08/02/2014
Bài tập học kỳ Bình đẳng giới - Yếu tố ảnh hưởng đến vấn đề bình đẳng giới trong các lĩnh vực của đời sống xã hội
1. Một số khái niệm cơ bản

1.1 Khái niệm giới và đặc điểm của giới

Khái niệm “Giới” được qui định tại Điều 5 khoản 1 Luật Bình đẳng giới: “Giới chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ xã hội”.

Dưới góc độ khoa học pháp lý, giới là các đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong các mối quan hệ xã hội, do đó giới có đặc điểm sau:

Thứ nhất, giới được hình thành từ các quan điểm, quan niệm xã hội chứ không tự nhiên sinh ra. Thứ hai, giới có tính đa dạng. Thứ ba, giới luôn thay đổi và vận động không ngừng theo thời gian và không gian. Thứ tư, giới nam (đặc điểm, vị trí, vai trò của nam trong quan hệ xã hội) và giới nữ (đặc điểm, vị trí, vai trò của nữ trong quan hệ xã hội) có thể thay đổi vai trò trong một quan hệ xã hội cụ thể.

1.2.  Khái niệm và đặc điểm của Bình đẳng giới

Theo quy định tại Điều 5 Khoản 3 Luật Bình đẳng giới, bình đẳng giới được hiểu “là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó”.

Bình đẳng giới là mục tiêu và thước đo tiến độ phát triển của một xã hội. Sự bình đẳng giới được thể hiện ở nhiều phương diện, cụ thể như: nữ và nam có điều kiện ngang nhau để phát huy hết khả năng và thực hiện các mong muốn của mình; nữ và nam có cơ hội ngang nhau để tham gia, đóng góp và thụ hưởng các nguồn lực của xã hội trong quá trình phát triển; nữ và nam có các quyền lợi ngang nhau trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Bình đẳng giới thể hiện vị trí, vai trò của nam và nữ ngang nhau trong các quan hệ xã hội, do đó bình đẳng giới có các đặc điểm sau:

Thứ nhất, tính ngang quyền; Thứ hai, tính ưu đãi; Thứ ba, tính linh hoạt; Thứ tư, tính phân loại.

Như vậy bình đẳng giới cần được hiểu dưới các khía cạnh sau:

Thứ nhất, bình đẳng giới không chỉ có ý nghĩa cơ học là số lượng của phụ nữ và nam giới tham gia trong tất cả các hoạt động là như nhau. Bình đẳng giới có nghĩa là nam và nữ giới được công nhận và được hưởng các vị thế ngang nhau trong xã hội.

Thứ hai, bình đẳng giới không có nghĩa là nhìn nhận nam giới và nữ giới giống y hệt nhau mà sự tương đồng và khác biệt tự nhiên tự nhiên giữa nam và nữ được công nhận và có giá trị như nhau. Bình đẳng giới có nghĩa là nam và nữ được hưởng các thành quả một cách bình đẳng.

2. Một số yếu tố ảnh hương đến vấn đề bình đẳng giới trong các lĩnh vực của đời sống xã hội

2.1 Sự phân biệt giới tính


Giới tính: Là sự khác biệt về mặt sinh học giữa nam giới và phụ nữ. Giới tính là những đặc điểm đồng nhất mà khi chúng ta sinh ra đã có và không thể thay đổi được. Phân biệt giới tính hay kỳ thị giới tính (tiếng Anh: sexism), một thuật ngữ xuất hiện giữa thế kỷ 20, là một dạng niềm tin hay thái độ cho rằng một giới là hạ đẳng, kém khả năng và kém giá trị hơn giới còn lại. Thuật ngữ này hầu như được dùng để ám chỉ sự thống trị của nam so với nữ. Cuộc đấu tranh chống lại sự phân biệt giới tính, mà trung tâm là phong trào nữ quyền diễn ra dưới nhiều hình thức đa dạng và không chỉ dành riêng cho nữ.

