26/09/2013
Chủ thể của Luật Quốc tế còn có cá nhân, các công ty xuyên quốc gia, tổ chức phi chính phủ
ĐỀ TÀI 6: ĐÔI ĐIỀU ĐÁNH GIÁ VỀ QUAN ĐIỂM CHO RẰNG: CHỦ THỂ CỦA LUẬT QUỐC TẾ CÒN CÓ CÁ NHÂN, CÁC CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA VÀ TỔ CHỨC PHI CHÍNH PHỦ.

LỜI MỞ ĐẦU

Trong bất cứ quan hệ pháp luật nào thì chủ thể luôn đóng vai trò vô cùng quan trọng và là một trong những dấu hiệu để xác định mối quan hệ nào đó thuộc sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật nào. Luật Quốc tế là hệ thống pháp luật được tập hợp từ nhiều văn bản từ nhiều nguồn khác nhau. Việc nghiên cứu về chủ thể là rất cần thiết vì giúp tìm ra đâu là nguồn của luật, quan hệ nào thuộc sự điều chỉnh của luật.

Thực tế trên thế giới hiện nay ngoài quan điểm truyền thống cho rằng quốc gia, các dân tộc đang đấu tranh, tổ chức liên chính phủ, chủ thể đặc biệt khác là chủ thể của luật thì còn có quan điểm (hiện đại) cho rằng cá nhân, các công ty xuyên quốc gia, tổ chức phi chính phủ cũng nên được xem là chủ thể của luật Quốc Tế. Đây là quan điểm mới và cũng được một số nước trên thế công nhận. Hiện tại ở Việt Nam mặc dù cũng có nhiều ý kiến về vấn đề mới này nhưng chưa có nhiều công trình nghiên cứu sâu về quan hiện đại. Câu hỏi được đặt ra là: Chúng ta có suy nghĩ gì về vấn đề này? Có nên công nhận quan niệm hiện đại?

Đây là đề tài được xem là khá mới mẻ và còn nhiều vấn đề cần phải làm rõ nên chúng ta cần phải nghiên cứu sâu hơn để tìm ra lời giải đáp phù hợp với thực tiễn hiện nay.

Đề tài áp dụng phương pháp thống kê để thu thập những bài viết có liên quan, đồng thời phân tích, so sánh, đối chiếu để làm rõ các vấn đề có liên quan đến chủ thể của Luật. Tổng hợp những nhận định, ý kiến của nhiều người để từ đó đưa ra quan điểm chung về vấn đề này.

Việc nghiên cứu sẽ giúp chúng ta nắm được những vấn đề cơ bản về chủ thể của luật Quốc Tế đồng thời giúp mọi người tìm ra được sự khác biệt giữa chủ thể của luật Quốc tế với các ngành Luật khác. Giúp người đọc có cái nhìn rộng hơn về chủ thể của Luật Quốc tế, tiếp xúc với nhiều quan điểm, ý kiến mới để từ đó có cái nhìn bao quát hơn. Việc nên  hay không nên công nhận thêm các chủ thể khác vào Luật Quốc tế hiện nay là chuyện rất dài và tốn nhiều thời gian.

Đề tài này mong muốn giúp đọc giả có được nhiều cách nhìn nhận hơn về chủ thể của Luật Quốc Tế. Nếu có sự thay đổi đáng kể về chủ thể của luật có thể sẽ có nhiều vấn đề được giải quyết hiệu quả hơn.

CHƯƠNG I – LÝ LUẬN CHUNG.

Luật Quốc tế là một hệ thống pháp luật độc lập, do đó khi nghiên cứu Luật Quốc tế chúng ta cần phải xác định được đâu là quan hệ pháp luật thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Quốc tế và chủ thể của Luật Quốc tế là những đối tượng nào. Việc xác định chủ thể của Luật Quốc tế tưởng như đơn giản nhưng trên thực tế hiện nay vẫn còn nhiều sự tranh luận xoay quanh vấn đề này. Vì vậy trước hết chúng ta cần  xem xét  nội dung của khái niệm chủ thể của Luật Quốc tế.

