hoạt tập thể và hoạt động xã hội công ích là những tác động đặc thù ảnh hưởng đến sự phát triển những phẩm chất đạo đức của nhân cách. 

Giáo dục xã hội thông qua sách báo, phim ảnh, truyền hình, giao tiếp xã hội … với những nội dung lành mạnh là những tác động tích cực hỗ trợ cho giáo dục nhà trường. Giáo dục gia đình tuy không có chương trình, kế hoạch và nội dung xác định như giáo dục nhà trường; song với việc tổ chức cuộc sống có nền nếp, trật tự, gia phong, với việc xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa cha mẹ và con cái, giữa các thành viên của gia đình thuộc các thế hệ,… là những tác động góp phần tạo nên nền tảng ban đầu của sự hình thành nhân cách.

Như vậy, giáo dục giữa vai trò chủ đạo quyết định xu hướng hình thành và phát triển nhân cách. Có thể nói vậy là bởi:

+ Giáo dục vạch ra chiều hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh và dẫn dắt sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh theo chiều hướng đó.

+ Giáo dục có thể đem lại cái mà yếu tố bẩn sinh – di truyền hay môi trường tự nhiên không thể đem lại được. 

Ví dụ: Trẻ con không cần yếu tố giáo dục, đến 2 tuổi sẽ biết đi, 3 tuổi sẽ biết nói ( đó là những cái mà yếu tố bẩm sinh – di truyền đem lại) nhưng trẻ không thể tự biết đọc, biết viết nếu không được dạy ( là cái mà chi có yếu tố giáo dục có thể đem lại).

+ Trong những trường hợp đặc biệt, giáo dục có thể phát triển tối đa mặt mạnh của các yếu tố khác.

Ví dụ: Những trẻ em, học sinh có tư chất (sự kết hợp những đặc điểm giải phẫu và những điểm chức năng tâm – sinh lí) trong một lĩnh vực với tác động giáo dục có thể phát triển năng khiếu về lĩnh vực đó (năng khiếu toán, văn, âm nhạc,… )

+ Giáo dục có thể bù đắp những thiếu hụt do bẩm sinh đem lại. 

Ví dụ, đối với những trẻ bị khuyết tật, có thể sử dụng phương pháp giáo dục chuyên biệt như sử dụng chữ nổi đối với trẻ khiếm thị, ngôn ngữ hình thể với trẻ bị câm điếc bẩm sinh.

+ Giáo dục có thể uốn nắn những phẩm chất tâm lý xấu do tác động tự phát của môi trường xã hội gây nên và làm cho nó phát triển theo chiều hướng mong muốn của xã hội. 

Ví dụ: đối với những trẻ suy thoái nhân cách ( nhiễm thói hư tật xấu, vi phạm pháp luật) có thể uốn nắn, điều chỉnh sự phát triển nhân cách lệch lạc so với các chuẩn mực xã hội của các em bằng các biện pháp giáo dục đặc biệt.

+ Giáo dục có thể đi trước hiện thực, trong khi tác động tự phát của xã hội chỉ ảnh hưởng đến cá nhân ở mức độ hiện có của nó mà thôi. 

Ví dụ, mục tiêu giáo dục của chúng ta là xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Đây chính là tính chất tiên tiến của giáo dục.

Như vậy, giáo dục có vai trò cực kì to lớn, nhưng giáo dục không vạn năng và học sinh không chịu sự tác động của giáo dục một cách thụ động. Giáo dục không thể “đem cho” và học sinh không chỉ “đón nhận”. Nhân cách học sinh không phải chỉ là sản phẩm trực tiếp của giáo dục. Vì vậy, giáo dục chỉ có thể phát huy tối đa vai trò chủ đạo trong điều kiện tổ chức, hướng dẫn học sin tham gia hoạt động và giao tiếp với tư cách chủ thể. Hoạt động tích cực của chủ thể là yếu tố quyết định trực tiếp của sự hình thành nhân cách.

