Trong 360 năm dài tồn tại, triều đại nhà Lê đã để lại cho hậu thế những thành tựu to lớn trên lĩnh vực pháp luật và điển chế. Trong số các thành tựu đó phải kể đến Quốc triều Hình luật, một Bộ luật quan trọng nhất và chính thống nhất của Triều Lê. Quốc triều hình luật đã có những nét đặc trưng, tiến bộ, thể hiện được trình độ lập pháp của các nhà làm luật phong kiến Việt Nam. Ở đây ta thấy được nhiều nét tiếp thu pháp luật Trung Hoa, kế thừa pháp luật các triều đại trước, đồng thời có nhiều nét sáng tạo, đặc biệt là các quy định trong luật dân sự, thể hiện nhiều nét truyền thống, đạo lý của dân tộc. Chế độ “thừa kế tài sản” trong Quốc triều hình luật là một ví dụ cụ thể, phần nào chứng minh cho trình độ lập pháp, khả năng trù liệu của các nhà làm luật và phản ánh truyền thống, đạo lý của ông cha.
Vì vậy, trong bài tiểu luận này, em xin chọn nghiên cứu đề tài: “Đánh giá về chế độ thừa kế tài sản giữa vợ và chồng trong Quốc triều hình luật”. Do đây là một đề tài lớn, em đã cố gắng đi sâu tìm hiểu nhưng vì kiến thức còn hạn chế, sự hiểu biết chưa nhiều nên không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong các thầy cô xem xét và góp ý để em có cơ sở tiếp thu và sửa chữa cho bài luận này hoàn thiện hơn.
NỘI DUNG
I. Sơ lược về bộ luật “Quốc triều hình luật”, chế độ thừa kế tài sản và quan hệ thừa kế tài sản giữa vợ và chồng.
1. Sơ lược về bộ luật “Quốc triều hình luật”.
Quốc triều hình luật là bộ luật thành văn xưa nhất của Việt Nam còn lại đến ngày nay. Bộ luật được biên soạn vào năm 1483 dưới triều Lê Thánh Tông, niên hiệu Hồng Đức vì vậy còn được gọi là luật Hồng Đức. Luật Hồng Đức được biên soạn dựa trên những luật lệ trước đó, phát triển thêm theo hệ thống, có tham khảo luật nhà Đường. Năm 1777, được tu chỉnh thành bộ Quốc triều hình luật (Lê triều hình luật) gồm 6 quyển, 13 chương, 722 điều, đó là cơ sở pháp luật chủ yếu của xã hội Việt Nam truyền thống trong nhiều thế kỷ. Bộ luật chứa nhiều điểm tiến bộ, nhân văn sâu sắc, kỹ thuật pháp lý hoàn thiện hơn rất nhiều so với các bộ luật cùng thời.
2. Chế độ thừa kế tài sản trong Quốc triều hình luật.
Về quan hệ thừa kế tài sản giữa vợ chồng thời Lê, theo quy định của bộ Quốc triều hình luật thì tài sản của vợ chồng được hình thành từ 3 nguồn khác nhau là:
+ Tài sản của chồng thừa kế từ gia đình nhà chồng( phu điền sản).
+ Tài sản của vợ được thừa kế từ gia đình nhà vợ (thê điền sản).
+ Tài sản do 2 vợ chồng tạo dựng trong quá trình hôn nhân(tài sản chung) hay tần tảo điền sản.
Nói đến tài sản của gia đình, các quy định của pháp luật thời Lê đều đặt điền thổ lên hàng đầu. Các điều 374, 375, 376 của bộ luật không nói gì đến các động sản khác. Theo Vũ Văn Mẫu thì “điểm này cũng dễ hiểu vì trong một nền kinh tế trọng nông, chỉ có điền thổ mới được coi là các yếu tố tư bản chính yếu, các động sản khác chỉ là các vật có ít giá trị”. Dưới thời đó vợ chồng tích trữ được tiền của đều mua ruộng đất (tậu ruộng đất). Sự giàu nghèo của một gia đình được đánh giá chủ yếu ở việc có nhiều hay ít ruộng đất.
Còn “thừa kế là việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người còn sống theo di chúc hoặc theo pháp luật”. Quốc triều hình luật quy định hai trình tự thừa kế như sau: thừa kế theo di chúc và thừa kế theo luật. Trong đó, quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng chỉ xuất hiện trong hình thức thừa kế theo luật.
Quyền thừa kế là một trong những vấn đề nổi bật trong lĩnh vực dân sự của bộ Quốc triều hình luật, nhằm điều chỉnh quá trình dịch chuyển những lợi ích vật chất từ người chết cho những người còn sống khác.
Trong bộ Quốc triều hình luật, quan hệ thừa kế được quy định ở các phần cuối của chương điền sản, chiếm phần lớn những quy định trong lĩnh vực dân sự.