Nhiều chỉ trích đã phê phán quan niệm cho rằng các đặc tính giới khác nhau giữa nam và nữ đã dẫn đến sự phân chia các vai trò khác nhau trong xã hội, gia đình, kinh doanh hay chính trị. Trong lịch sử đã có nhiều tư tưởng cho rằng nam và nữ có vai trò đặc trù trong xã hội, trong đó nam giới thường đảm nhiệm các công việc về nghệ thuật, kỹ nghệ, quân đội trong khi phụ nữ đảm nhận việc nội trợ gia đình và chăm sóc trẻ em. Sự chuyên môn hóa về vai trò này đã dẫn đến sự hình thành quan niệm rằng phụ nữ không có khả năng thực hiện các công việc đòi hỏi trí tuệ.

Hiện nay tại hầu hết các quốc gia trên thế giới, phụ nữ đều có thu nhập thấp hơn nam giới bất chấp một số nỗ lực về pháp luật đã được đưa ra để thu hẹp khoảng cách về thu nhập. Theo kết quả của những nghiên cứu gần đây cho thấy, sự khác nhau về thu nhập vẫn còn tồn tại, phụ nữ có thu nhập thấp hơn nam giới tồn tại trong mọi ngành nghề. Kết quả điều tra mức sống dân cư năm 2002 cho thấy: thu nhập bình quân hàng tháng của phụ nữ chiếm 85% thu nhập của nam (tỷ lệ này ở khu vực nông nghiệp chỉ là 66% và ở khu vực công nghiệp là 78%). Trong khi sự bất bình đẳng về thu nhập trong lao động có thể phản ánh sự kết hợp của các yếu tố trong đó có sự khác nhau về trình độ văn hóa, chuyên môn, kinh nghiệm công tác và những nguyên nhân khác cùng với sự phân biệt đối xử. Lao động nữ chỉ được nhận 86% so với mức tiền lương cơ bản của nam giới. Tiền lương cơ bản của lao động nữ trong tổng thu nhập là (71%) thấp hơn so với nam giới (73%).Theo các nhà nữ quyền, phân biệt giới hiện nay phản ánh trên một số mặt sau: quyền bỏ phiếu cho phụ nữ, sự bình đẳng về chính trị, xóa bỏ các ngôn ngữ phân biệt giới, bạo lực gia đình mà đối tượng thường là nữ, những chỉ trích về các quảng cáo có tính phân biệt giới, các chỉ trích về sự thể hiện vai trò của phụ nữ trong khoa học...

2.2 Định kiến giới
Định kiến giới là nhận thức, thái độ và đánh giá thiên lệch, tiêu cực về đặc điểm, vị trí vai trò và năng lực của nam hoặc nữ (khoản 4 Điều 5, Luật bình đẳng giới). Hay nói cách khác thì đây là một tập hợp các đặc điểm được số đông gán cho là thuộc về nam hay nữ, các quan niệm này đôi khi sai lầm và hạn chế những điều mà một cá nhân có thể làm. Những định kiến như trên không chỉ tồn tại nhiều từ thời xã hội phong kiến mà ở xã hội ngày nay thì những quan niệm đó vẫn còn hiện hữu. Định kiến giới vừa phản ánh sự bất bình đẳng giới, vừa củng cố duy trì thực trạng bất bình đẳng giới trong xã hội. Thể hiện rõ nhất của định kiến giới phải kể đến tư tưởng “trọng nam khinh nữ” đã ăn sâu bám rễ lâu đời. Mặc dầu, những năm gần đây cái nhìn về “con gái” trong xã hội đã cởi mở hơn. Vai trò và vị trí của phụ nữ được nâng cao và được khẳng định hơn. Nhưng tư tưởng thích con trai hơn nên nhiều phụ nữ sẵn sàng phá thai nếu biết thai nhi là con gái bất chấp điều đó có hại như thế nào đối với sức khỏe. Còn ở các vùng nông thôn không có khả năng tiếp cận dịch vụ chẩn đoán giới tính thai nhi sớm đã xảy ra tình trạng có nhiều gia đình vẫn tiếp tục sinh tiếp con thứ 4, thứ 5 cho đến khi sinh đươc con trai mới thôi.

Chính những tư tưởng này đã dẫn đến tình trạng mất cân bằng giới tính ở Việt Nam. Theo kết quả điều tra mới nhất về các vấn đề nóng của dân số Việt Nam của Quỹ dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA) cho thấy, năm 2007 cứ 112 bé trai ra đời mới có 100 bé gái được sinh ra, cao hơn năm 2006 và hơn mức bình thường (tỷ lệ 107/103). Đáng chú ý, năm 2007 có tới 35 tỉnh có tỷ lệ giới tính khi sinh là 110 bé trai/100 bé gái trở lên, trong khi đó năm 2006 có 19 tỉnh.