4. Giao tiếp với sự hình thành và phát triển nhân cách 

Giao tiếp là hình thức hoạt động đặc trưng cho mối quan hệ giữa con người với con người, thông qua đó thực hiện sự tiếp xúc tâm lí và được biểu hiện ở 3 quá trình: trao đổi thông tin, hiểu biết lẫn nhau và tác động lẫn nhau. 

Ví dụ như giáo viên lên lớp giảng bài cũng coi là hoạt động giao tiếp, do nó có sự trao đổi thông tin.

Giao tiếp đóng vai trò cơ bản trong sự hình thành và phát triển nhân cách. Bởi vì:

+ Nó ko thể có tâm lí con bên ngoài mối quan hệ giao tiếp, con người không thể tồn tại bên ngoài giao tiếp. Thông qua giao tiếp để tiếp thu, lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử - xã hội mà các thế hệ trước để lại để trở thành thành viên của xã hội. 

Ví dụ như: Con người không thể tự mình chứng minh các định lí, công thức toán học mà phải thông qua giao tiếp dưới hình thức học tập, trao đổi các nghiên cứu của những nhà toàn học thời trước để lĩnh hội kết quả nghiên cứu của họ.

+ Giao tiếp thúc đẩy sự hình thành ở con người những hứng thú nhận thức khác nhau, điều này có thể làm đòn bẩy để dẫn đến sự tự đào tạo. Ví dụ như: Thông qua việc tham gia các hội thảo về  môi trường, học sinh A có thể thấy hứng thú với vấn đề bảo vệ môi trường, điều đó thúc đẩy em tự nghiên cứu tìm tòi và từ đó dẫn đến sự tự đào tạo.

+ Trong giao tiếp con người không chỉ nhận thức người khác mà còn nhận thức chính bản thân mình, bất kì người nào cũng đối chiếu mình với cái mà họ nhìn thấy ở người khác, so sánh cái mà họ làm được với cái mà người xung quanh làm. Do đó, qua giao tiếp, con người tự đánh giá bản thân mình như một nhân cách. 

Ví dụ: Các em học sinh cùng trao đổi cách giải một bài toán khó. Qua việc tranh luận đó, các em có thể tự thấy cách làm của mình là đúng hay sai, có nhanh gọn hay không.

+ Nhu cầu giao tiếp là một nhu cầu xã hội cơ bản và xuất hiện sớm nhất ở con người. Việc không thỏa mãn nhu cầu này ở con người ở bất cứ lứa tuổi nào đều dẫn đến những rung động tiêu cực. 

Ví dụ như: Những trẻ em không được đi nhà trẻ, các em không được tập giao tiếp làm quen với thầy cô và bạn bè nên khi đi học lớp 1 sẽ rất rụt rè, nhút nhát.

5. Họat động với sự hình thành và phát triển nhân cách

Hoạt động là nhân tố quyết định trực tiếp đối với sự hình thành và phát triển nhân cách.

Bởi vì : Con đường tác động có mục đích, tự giác của xã hội bằng giáo dục đến thế hệ trẻ sẽ không có hiệu quả nếu như bản thân cá nhân học sinh không tiếp nhận, không hưởng ứng những tác động đó, không trực tiếp tham gia vào các hoạt động nhằm phát triển tâm lý, hình thành nhân cách. Hay nói cách khác là không có yếu tố hoạt động thì sự hình thành và phát triển nhân cách của chủ thể sẽ không được đảm bảo. 

Ví dụ: Khi trẻ được dạy cho cách viết chữ, nếu trẻ không tập viết thường xuyên thì trẻ sẽ không thể biết viết, hay nói cách khác là nhân tố giáo dục trong trường hợp này không phát huy tác dụng, 

Điều này là hoàn toàn phù hợp với quy luật về sự tự thân vận động, về động lực bên trong của sự phát triển nói chung. Hoạt động của cá nhân nhằm để thỏa mãn những nhu cầu tự nhiên hay đời sống xã hội là những biểu hiện phong phú về tính tích cực của nhân cách.