1. KHÁI NIỆM:

Dưới góc độ lý luận khoa học pháp lý, để xác định được đối tượng của Luật Quốc tế cần phải dựa vào các dấu hiệu cơ bản sau:
  • Có sự tham gia vào quan hệ pháp luật quốc tế do Luật Quốc tế điều chỉnh.
  • Có ý chí độc lập trong sinh hoạt quốc tế.
  • Có đầy đủ quyền và nghĩa vụ riêng biệt đối với các chủ thể khác thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Quốc tế.
  • Có khả năng gánh vác những trách nhiệm pháp lý quốc tế do những hành vi mà chủ thể gây ra.

Cùng với quá trình phát triển khách quan của xã hội thì sự tồn tại và phát triển của Luật Quốc tế cũng đã trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, do đó trong từng giai đoạn lịch sử mà phạm vi điều chỉnh của Luật Quốc tế có sự thay đổi dẫn tới chủ thể của Luật Quốc tế cũng có sự khác nhau nhất định. Trong giai đoạn chiếm hữu nô lệ thì chủ thể của Luật Quốc tế là các quốc gia chủ nô, các liên đoàn chính trị tôn giáo của các quốc gia thành thị. Trong thời kỳ phong kiến, chủ thể Luật Quốc tế là các quốc gia phong kiến, các nhà thờ thiên chúa giáo. Đến giai đoạn tư bản chủ nghĩa thì chủ thể của Luật Quốc tế là các quốc gia có chủ quyền và các tổ chức quốc tế… ( Một số vấn đề lý luận cơ bản về Luật Quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia 1994, tr 30).

Từ những cơ sở trên, chúng ta có thể định nghĩa tổng quát khái niệm chủ thể của Luật Quốc tế như sau: chủ thể của Luật Quốc tế là những thực thể đang tham gia  hoặc có khả năng tham gia vào quan hệ pháp luật quốc tế một cách độc lập, có đầy đủ quyền và nghĩa vụ quốc tế và khả năng gánh vác trách nhiệm pháp lý quốc tế từ những hành vi mà chính chủ thể thực hiện.

2. ĐẶC ĐIỂM:

Xét về vị trí, tính chất, vai trò chức năng và bản chất pháp lý… thì các chủ thể của Luật Quốc tế có sự khác nhau, tuy nhiên chúng bao giờ cũng có chung các đặc điểm cơ bản và đặc trưng sau:
  • Là thực thể đang tham gia hoặc có khả năng tham gia quan hệ pháp Luật Quốc tế.
  • Độc lập về ý chí, không chịu sự tác động của các chủ thể khác.
  • Được hưởng quyền và nghĩa vụ pháp lý quốc tế.
  • Có  khả năng gánh vác những trách nhiệm pháp lý quốc tế do những hành vi mà chủ thể đó gây ra.
  • Không có một chủ thể nào có quyền tài phán chủ thể của Luật Quốc tế.

3. QUYỀN NĂNG CHỦ THỂ:

Quyền năng chủ thể Luật Quốc tế là thuộc tính cơ bản, là khả năng pháp lý đặc biệt của những chủ thể được hưởng quyền và gánh vác nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý trong quan hệ pháp Luật Quốc tế. Quyền năng chủ thể bao gồm hai phương diện và chỉ khi có đầy đủ hai phương diện này thì mới được coi là chủ thể của Luật Quốc tế.

Năng lực pháp luật quốc tế: là khả năng chủ thể của Luật Quốc tế được mang những quyền và nghĩa vụ pháp lý quốc tế, khả năng này được ghi nhận trong  các quy phạm  pháp luật Quốc tế.

Năng lực hành vi quốc tế: là khả năng chủ thể được thừa nhận trong Luật Quốc tế bằng những hành vi  pháp lý độc lập của mình tự tạo ra cho bản thân quyền năng chủ thể và có khả năng gánh vác trách nhiệm pháp lý quốc tế do các hành vi của mình gây ra.