Trong quan niệm của người Việt Nam, xã hội đặt những chuẩn mực riêng đối với các em gái như chăm làm, duyên dáng, nấu ăn giỏi, biết may vá, thêu thùa... Phụ nữ cũng không được khuyến khích tham gia vào lĩnh vực chính trị hay trở thành lãnh đạo, bởi theo quan niệm của nhiều xã hội, đó vẫn là vai trò của nam giới. Khi phụ nữ tham gia vào những lĩnh vực này, họ sẽ mất đi vẻ "nữ tính". Những chuẩn mực đó đã khiến các em gái tập trung phát triển các kỹ năng để sau này làm một người nội trợ giỏi hơn là chú ý đến những kỹ năng để sau này kiếm được việc làm tốt hay đóng góp cho sự phát triển của xã hội. Bởi vậy, khi ra trường và tham gia vào thị trường lao động, phụ nữ nói chung sẽ thấp kém hơn nam giới cùng lứa.

Khi đã có công việc, xã hội Việt Nam mong đợi phụ nữ có gia đình, và dành thời gian chăm sóc cho gia đình hơn là dành thời gian cho xã hội. Khái niệm "hạnh phúc" cũng gắn liền với quan niệm này. Điều này ảnh hưởng rất nhiều đến việc chọn nghề của người phụ nữ. Ví dụ, nghề giáo viên được coi là thích hợp với nữ giới một phần vì có nhiều thời gian chăm sóc cho gia đình. Ngày nay, phụ nữ tham gia vào việc tạo thu nhập ở nhiều lĩnh vực như nam giới nhưng xã hội vẫn mong đợi họ phải làm tốt cả công việc nội trợ trong gia đình, chăm sóc con cái, chăm lo việc họ hàng, trong khi nam giới chỉ cần đi làm kiếm thu nhập là đủ. Điều này lại không được coi là quá sức đối với phụ nữ hay bất bình đẳng trong khi họ được coi là "phái yếu". Bởi mong muốn làm tốt cả hai vai trò, trong khi qũy thời gian có hạn, phụ nữ phải gồng mình để học tập, lao động và phấn đấu nếu muốn có vị trí ngang bằng với nam giới; hoặc đây là quyết định của phần đa phụ nữ, hy sinh phát triển nghề nghiệp để có thời gian chăm sóc gia đình. Để phát triển nghề nghiệp được tốt, ai cũng cần phải cập nhật kiến thức, trao dồi kỹ năng thường xuyên. Thời gian nghỉ ngơi, giải trí hàng ngày cũng rất cần thiết để tinh thần và thể chất được hồi phục để có thể tiếp tục làm việc. Đương nhiên khoảng thời gian nghỉ ngơi này phải phù hợp đối với nam giới. Nhưng quan niệm xã hội lại không cho phép phụ nữ được hưởng quyền đó vì mong đợi họ cống hiến tiếp cho các công việc gia đình. Rõ ràng, quan niệm của xã hội về một người phụ nữ tốt và hạnh phúc đã tước đoạt đi quyền phát triển nghề nghiệp, thể chất và trí tuệ của chị em

2.3 Bạo lực gia đình

Theo Công ước CEDAW của Liên hợp quốc thì bạo lực giới có thể được hiểu là “bất kì hành động nào dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến những tổn hại về thân thể, về tình dục hay tâm lí, hoặc đau khổ cho phụ nữ, bao gồm cả sự đe dọa có những hành vi như vậy, sự cưỡng bức hay tước đoạt một cách tùy tiện sự tự do, dù xẩy ra ở nơi công cộng hay trong đời sống riêng tư”.

