a. Hành vi của A có thỏa mãn các điều kiện của tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội không? Giải thích?
Điều 19 Bộ luật hình sự qui định: “Tự ý nửa chùng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản...”. Theo luật hình sự Việt Nam, chỉ được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội khi thỏa mãn những dấu hiệu sau:
- Việc chấm dứt không thực hiện tiếp tội phạm phải xảy ra khi tội phạm đang ở giai đoạn chuẩn bị hoặc ở giai đoạn chưa đạt chưa hoàn thành.
- Việc chấm dứt không thực hiện tiếp tội phạm phải là sự tự nguyện và dứt khoát.
Xét theo đề bài: A dùng súng định giết chết B, Mới bắn 1 phát trúng chân B, thấy B bị thương, A có điều kiện bắn tiếp nhưng A vẫn không bắn mà bỏ đi. Kết quả B chỉ bị thương tích.
* Trường hợp 1: nếu A thấy B bị thương nhưng cho rằng vết bắn ở chân ấy cũng có thể khiến B chết nên dù có điều kiện bắn tiếp nhưng A vẫn không bắn mà bỏ đi, thì dù kết quả là B không chết mà chỉ bị thương tích, hành vi của A không được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội do đây là trường hợp phạm tội ở giai đoạn chưa đạt hoàn thành, hành vi đó không thỏa mãn các điều kiện của tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội.
* Trường hợp 2: Nếu A thấy B bị thương và cho rằng vết thương ấy không làm B bị chết nhưng có điều kiện bắn tiếp mà A vẫn không bắn mà bỏ đi, thì hành vi của A được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội, thỏa mãn các điều kiện của tự ý nửa chừng
- A định dùng súng giết chết B cho thấy tội định phạm của A là tội giết người. Tội giết người là tội có cấu thành tội phạm vật chất nên tội này hoàn thành khi hậu quả chết người đã xảy ra. Theo tình huống đề bài đặt ra, B bị bắn 1 phát ở chân, A đã thấy B bị thương và chưa chết nhưng vẫn bỏ đi, dù là A có điều kiện bắn tiếp, dẫn đến kết quả là B chỉ bị thương tích chứng tỏ tội giết người của A chưa hoàn thành. Như vậy, việc chấm dứt không thực hiện tiếp tội phạm (tội giết người) của A xảy ra khi ở giai đoạn chưa thành tội phạm hoàn thành (B chưa chết) đã thỏa mãn điều kiện thứ nhất.
- A có điều kiện bắn tiếp (có thể hiểu là không có bị ai ngăn cản hay tác động, vũ khí là súng vẫn có thể sử dụng được, B cũng không kháng cự lại được A) nhưng A vẫn không bắn mà bỏ đi, không tiếp tục thực hiện tội phạm nữa để dẫn đến kết quả là B chỉ bị thương. Tình huống này cho thấy việc chấm dứt không thực hiện tiếp tội phạm của A là hoàn toàn tự nguyện (có đủ điều kiện tiếp tục nhưng vẫn không bắn mà bỏ đi) và dứt khoát (A bỏ đi, B không chết mà chỉ bị thương) đã thỏa mãn điều kiện thứ hai của tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội.
Như vậy qua phân tích trên có thể kết luận rằng hành vi của A có thỏa mãn các điều kiện của tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, A đã tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội (giết chết B).
b. Xác định trách nhiệm hình sự của A.
Theo đề bài, hành vi A dùng súng định giết chết B cho thấy loại tội mà A định phạm là tội giết người.
* Trong trường hợp 1 xét ở câu a, dù B chưa chết nhưng hành vi của A vẫn là hành vi có lỗi trực tiếp nên A vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người chưa đạt theo qui định tại Điều 18 Bộ luật hình sự: “... Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt.” và qui định về tội giết người tại Điều 93 Bộ luật hình sự.
* Trong trường hơp 2 xét ở câu a, A đã tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội giết chết B do vậy mà không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người, theo qui định tại Điều 19 Bộ luật hình sự: “... Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải chịu trác nhiệm hình sự về tội này.”
Về mặt chủ quan, A dù có điều kiện bắn tiếp nhưng vẫn không bắn mà bỏ đi; về mặt khách quan, việc A tự ý nửa chừng chấm dứt việc giết B đã dẫn đến kết quả là B không chết mà chỉ bị thương tích (tỷ lệ 45%). Hành vi tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội giết người của A được coi như đã mất tính nguy hiểm của loại tội giết người mà A định phạm. Do đó, A được miễn trách nhiệm hình sự về tội giết người.
Tuy nhiên, việc A dùng súng bắn B là cố ý và khiến B bị thương tích với tỷ lệ thương tật là 45%, có đủ yếu tố để cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của người khác được qui định tại khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự: “Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt từ từ năm năm đến mười lăm năm.” Sở dĩ A không chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều này là bởi hành vi gây thương tích của A dành cho B, khiến B bị thương tích với tỷ lệ thương tật là 45% thuộc trường hợp cấu thành tội phạm mà không đòi hỏi tỷ lệ thương tật phải đạt 11% (các trường hợp được qui định từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự). Theo đề bài, tội định phạm của A là tội giết người, cấu thành tội phạm của A thể hiện ở hành vi A dùng súng định giết chết B và đã bắn 1 phát trúng chân B, tuy nhiên vì tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội giết người nên được miễn trách nhiệm hình sự về tội giết người, song vết đạn bắn vào chân B từ hành vi A dùng súng định giết chết B đã gây hậu quả là B bị thương tích tỷ lệ 45% lại không phải là hậu quả của việc A cố ý gây thương tích hoặc tổn hại đến sức khỏe của B, mà là hậu quả của trường hợp cấu thành tội phạm cố ý dùng hung khí nguy hiểm (súng) để gây thương tích (qui định tại điểm a khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự).
Như vậy, A phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 điều 104 Bộ luật hình sự.
Cảm ơn bạn Giang Linh - ĐH Luật HN đã chia sẻ tài liệu này!
No comments:
Post a Comment