3. Quan hệ thừa kế tài sản giữa vợ và chồng.
Mối quan hệ giữa vợ - chồng là mối quan hệ giữa một người đàn ông với một người đàn bà trên cơ sở hôn nhân được pháp luật thừa nhận. Quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng là một quan hệ thừa kế mang tính hai chiều hay còn gọi là “thừa kế đối nhau”, “thừa kế của nhau”, nghĩa là, khi bên này chết thì bên kia là người thừa kế ở hàng thứ nhất và ngược lại, khi bên kia chết thì bên này là người thừa kế ở hàng thứ nhất. Căn cứ để xác định quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng là quan hệ hôn nhân. Vì thế, vợ - chồng được thừa kế di sản của nhau khi một bên chết, nếu vào thời điểm mở thừa kế mà quan hệ hôn nhân giữa họ về mặt pháp lý vẫn còn tồn tại.
II. Đánh giá về chế độ thừa kế tài sản giữa vợ và chồng trong Quốc triều hình luật.
Khi cha mẹ còn sống thì không bao giờ nảy sinh việc thừa kế tài sản, vì trong gia đình con cái không có quyền tài sản. Thừa kế chỉ phát sinh khi trong gia đình xảy ra một trong hai trường hợp:
- Nếu vợ chồng không có con thì khi một trong hai người chết, quan hệ thừa kế sẽ phát sinh.
- Nếu vợ chồng có con thì phải đến khi cả hai đều chết mới phát sinh quan hệ thừa kế.
1. Trường hợp vợ chồng không có con mà một người chết trước thì nảy sinh quan hệ thừa kế như sau (theo điều 375).
a. Đối với điền sản có được do bố mẹ dành cho (phu điền sản và thê điền sản).
Vấn đề phân chia tài khi chồng chết trước và vợ chết trước có những điểm giống và khác nhau như sau:
+) Giống nhau:
Khi người chồng chết trước, thì ruộng đất do nhà chồng đã cho (phu điền sản) được chia làm hai phần bằng nhau. Một phần dành cho gia đình bên chồng để lo việc tế lễ (bố mẹ bên chồng hoặc người thừa tự bên chồng). Một phần dành cho vợ được hưởng suốt đời nhưng không được làm của riêng (nghĩa là không được bán), khi người vợ chết thì phần tài sản này giao lại cho gia đình bên chồng (bố mẹ bên chồng hay người thờ tự bên chồng).
Khi người vợ chết trước thì vấn đề tài sản cũng được giải quyết tương tự như trường hợp chồng chết trước.
+) Khác nhau:
Khi người chồng chết, người vợ đi lấy chồng khác hay còn gọi là tái giá, thì phần tài sản được chia phải trả lại cho gia đình bên chồng.
Trong khi, nếu người vợ chết, chồng đi lấy vợ khác vẫn tiếp tục có quyền đối với tài sản được chia.
b. Đối với điền sản do 2 vợ chồng tạo ra trong quá trình hôn nhân.
Vấn đề phân chia tài sản khi chồng chết trước và vợ chết trước có những điểm giống và khác nhau như sau:
+) Giống nhau:
Khi người chồng chết trước, thì điền sản được chia làm 2 phần bằng nhau, 1 phần dành cho vợ làm của riêng, 1 phần dành cho chồng được chia ra như sau: 1/3 dành cho nhà chồng để lo việc tế lễ, 2/3 dành cho vợ để phụng dưỡng một đời, không được làm của riêng, khi chết giao lại cho gia đình bên chồng.
Khi người vợ chết trước thì vấn đề tài sản cũng được giải quyết tương tự như trường hợp chồng chết trước.
+) Khác nhau:
Khi người vợ tái giá thì 2/3 tài sản được chia từ số tài sản của chồng phải trả lại cho người tế tự bên chồng. Nếu cha mẹ chồng hãy còn sống thì thuộc về cha mẹ cả.
Khi người chồng tái giá thì 2/3 tài sản được chia từ số tài sản của vợ vẫn được tiếp tục có quyền sử dụng.
2. Trường hợp vợ chồng có con, một người chết trước, người kia đi lấy kẻ khác không có con ở lần hôn nhân này thì sau khi chết nảy sinh quan hệ thừa kế như sau (điều 374).
+) Nếu vợ chết, người chồng lấy vợ khác nhưng không có con với người vợ sau, khi người chồng chết thì tài sản sẽ được phân chia giữa các con (của vợ trước) với người vợ sau như sau:
Phu gia điền sản: Người vợ sau được sử dụng 1/3 (nếu người vợ trước chỉ có 1 con) hoặc bằng phần của 1 người con (nếu người vợ trước có từ 2 con trở lên), còn bao nhiêu đều thuộc về con chồng. Nếu người vợ sau đi tái giá hoặc chết thì phần điền sản thuộc về con vợ trước.
Tần tảo điền sản của chồng và vợ trước được chia 2 phần đều nhau: một nửa thuộc về các con vì thực chất đây là phần của vợ trước nửa còn lại (thực chất là phần của chồng) được chia cho vợ sau và con chồng theo tỉ lệ như trên.