4. PHÂN LOẠI:

Hiện nay, trong quan hệ pháp Luật Quốc tế hiện đại thì chủ thể của Luật Quốc tế bao gồm:
  • Các quốc gia, đây là chủ thể cơ bản và chủ yếu của Luật Quốc tế.
  • Các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập, đây là chủ thể tiềm tàng của Luật Quốc tế.
  • Các tổ chức quốc tế liên chính phủ, đây là chủ thể phái sinh của Luật Quốc tế, được hình thành bởi sự hợp tác của các quốc gia trên nhiều lĩnh vực hướng đến lợi ích của các quốc gia và lợi ích chung của cộng đồng.
  • Các chủ thể đặc biệt khác.

Tuy nhiên trong trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay, vai trò của các cá nhân, tập đoàn, công ty đa quốc gia, các hiệp hội phi chính phủ trong quan hệ quốc tế ngày càng tăng cho nên việc thừa nhận các chủ thể có sự tham gia vào một số quan hệ pháp luật quốc tế ở một số lĩnh vực nhất định, do đó có quan điểm cho rằng đây cũng là chủ thể của Luật Quốc tế.

CHƯƠNG II – CÁC QUAN ĐIỂM VỀ CHỦ THỂ CỦA LUẬT QUỐC TẾ VÀ ĐÁNH GIÁ.

1. QUAN ĐIỂM TRUYỀN THỐNG:

1.1. Chủ thể của luật quốc tế bao gồm 4 loại:

1.1.1. Quốc Gia:
 
1.1.1.1. Các yếu tố cấu thành quốc gia:

Quốc gia là một khái niệm địa lý và chính trị, trừu tượng về tinh thần, tình cảm và pháp lý, để chỉ về một lãnh thổ có chủ quyền, một chính quyền và những con người của các dân tộc có trên lãnh thổ đó, họ gắn kết với nhau bằng luật pháp, quyền lợi, văn hóa, ngôn ngữ, tôn giáo… họ cùng nhau xây dựng một tương lai chung trên vùng lãnh thổ có chủ quyền. Những yếu tố chính dẫn đến sự hình thành quốc gia:

Có lãnh thổ xác định: đây là yếu tố cơ bản để hình thành nên quốc gia. Nếu không có lãnh thổ thì sẽ đồng nghĩa với việc không có quốc gia. Lãnh thổ được coi là cơ sở vật chất cho sự tồn tại và phát triển của quốc gia, nó cũng là ranh giới để xác định chủ quyền đối với dân cư của mình.

Có cộng đồng dân cư ổn định: có nghĩa là những người sinh sống ổn định (không phải là những người du canh) trên lãnh thổ một quốc gia và chịu sự quản lý theo hệ thống pháp luật của quốc gia đó.

Có hệ thống chính quyền: với tư cách là đại diện cho quốc gia. Chủ quyền của quốc gia phát sinh cùng với sự hình thành của quốc gia là thuộc tính không thể tách rời đối với quốc gia. Vì thế khi một quốc gia mới được thành lập thì quốc gia đó là chủ thể của quan hệ pháp lý quốc tế mà không phụ thuộc vào ý chí hoặc hành vi của bất kỳ chủ thể nào khác. Quyền năng chủ thể của nó tồn tại trên tất cả các lĩnh vực hoạt động và quá trình tồn tại của quốc gia, nó chỉ chấm dứt cùng với sự chấm dứt tồn tại trên thực tế của quốc gia đó mà thôi (VD: một quốc gia đang tồn tại gia nhập vào một quốc gia khác theo hình thức liên minh hoặc liên bang, hoặc một quốc gia đang tồn tại chia thành hai hay nhiều quốc gia độc lập).

Có khả năng độc lập tham gia vào quan hệ pháp luật quốc tế: được xuất phát từ chủ quyền quốc gia khi thực hiện chức năng đối ngoại của mình.

