26/06/2014
Tư tưởng Hồ Chi Minh về đại đoàn kết dân tộc - Bài tập học kỳ Tư tưởng Hồ Chí Minh
Việt Nam là một quốc gia dân tộc đã hình thành sớm trong quá trình dựng nước và giữ nước. Nhân dân Việt Nam có ý thức sâu bền về quyền tự chủ quốc gia dân tộc. Quá trình dựng nước và giữ nước đã tạo dựng và phát triển cho dân tộc Việt Nam một nền văn hóa tư tưởng rực rỡ, trong đó chủ nghĩa dân tộc, ý chí độc lập và khát vọng tự do là truyền thống của lịch sử. Đó là nền tảng văn hóa tư tưởng của sự hội tụ và đoàn kết dân tộc, là động lực vĩ đại và duy nhất của nhân dân Việt Nam trong lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thắng lợi của chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản do chính Người sáng lập trong gần 80 năm đã qua cho phép chúng ta có thể khẳng định rằng: Trong một quốc gia dân tộc, bao giờ cũng có các giai cấp, tầng lớp xã hội, các tộc người, các tôn giáo khác nhau, song bao giờ cũng có lợi ích chung và cao cả của cả dân tộc. Dân tộc Việt Nam dù có nhiều giai cấp xã hội, tộc người và tôn giáo khác nhau, song người Việt Nam đều là con Hồng, cháu Lạc có lịch sử hình thành dân tộc lâu đời, có một cội nguồn văn hóa chung, có chủ nghĩa dân tộc truyền thống vững bền, có lợi ích cao cả là độc lập, tự do.

B. NỘI DUNG CHÍNH

1. Những cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc

1.1. Những giá trị truyền thống tạo nên sức mạnh dân tộc

Những giá trị truyền thống dân tộc bao gồm truyền thống yêu nước và tinh thần đấu tranh anh dũng bất khuất cho độc lập, tự do; tinh thần nhân nghĩa và tinh thần đoàn kết, sự tương thân, tương ái, vị tha của dân tộc, tinh thần lạc quan, yêu đời; ý thức tự lực, tự cường.

Những giá trị truyền thống đó được hình thành, củng cố trong những điều kiện địa lý – chính trị, môi trường tự nhiên, nền kinh tế, cấu trúc xã hội (gia đình – làng - nước) rất đặc trưng của Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch sử và đã tạo nên sức mạnh vô địch  của cả dân tộc để chiến đấu và chiến thắng mọi thiên tai, địch họa.
Những giá trị truyền thống đó đã trở thành tình cảm tự nhiên, một triết lý nhân sinh, một phép ứng xử và tư duy lý luận, tư duy chính trị, chi phối đạo làm người của người Việt Nam, xuyên suốt chiều dài lịch sử như: 

“Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng”;

“ Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”;
Tình làng, nghĩa nước; nước mất thì nhà tan”;

“Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”;…

Những giá trị truyền thống đó còn được các anh hùng dân tộc ở các thời kỳ lịch sử khác nhau đúc kết nâng lên thành phương pháp đánh giặc giữ nước như: phương pháp nuôi dưỡng sức dân và sử dụng sức quân của Trần Hưng Đạo: “trên dưới đồng lòng, cả nước chung sức”, “tướng sĩ một lòng phụ tử”; phương pháp tập hợp lực lượng và sức mạnh nhân dân của Nguyễn Trãi và hai cụ Phan: “Dựng gậy làm cờ, tập hợp bốn phương manh lệ”, “chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”;…

Hồ Chí Minh đã sớm tiếp thu được những giá trị truyền thống của dân tộc, thấy rõ được sức mạnh của dân tộc, những quan điểm nhân sinh và phương pháp đánh giặc của cha ông kết hợp với những giá trị thời đại để chuyển thành hệ thống quan điểm cách mạng của mình.

1.2. Quá trình tổng kết thực tiễn những kinh nghiệm thành công và thất bại của các phong trào yêu nước cách mạng Việt Nam, cách mạng thế giới.

Từ việc tổng kết các phong trào yêu nước cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh rút ra kết luận: Vận mệnh của đất nước đòi hỏi một lực lượng cách mạng mới có khả năng đề ra được đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử và những yêu cầu của thời đại, có đủ sức quy tụ, tập hợp lực lượng của cả dân tộc vào cuộc đấu tranh chống thực dân, đế quốc, phong kiến và xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc bền vững.