Hoạt động là phương thức tồn tại của con người, là nhân tố quyết định trực tiếp sự hình thành và phát triển nhân cách. Hoạt động của con người là hoạt động có mục đích, mang tính xã hội, cộng đồng, được thực hiện bằng những thao tác nhất định, với những công cụ nhất định. Thông qua hai quá trình đối tượng hóa và chủ thể hóa trong hoạt động mà nhân cách được bộc lộ và hình thành. 

Ví dụ như hiện nay, các trường tiểu học trong thành phố Hà Nội đang tổ chức mô hình học tập mới: Định kì mỗi hai tháng nhà trường lại tổ chức cho các em học sinh đi tham quan các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh. Qua hoạt động ngoại khóa này, các em được kích thích hoạt động tìm hiểu, nghiên cứu, giao tiếp xã hội ….từ đó hình thành nên lòng ham mê lịch sử và yêu thương gắn bó với đất nước mình.

Mặt khác, cũng thông qua hoạt động, con người đóng góp lực lượng bản chất của mình vào việc cải tạo thế giới khách quan. 

Ví dụ: Hoạt động trồng cây gây rừng của các bạn thanh niên hiện nay không chỉ giúp cho môi trường thêm xanh – sạch – đẹp mà còn góp phần cải tạo môi trường đất, giữ đất, chống lũ quét, sói mòn …

Như vậy, khác với động vật, hoạt động của con người là hoạt động có mục đích, có ý thức. 

Ví dụ: Động vật khi bị đe dọa, theo bản năng chúng sẽ tự vệ ( như loài nhím sẽ xù lông, loài mực sẽ phun mực), đó là hành động bản năng không có ý thức. Con người khi gặp nguy hiểm sẽ có suy nghĩ để lựa chọn cách hành xử tốt nhất, không gây nguy hiểm cho bản thân cũng như người thân, đó là hành động có mục đích và ý thức. 

Hoạt động của con người được hình thành và phát triển cùng với sự hình thành và phát triển ý thức, là nguồn gốc và nội dung của ý thức. Hoạt động của con người được thực hiện không chỉ trong mối quan hệ của con người với sự vật mà cả trong mối quan hệ với người khác. 

Ví dụ: Giữa con người với con người có mối quan hệ tình cảm và để thể hiện tình cảm của mình họ có thể nắm tay nhau.

KẾT LUẬN

“ Mỗi con người đều có cái thiện và cái ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi […]” (Hồ Chí Minh, T12, nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr558). Có nghĩ là, con người phải có ý thức rèn luyện nhân cách của mình. Dựa vào việc nghiên cứu năm nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách, có thể kết luận vai trò quan trọng của năm nhân tố đó như sau: Cá nhân hoạt động và giao tiếp trong các mối quan hệ xã hội, dưới tác động chủ đạo của giáo dục sẽ đưa tới hình thành một cấu trúc nhân cách tương đối ổn định và đạt tới một trình độ phát triển nhất định. Trong cuộc sống nhân cách tiếp tục biến đổi và hoàn thiện dần thông qua việc cá nhân tự ý thức, tự rèn luyện, tự giáo dục, tự hoàn thiện nhân cách của mình ở trình độ phát triển cao hơn, đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của cuộc sống, của xã hội. Vì vậy, con người phải thường xuyên tự rèn luyện nhân cách của mình dựa trên năm nhân tố đó.

Bài viết của em đến đây là hết. Em xin chân thành cảm ơn sự quan tâm theo dõi của thầy cô.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ts. Đặng Thanh Nga (Chủ biên), Giáo trình Tâm lí học đại cương, Trường Đại học Luật Hà Nội, nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2009.
2. Đào Thị Oanh (Chủ biên), “Vấn đề nhân cách trong tâm lí học ngày nay” , nxb. Giáo dục, 2007.
3. Nguyễn  Đình Đăng Lực , “Vai trò của pháp luật trong quá trình hình thành nhân cách”, Nxb. Tư pháp, 2005
4. Bùi Văn Ái, “Các yếu tố hình thành và phát triển nhân cách"

No comments:

Post a Comment