1.1.1.2. Quyền năng chủ thể luật Quốc tế của quốc gia:

Quyền năng chủ thể Luật Quốc tế của quốc gia bao gồm quyền và nghĩa vụ mà quốc gia có được khi tham gia vào quan hệ pháp lý quốc tế. Nội dung các quyền và nghĩa vụ quốc tế cơ bản của quốc gia được hình thành và phát triển tương ứng với sự phát triển ngày càng tiến bộ của Luật Quốc tế.

Các quyền quốc tế cơ bản của quốc gia bao gồm:
  • Quyền bình đẳng về chủ quyền và quyền lợi.
  • Quyền được tự vệ cá nhân hoặc tự vệ tập thể.
  • Quyền được tồn tại trong hòa bình và độc lập.
  • Quyền bất khả xâm phạm về lãnh thổ.
  • Quyền được tham gia vào các quy phạm của Luật Quốc tế.
  • Quyền được tự do quan hệ với các chủ thể khác của Luật Quốc tế.
  • Quyền được trở thành hội viên của tổ chức quốc tế phổ biến.
Các nghĩa vụ quốc tế cơ bản của quốc gia bao gồm:
  • Nghĩa vụ tôn trọng chủ quyền của các quốc gia khác.
  • Nghĩa vụ tôn trọng sự bất khả xâm phạm lãnh thổ của các quốc gia khác.
  • Nghĩa vụ không dùng sức mạnh và đe dọa dùng sức mạnh trong quan hệ quốc tế.
  • Nghĩa vụ không can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác.
  • Nghĩa vụ tôn trọng nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ quốc tế.
  • Nghĩa vụ tôn trọng những quy phạm mang tính chất mệnh lệnh và những cam kết quốc tế.
Các quốc gia có thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ cơ bản trong sinh hoạt quốc tế một cách độc lập theo ý chí của mình hoặc bằng cách hợp tác với các quốc gia khác.

1.1.2. Dân tộc đang đấu tranh giành quyền dân tộc tự quyết:

1.1.2.1. Khái niệm:

Từ “ dân tộc” ở đây được hiểu là bộ phận dân tộc đại diện cho một quốc gia chứ không phải dân tộc là chủng tộc hay một sắc tộc đơn lẻ. Dân tộc đang đấu tranh giành quyền dân tộc tự quyết là dân tộc mới có chủ quyền dân tộc chứ chưa có chủ quyền quốc gia. Khi tham gia vào quan hệ quốc tế và thực hiện các chức năng chính trị của mình, các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết được Luật Quốc tế hiện đại thừa nhận là những chủ thể đang trong giai đoạn quá độ để tiến lên thành một quốc gia độc lập, có chủ quyền. Tuy vậy nhưng nó vẫn là chủ thể được bình đẳng với các quốc gia khác về mặt pháp lý.

1.1.2.2.  Quyền năng chủ thể Luật Quốc tế của dân tộc đang đấu tranh giành quyền dân tộc tự quyết:

Đặc trưng quyền năng chủ thể luật quốc tế của các dân tộc đang đấu tranh có những điểm riêng biệt so với các chủ thể khác của Luật Quốc tế. Mặc dù nếu xuất phát từ chỗ chủ thể pháp luật là các bên không chỉ đang tham gia mà còn là những thực thể có khả năng tham gia vào quan hệ pháp luật, thì các dân tộc như một thực thể mang quyền tự quyết là chủ thể Luật Quốc tế, không phụ thuộc vào việc dân tộc đó đã độc lập hay chưa. Quyền năng chủ thể Luật Quốc tế được thể hiện rõ qua các điểm sau đây:

- Không phụ thuộc vào sự công nhận của các quốc gia khác.
- Được pháp luật quốc tế bảo vệ và bảo đảm trong phạm vi và mức độ nhất định như việc Luật Quốc tế đang bảo vệ và bảo đảm cho quyền năng chủ thể như những quốc gia độc lập khác.
- Nó bao trùm lên toàn bộ các lĩnh vực đối nội và đối ngoại của các dân tộc đó.