Theo kết quả khảo sát tại 8 tỉnh ở 8 vùng trên cả nước do Uỷ ban về các  đề xã hội của Quốc hội tiến hành trong 6 tháng đầu năm 2006: có 2,3% gia đình có bạo lực về thể chất. Theo báo cáo của Bộ công an, trên toàn quốc, cứ 2- 3 ngày có một người bị giết liên quan tới bạo lực gia đình. Thực trạng trên đã nói lên tình trạng bất bình đẳng giới đang diễn ra phổ biến ở tất cả mọi nơi từ thành thị tới nông thôn

Vấn đề nổi cộm, gây nhức nhối dư luận thời gian gần đây là tình trạng bạo lực tình dục. Việc thừa nhận đó là hình thức bạo lực độc lập hay không cũng còn nhiều ý kiến khác nhau. Tuy nhiên, do mức độ nghiêm trọng cũng như tính nhân văn, tính đột phá của vấn đề, pháp luật vẫn đề cập tới vấn đề này, coi đó là một dạng của bạo lực. Theo điểm đ Khoản 1 Điều 3 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình quy định “cưỡng ép quan hệ tình dục” là một trong những hành vi của bạo lực gia đình. Bạo lực tình dục thường thể hiện dưới dạng: cưỡng ép quan hệ tình dục, hiếp dâm, cưỡng dâm, quấy rối tình dục, ép buộc sử dụng văn hóa đồi trụy để thỏa mãn nhu cầu tình dục. Và thực tế cho thấy tình trạng này không còn là quá mới mẻ. Theo tờ trình của Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc hội về Dự án Luật Phòng, chống bạo lực gia đình thì có tới 30% các cặp vợ chồng có hiện tượng ép buộc quan hệ tình dục.

Bên cạnh hành vi bạo lực về thể chất và bạo lực tình dục thì các hành vi về bạo lực tinh thần (người vợ bị chồng chửi mắng, xỉ vả, cấm tham gia công tác xã hội, cấm quan hệ với mọi người) và bạo lực về kinh tế (chồng kiểm soát vợ về thu nhập, không chịu đóng góp vào kinh tế chung của gia đình).  cũng đang diễn ra ngày càng phổ biến gây ra hậu quả xấu đối với gia đình và toàn xã hội.

2.4 Các yếu tố khác

Yếu tố giáo dục, địa lý và kinh tế cũng là một trong các yếu tố ảnh hưởng đến vấn đề bình đẳng giới. Qua khảo sát có thể thấy ở các vùng thành thị, tỉ lệ bất bình đẳng giới cũng ít hơn so với các vùng nông thôn, nơi còn chịu nhiều ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến. Ở những nơi điều kiện giáo dục tốt, nam giới và cả nữ giới được tiếp xúc với kiến thức một cách dễ dàng, hiểu biết pháp luật thì tình trạng bất bình đẳng giới cũng được hạn chế hơn. Điều kiện kinh tế cũng ảnh hưởng khá lớn đến vấn đề bình đẳng giới, đặc biệt là tình trạng vi phạm pháp luật về bình đẳng giới. Cuộc sống kinh tế khó khăn, áp lực cuộc sống nặng nề dẫn đến việc không làm chủ được bản thân và có những hành vi trái pháp luật

3. Các giải pháp chung nhằm đảm bảo vấn đề Bình đẳng giới trong các lĩnh vực của đời sống xã hội

Thứ nhất, cần hoàn thiện hệ thống các chính sách của Nhà nước một cách mạnh mẽ, đồng bộ, thống nhất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm rút ngắn và dần xóa bỏ khoảng cách giới. Trong đó chú trọng đặc biệt đến các chính sách: chính sách giáo dục, đào tạo, chính sách lao động, chính sách xã hội và chính sách cán bộ (chủ yếu là đội ngũ cán bộ tuyên truyền về bình đẳng giới).

Thứ hai, hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, đảm bảo sự tương đồng giữa các quy định của Luật Bình đẳng giới và các quy định của các ngành luật khác. Đặc biệt là Luật Hình sự, Luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội.

Thứ ba, các nguyên tắc cơ bản của Luật Bình đẳng giới phải được thể chế hóa trong các văn bản của các ngành luật khác. Đặc biệt là nguyên tắc bảo đảm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng và thực thi pháp luật. Đồng thời cần có quy định cụ thể về chế tài xử lý các hành vi vi phạm pháp luật bình đẳng giới. Ban hành Nghị định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bình đẳng giới nhằm thực thi các quy định tại các Điều 40, 41 và 42 của Luật. Nghị định cần được ra những mức phạt hành chính cụ thể đối với các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao, y tế và gia đình.

Nếu bạn muốn download không mất phí, vui lòng điền thông tin và tên bài tập vào form dưới đây.

No comments:

Post a Comment