Từ việc tổng kết các phong trào cách mạng thế giới, Hồ Chí Minh rút ra kết luận: Cách mạng Mỹ, cách mạng Pháp là những cuộc cách mạng “chưa đến nơi”, vì sao cách mạng thành công, nhân dân vẫn bị áp bức, bóc lột và nghèo nàn. Cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa tiềm ẩn một sức mạnh to lớn, những chưa có sự lãnh đạo đứng đắn, chưa có đoàn kết, chưa có tổ chức. Chỉ có cuộc cách mạng tháng Mười Nga là cuộc cách mạng triệt để vì: “…Cách mệnh rồi thì quyền trao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi  hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc” và nó đã để lại bài học kinh nghiệm về việc huy động, tập hợp lực lượng quần chúng công nông đông đảo trong việc giành và giữ chính quyền cách mạng, xây dựng chế độ xã hội mới

Nhưng phong trào cách mạng ở các nước phương Đông như Trung Quốc, Ấn Độ đã đem lại bài học bổ ích  về việc tập hợp lực lượng yêu nước tiến bộ để tiến hành cách mạng. Những kết luận trên đã giúp Người chuẩn bị những nhân tố cần thiết cho việc lãnh đạo nhân dân Việt Nam thực hiện sự nghiệp cách mạng của mình.

1.3 Một số quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin

- Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng;

- Nhân dân  là người sáng tạo ra lịch sử;

- Giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng phải trở thành giai cấp dân tộc

- Liên minh công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng cách mạng

- Đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế theo tinh thần “vô sản tất cả các nước đoàn kết lại” v.v.

Nhờ những quan điểm trên mà Hồ Chí Minh đã có cơ sở khoa học để thu hái những hiểu biết của các đời trước để lại và chuyển hóa chúng thành những hệ thống tư tưởng của mình về đại đoàn kết dân tộc

2. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc

2.1 Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược của cách mạng

Với Hồ Chí Minh, đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của nhân dân ta. Người cho rằng: “Muốn giải phóng các dân tộc bị áp bức và nhân dân lao động, phải tự cứu lấy mình bằng đấu tranh vũ trang cách mạng, bằng cách mạng vô sản.”

Chiến lược đó được tổng kết thành những luận điểm có tính chân lý như:

“Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”

“Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”

“Đoàn kết đoàn kết đại đoàn kết,
Thành công, thành công, đại thành công!”

Tuy nhiên trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với những đối tượng khác nhau trong cộng đồng các dân tộc. Nhưng đại đoàn kết luôn được Người nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng. 

2.2 Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu và nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng

Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc phải được quán triệt trong mọi đường lối chủ trương, chính sách của Đảng, vì Đảng là lực lượng lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam. Sức mạnh của đảng là ở sự đoàn kết nhất trí và sự đoàn kết trong Đảng là hạt nhân đoàn kết trong tất cả các tổ chức chính trị xã hội và trong toàn xã hội.

Mục tiêu là “Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc” nhiệm vụ là tuyên truyền, huấn luyện làm sao cho nhân dân hiểu biết và làm được, ví dụ: “Một là đoàn kết. Hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là đấu tranh thống nhất nước nhà” Chỉ có như vậy, mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng mới trở thành mục tiêu, nhiệm vụ của cả dân tộc và đại đoàn kết dân tộc mới trở thành một đòi hỏi khách quan của bản thân quần chúng trong cuộc đấu tranh tự giải phóng, là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng và vì quần chúng.

Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn, chuyển những đỏi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành những đòi hỏi tự giác thành hiện thực có tổ chức và thành sức mạnh.

2.3. Đại đoàn kết dân tộc để thực hiện khối đoàn kết toàn dân

Trong tư tưỏng Hồ Chí Minh các khái niệm đồng nghĩa thường được dùng là dân, nhân dân, đồng bào, quần chúng nhân dân, quốc dân,… Ở đây khái niệm “Dân” được dùng với tư cách là khái niệm chung cho tất cả. Khái niệm “Dân” vừa được hiểu là một tập hơp đông đảo quần chúng, vừa được hiểu là mỗi con người Việt Nam cụ thể và dùng để chỉ mọi con dân nước Việt, con Rồng cháu Tiên, không phân biệt già, trẻ, gái, trai, giàu, nghèo, quý, tiện, tín, ngưỡng,… Như vậy, “Dân” được hiểu là chủ thể của đại đoàn kết dân tộc.