Việc không can thiệp vào công việc nội bộ của các dân tộc đang đấu tranh nói trên cũng như không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác đã trở thành nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc tế hiện đại và buộc các chủ thể Luật Quốc tế phải tuân theo.

Chủ quyền dân tộc theo khái niệm chung nhất là một thuộc tính khách quan của dân tộc, là quyền tối cao của dân tộc trong việc quyết định số phận mình, được thể hiện trong luật quốc tế dưới hình thức là tổng hợp các quyền chủ quyền của mỗi dân tộc.

1.1.3. Tổ chức quốc tế liên chính phủ:

1.1.3.1. Khái niệm:

Trong thời đại ngày nay, tổ chức quốc tế giữ vai trò quan trọng trong việc hợp tác quốc tế, giải quyết các vấn đề quốc tế quan trọng, duy trì hòa bình và an ninh thế giới. Tổ chức quốc tế là chủ thể của Luật Quốc tế được hiểu là tổ chức quốc tế liên chính phủ, là tổ chức do các quốc gia thành lập trên cơ sở một điều ước quốc tế nhằm thực hiện các quyền năng nhất định theo mụch đích thành lập của tổ chức đó, phù hợp với pháp luật quốc tế hiện đại.

1.1.3.2 Quyền năng chủ thể Luật Quốc tế của tổ chức quốc tế liên chính phủ:

Các tổ chức quốc tế liên chính phủ có được quyền năng chủ thể Luật Quốc tế không phải căn cứ vào “những thuộc tính tự nhiên” vốn có như quốc gia mà do thỏa thuận của những quốc gia thành viên trao cho. Các tổ chức quốc tế liên chính phủ xuất hiện vào khoảng giữa thế kỉ XIX nhưng vấn đề quyền năng chủ thể luật quốc tế của thực thể này chỉ được đặt ra trong lý luận và thực tiễn sinh hoạt quốc tế từ nửa đầu thế kỷ XX. Quyền năng chủ thể Luật Quốc tế của tổ chức quốc tế liên chính phủ dựa trên điều kiện (hiến chương, quy chế…) của mỗi tổ chức, trong đó quy định rõ phạm vi quyền và nghĩa vụ cơ bản của tổ chức này. Như vậy, các tổ chức quốc tế liên chính phủ khác nhau thì sẽ có những phạm vi quyền năng chủ thể Luật Quốc tế không giống nhau.

Trên đây là các chủ thể của Luật Quốc tế theo quan điểm của các nước XHCN; trong đó có Việt Nam. Nhưng không có quan điểm nào là hoàn hảo hay đúng tuyệt đối, do đó quan điểm trên cũng có những ưu nhược điểm như sau :

1.2. Ưu nhược điểm của quan điểm truyền thống:

1.2.1. Ưu điểm:

Đây được coi là quan điểm chính thống của các nước XHCN, chủ thể của Luật Quốc tế chỉ là Quốc gia, các Tổ chức Quốc tế Liên Chính Phủ, các Dân tộc đang đấu tranh giành độc lập và các chủ thể đặc biệt khác.

Đưa ra được các tiêu chí để đánh giá đâu là chủ thể của Luật Quốc tế, phân định rõ ràng giữa các chủ thể, không mơ hồ hay gây nhầm lẫn.

Quốc gia là chủ thể cơ bản của Luật Quốc tế có một số lượng xác định, sự thay đổi về số lượng các quốc gia không lớn, mặt khác Quốc gia “không di động” giúp dễ dàng kiểm soát trong việc Quốc gia tuân thủ các Điều ước quốc tế đa phương như Hiến chương Liên Hợp Quốc, Luật biển Quốc tế…

Các chủ thể của Luật Quốc tế có một địa vị pháp lí ngang bằng nhau trong các Điều ước Quốc tế song phương hay đa phương mà họ kí kết hay tham gia do đó khi thực hiện các Điều ước này họ ý thức được nghĩa vụ và quyền lợi của mình.