Tần tảo điền sản của chồng và vợ sau cũng được chia đôi, một nửa thuộc quyền sở hữu của người vợ sau, nửa còn lại cũng chia cho người vợ sau và con chồng theo tỉ lệ như trên nhưng phần này của vợ chỉ có quyền sử dụng, còn nếu tái giá hoặc chết thì thuộc về con chồng.
Điều 374 của Bộ luật không nêu ra cách giải quyết các thê gia điền sản. Có thể mục đích của các nhà làm luật là giải quyết các thê gia điền sản của người vợ trước được giải quyết tương tự như quy định của điều 376 (trong trường hợp vợ chồng có con, một người chết, con lại chết theo), thê gia điền sản của nhà vợ sau được giải quyết tương tự như điều 375).
+) Nếu chồng chết trước người vợ lấy chồng khác nhưng không có con với người chồng sau, khi người vợ chết thì vấn đề tài sản cũng được giải quyết tương tự như trường hợp vợ chết trước.
III. Nhận xét, đánh giá.
1. Tiến bộ.
Vợ chồng không được thừa kế tài sản của nhau, mà chỉ được sử dụng một phần tài sản của nhau. Trong trường hợp vợ chồng không có con, gia đình hoặc họ hàng của người chết trước có ưu thế hơn về mặt tài sản. Ở đây nói lên một điều, người phụ nữ Việt Nam khi đi lấy chồng mặc dù đã mang nặng tư tưởng xuất giá tòng phu nhưng vẫn rất gắn bó với gia đình nơi họ sinh ra. Gia đình họ có quyền được hưởng gia sản của con gái mình và có nghĩa vụ thờ cúng khi họ chết đi mà chưa có con.
Pháp luật thời Lê đã ghi nhận một cách bình đẳng sự đóng góp của ngươì vợ trong tài sản chung của vợ chồng. Nếu một trong hai người chưa có con, của cải do hai vợ chồng làm ra trong quá trình hôn nhân được chia đôi mỗi người một nửa để làm của riêng. Điều đó nói lên pháp luật ghi nhận và bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp đối với tài sản do hai vợ chồng làm ra.
2. Hạn chế.
Sự bất bình đẳng duy nhất trong quan hệ tài sản giữa vợ và chồng được thể hiện ở chỗ, nếu chồng chết trước, đối với điền sản được thừa kế, vợ được hưởng một phần để nuôi dưỡng một đời và khi đi lấy chồng khác thì phải trả phần tài sản này cho gia đình bên chồng. Trong khi đó, nếu vợ chết trước, người chồng đi lấy vợ khác vẫn tiếp tục được giữ tài sản đó. Sự bất bình đẳng này có nguồn gốc từ tư tưởng Khổng giáo trọng nam khinh nữ và chỉ được ghi nhận trong pháp luật phong kiến, đến ngày nay sự bất bình đẳng này hoàn toàn bị bãi bỏ.
Nếu từ sự phân tích quan hệ thừa kế tài sản giữa vợ và chồng (trong trường hợp không có con) mà kết luận rằng, người vợ nói riêng và người phụ nữ nói chung trong xã hội phong kiến thời Lê bình đẳng với nam giới về quan hệ sở hữu đối với tài sản gia đình thì thật là một sai lầm. Người chồng vẫn là người có quyền hành nhiều hơn cả và gần như tuyệt đối, đối với tài sản của gia đình. Bởi vì, nếu trong quan hệ tài sản, vợ chồng tương đối bình đẳng thì trong quan hệ thân nhân người vợ sẽ không bị đối xử bất bình đẳng như vậy.
KẾT LUẬN
Trong quá trình xây dựng nhà nước phong kiến trung ương tập quyền, nhà Lê đã lấy những quan điểm của nho giáo làm hệ tư tưởng, chỉ đạo việc biên soạn, ban hành luật pháp, nhằm thể chế hoá một nhà nước phong kiến Đại Việt, với truyền thống nhân nghĩa, yêu nước, thương nòi, lấy dân làm gốc, quan tâm đến đời sống của muôn dân. Trong bộ Quốc triều hình luật, vấn đề quan hệ thừa kế tài sản giữa vợ và chồng chiếm một vị trí quan trọng, phản ánh những tư tưởng tiến bộ, những nét độc đáo rất riêng của xã hội Viêt Nam đặc biệt là sự anh minh, tấm lòng nhân ái của các vua Lê. Thừa kế chính là điểm nổi bật nhất của luật pháp triều Lê.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam, NXB CAND, Hà Nội, 2007.
2. Quốc triều hình luật, NXB Pháp lí, Hà Nội, 1991.
3. TS. Lê Thị Sơn, Quốc triều hình luật, lịch sử hình thành, nội dung và giá trị, NXB KHXH, Hà Nội, 2004.
4. Đại học quốc gia Hà Nội, Luật và xã hội Việt Nam thế kỷ XVII – XVIII, NXB KHXH, Hà Nội, 1994.
No comments:
Post a Comment