Đại đoàn kết dân tộc là cơ sở để thực hiện khối đại đoàn kết toàn dân, với ý nghĩa là cần phải huy động và tập hợp được mọi người dân Việt Nam, đang sống trong nước hay đang định cư ở nước ngoài vào khối đại đoàn kết nhằm thực hiện thành công sự nghiệp cách mạng chung của dân tộc. Muốn làm được điều đó phải kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng với con người và cần xoá bỏ mọi định kiến, cách biệt. “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hoà bình, thống nhất độc lập dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng vẫn thật thà đoàn kết với họ”. Đại đoàn kết dân tộc mở rộng cửa để đón tiếp những người lầm lạc mà biết ăn năn hối cải. Theo Người, “Ta đoàn kết để đấu tranh chống cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ra đoàn kết với họ”.

Mẫu số chung để quy tụ mọi người vào khối đại đoàn kết dân tộc là nền độc lập, thống nhất của Tổ quốc, là cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân và nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc, cũng đồng thời là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân – là liên minh công, nông, và lao động trí óc.

2.4. Đại đoàn kết dân tộc trở thành sức mạnh vật chất, có tổ chức dưới sự lãnh đạo của Đảng

Theo Hồ Chí Minh, dân tộc hay quần hcúng nhân dân khi chưa được tổ chức và giác ngộ về lợi ích, mục tiêu, lý tưởg thì chỉ là số đông chưa có sức mạnh nhưng khi đươc tổ chức giác ngộ và hoạt động theo một đường lối chính trị đúng đắn sẽ trở thành sức mạnh vô địch. Quy tụ quần chúng nhân dân vào một tổ chức yêu nước phù hợp với từng bước phát triển của phong trào cách mạng là sự quan tâm ngay từ đầu của Hồ Chí Minh và là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng ta

Tổ chức thể hiện sức mạnh vât chất của khối đại đoàn kết dân tộc chúnh là Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận có thể có tên gọi khác nhau nhưng tựu trung lại chỉ là một tổ chức chính trị rộng rãi, tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức và các nhân tố yêu nước ở trong và ngoài nước, phấn dấu vì mục tiêu độc lập, thống nhất của Tổ quốc và tự do, hạnh phúc của nhân dân như: Hội phản đế đồng minh (1930); Mặt trận Dân chủ (1936); Mặt trận nhân dân phản đế (1939); Mặt trận Việt Minh (1941); Mặt trận Liên Việt (1946); Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam (1960); Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1955 và 1976).

Mặt trận dân tộc thống nhất được xây dựng và hoạt động theo những nguyên tắc sau:

Thứ nhất, Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công nông (về sau Người nêu thêm là liên minh công – nông – lao động trí óc), dưới sư lãnh đạo của Đảng cộng sản.

Thứ hai, Mặt trận dân tộc thống nhất hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, lấy việc thống nhất lợi ích tối cao của dân tộc với lợi ích của các tầng lớp nhân dân làm cơ sở để củng cố và không ngừng mở rộng.

Thứ ba, đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Hồ Chí Minh đã viết: “Đoàn kết thật sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đoàn kết thật sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân”.

Đảng Cộng sản vừa là thành viên của Mặt trận dân tộc thống nhất vừa là lực lượng lãnh đạo khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng vững chắc. Muốn lãnh đạo được, Đảng phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại, phải thực sự đoàn kết nhất trí. Đảng Cộng sản Việt Nam phải là đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Người viết: “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”.

Từ đó, Hồ Chí Minh đã định hướng cho việc hình thành ba tầng Mặt trận ở Việt Nam là: Mặt trận đại đoàn kết dân tộc; Mặt trận đoàn kết Việt – Miên – Lào; Mặt trạn nhân dân tiến bộ thế giới đoàn kết với nhân dân Việt Nam chống đế quốc xâm lược.