Về mặt hình thức theo quan điểm này thì chủ thể Luật Quốc Tế được định nghĩa rõ ràng, có những đặc điểm nhận biết riêng biệt tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc các chủ thể này kí kết ĐƯQT hoặc tham gia ĐƯQT; ta có thể nhận biết đâu là chủ thể Luật Quốc tế khi dựa vào các định nghĩa và đặc điểm này.

1.2.2. Nhược điểm:

Không đa dạng loại chủ thể, không công nhận cá nhân và pháp nhân là chủ thể của Luật Quốc tế nên dẫn đến một số vụ việc không giải quyết được làm ảnh hưởng đến quyền lợi của những chủ thể này như vụ các nạn nhân Việt Nam bị nhiễm chất độc màu da cam kiện các công ty hóa chất Mỹ.

Xã hội luôn vận động phát triển, đang thay đổi từng ngày mà quan điểm này là một quan điểm “cứng nhắc” nên có thể nó không còn phù hợp cho xã hội ngày nay nữa.

2. QUAN ĐIỂM HIỆN ĐẠI:

2.1. Chủ thể của Luật Quốc tế ngoài 4 loại trên còn có thêm :

2.1.1. Cá nhân:

2.1.1.1. Khái niệm cá nhân:

Cá nhân là chủ thể mang tính tự nhiên, là một thực thể sinh học chiếm số lượng lớn nhất trong xã hội. Cá nhân là chủ thể thường xuyên và quan trọng nhất của nhiều ngành luật như: pháp luật dân sự, pháp luật hình sự, pháp luật đất đai… bởi đây là chủ thể đầu tiên và cơ bản trong tất cả các mối quan hệ xã hội. Tuy nhiên, hầu hết các quốc gia chưa công nhận cá nhân là chủ thể của Luật Quốc tế.

2.1.1.2. Đặc điểm chủ thể của cá nhân:

Năng lực pháp luật của cá nhân là khả năng có quyền và nghĩa vụ. Đây là những quyền do nhà nước quy định và không ai được tự hạn chế nghĩa vụ của mình cũng như quyền và nghĩa vụ của người khác. Mọi cá nhân sinh ra không phân biệt giới tính, thành phần dân tộc, giàu nghèo, tôn giáo… đều có năng lực pháp luật như nhau và được nhà nước đảm bảo thực hiện. Điều này được công nhận tại Điều 6 Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền 1948 (Ở bất kì nơi nào, mỗi người đều có quyền được công nhận tư cách con người của mình trước pháp luật).

Năng lực hành vi của cá nhân là khả năng cá nhân bằng hành vi của mình xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lí cũng như độc lập chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Khả năng này được xác định dựa theo độ tuổi và khả năng nhận thức của con người. Năng lực hành vi của cá nhân ở các quốc gia khác nhau và ở nhiều thời điểm khác nhau là khác nhau.

2.1.1.3 Quyền năng chủ thể luật quốc tế của cá nhân:

Tính chủ thể pháp lý của cá nhân được thể hiện ở chỗ cá nhân cũng gánh vác trách nhiệm và nghĩa vụ cũng như hưởng các quyền lợi mà Luật Quốc tế quy định, bởi suy cho cùng hành vi của từng cá nhân trong một quốc gia là cách thức quốc gia đó thực hiện quyền và nghĩa vụ quốc tế. Ngoài ra, để pháp điển hóa các quy định của pháp luật quốc tế, các quốc gia phải ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, tạo khung pháp lí cho việc áp dụng các quy định đó trong đời sống xã hội. Như vậy, việc này đã gián tiếp công nhận các cá nhân của quốc gia đó, chính là những người trực tiếp thực hiện quyền và nghĩa vụ quốc tế của quốc gia mình.