3. Ý nghĩa tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh

Trong toàn bộ những bài báo bài viết của Hồ Chí Minh theo thống kê có đến 40% bài báo, bài viết, bài nói về đại đoàn kết, qua đó ta thấy được tầm quan trọng của đại đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Lời đầu tiên trong bản di chúc của Hồ Chí Minh cũng như lời cuối cùng trong bản di trúc thì Hồ Chí Minh đều nhắc tới đại đoàn kết . Lời đầu tiên Người nói: “Trước khi tôi qua đời tôi để lại vài lời dặn dò như sau: Trước hết nói về đoàn kết các đồng chí từ trung ương đến các chi bộ phải gìn dữ sự đoàn kết như gìn giữ con ngươi của mắt mình” còn lời cuối cùng của người: “ Điều mong muốn cuối cùng của tôi là toàn Đảng toàn dân toàn quân ta đoàn kết xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh dân chủ độc lập đóng góp xứng đáng vào cách mạng vô sản thế giới”.

Đại đoàn kết dân tộc là tư tưởng lớn, có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc với cách mạng nước ta. Tư tưởng này có nhiều giá trị, biểu hiện tập trung ở những điểm chính sau:

- Đoàn kết là bài học hàng đầu và có tính chiến lược, quyết định mọi thành công. Biết đoàn kết thì vượt qua khó khăn, thử thách, không đoàn kết, chia rẽ là thất bại.

- Đoàn kết phải có nguyên tắc, vì mục tiêu và lợi ích chung. Không đoàn kết một chiều, đoàn kết hình thức, nhất thời.

- Đoàn kết trong tổ chức, thông qua tổ chức để tạo nên sức mạnh. Đoàn kết cá nhân và đoàn kết tổ chức không tách rời nhau.

- Đoàn kết phải có nội dung thích hợp với từng địa phương, từng tổ chức, từng thời kỳ. Đoàn kết trong chính sách tập hợp các tầng lớp nhân dân.

- Đoàn kết đi liền với bao dung, thực hiện tính nhân đạo cao cả, hướng tới tương lai.

- Lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết là nhiệm vụ của Đảng, là biện pháp phát huy sức mạnh của Đảng, của toàn dân tộc.

- Muốn xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân phải thực sự đoàn kết trong Đảng.

- Thực hiện đồng bộ đoàn kết trong Đảng - đoàn kết toàn dân - đoàn kết quốc tế.

- Đoàn kết trong mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trên cơ sở bảo vệ và tôn trọng lợi ích của mọi thành viên cộng đồng quốc gia, dân tộc, quốc tế.

C. KẾT LUẬN

Trong tất cả mọi người Việt Nam sống ở trong nước hay ở nước ngoài đều luôn luôn tiềm ẩn tinh thần, ý thức dân tộc trong tâm thức của họ. Vì vậy, khơi nguồn và phát triển đến đỉnh cao sức mạnh dân tộc và trí tuệ của con người Việt Nam, thực thi chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh một cách sáng tạo, quy tụ lực lượng dân tộc bằng nội dung và hình thức tổ chức thích hợp với mọi đối tượng tập thể và cá nhân trên cơ sở lấy liên minh công nông và trí thức làm nòng cốt do Đảng Cộng sản lãnh đạo, phấn đấu vì độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của của toàn dân là một bài học kinh nghiệm lịch sử có giá trị bền vững lâu dài, đặc biệt có ý nghĩa chính trị quan trọng trong sự nghiệp thực thi đường lối đổi mới, thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay

Trên đây là toàn bộ bài tập lớn học kỳ của em với đề tài: “Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc”. Vì đây là một đề tài khá rộng, có thể tiếp xúc từ nhiều khía cạnh mà khuôn khổ bài tập học kỳ lại có hạn nên có thể bài làm của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý từ các thầy các cô để bài làm được hoàn thiện hơn. 

Em xin chân thành cảm ơn!

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Bộ GD-ĐT, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội 2009
2.Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soan giáo trình Quốc gia các bộ môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB CTQG, Hà Nội 2003
3.Nguyễn Mạnh Tường (chủ biên), Tư tưởng Hồ Chí Minh - Một số nhận thức cơ bản, NXB CTQG, Hà Nội 2009
4.Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, PGS.NGND Lê Mậu Hãn, baoanhdatmui.vn
5.Các website:
-http://vi.wikipedia.org
-http://vn.answers.yahoo.com
-http://www.wattpad.com
-http://tailieuhay.com
-http://www.baobinhdinh.com.vn
-http://www.baoanhdatmui.vn

Cảm ơn bạn Nguyễn Thu Hà - ĐH Luật HN đã chia sẻ tài liệu này!

No comments:

Post a Comment