Mặt khác, trong rất nhiều văn bản pháp luật quốc tế, cá nhân được đem ra xem xét như là một chủ thể của quan hệ pháp luật này và phải chịu trách nhiệm pháp lý về hành vi của mình.Theo Điều 1 Quy chế Tòa án hình sự quốc tế thì Tòa án có quyền xét xử đối với những cá nhân về những tội phạm hình sự quốc tế nguy hiểm nhất được quy định trong Quy chế. Cũng theo Điều 5 Quy chế này thì Tòa án sẽ xét xử đối với hầu hết những tội phạm nguy hiểm nhất do cá nhân thực hiện, đó là tội diệt chủng, tội ác chống loài người, tội ác chiến tranh và tội gây chiến tranh xâm lược. Điều lệ của Tòa án binh 1945 ở Nurnberge và Công ước quốc tế về ngăn ngừa và trừng phạt tội ác diệt chủng 1948 cũng thừa nhận như trên.

2.1.2. Pháp nhân (công ty xuyên quốc gia):

2.1.2.1 Khái niệm:

Pháp nhân ở đây được hiểu là các công ty quốc tế, công ty đa quốc gia và các công ty xuyên quốc gia. Xét về mặt tài chính hay kinh tế, các khái niệm này có sự khác nhau rõ rệt. Tuy nhiên, khi đặt chúng trong quan hệ quốc tế thì việc hoạt động trên quy mô quốc tế cho phép ta dùng thuật ngữ công ty xuyên quốc gia để gọi chung cho loại  pháp nhân này. Vì vậy, từ đây về sau xin được sử dụng cụm từ công ty xuyên quốc gia với tư cách là chủ thể của Luật Quốc tế. Công ty xuyên quốc là khái niệm để chỉ những tổ chức kinh doanh có quyền sở hữu sản xuất, hoạt đông và cung cấp dịch vụ trên địa bàn nhiều quốc gia. Các công ty này thường có ngân sách vượt cả ngân sách của nhiều quốc gia và có ảnh hưởng lớn đến các mối quan hệ quốc tế và nền kinh tế toàn cầu. Các công ty này cũng đóng một vai trò quan trọng trong quá trình toàn cầu hóa.

2.1.2.2. Đặc điểm chủ thể của công ty xuyên quốc gia:

Với tư cách là pháp nhân, năng lực chủ thể của công ty xuyên quốc gia phát sinh và kết thúc đồng thời với thời điểm công ty này thành lập và chấm dứt. Các công ty xuyên quốc gia hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực kinh tế và thường có mục đích lợi nhuận. Chúng  thường có sự gắn bó đáng kể với chính trị. Nếu như trong quá khứ, các công ty xuyên quốc gia có quan hệ mật thiết với chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc thì trong thời hiện đại, việc các công ty xuyên quốc gia can thiệp vào công việc nội bộ của các nước đã không còn xa lạ. Ngược lại, các công ty xuyên quốc gia lại khá độc lập với quốc gia do chúng có sự chủ động về tổ chức, tài lực và nhân lực. Các công ty xuyên quốc gia được tự do định đoạt quy mô, đối tượng và phương án thực hiện hoạt động kinh doanh mà ít có sự can thiệp của nhà nước. Sự độc lập còn được tăng lên bởi những quy định pháp lý của nhà nước và thế lực tài chính khổng lồ.

2.1.2.3. Quyền năng chủ thể luật quốc tế của các công ty xuyên quốc gia:

Các công ty xuyên quốc gia, đang ngày càng chiếm được vị thế vững chắc trong quan hệ quốc tế. Không thể phủ nhận những ảnh hưởng của chúng trong việc kiến tạo các quan hệ xuyên quốc gia và khả năng gây ảnh hưởng cho nền kinh tế quốc gia hay thế giới. Thông qua quá trình hoạt động và mạng lưới kinh doanh quốc tế của mình, các công ty xuyên quốc gia đã mở rộng quan hệ quốc tế, phát triển quan hệ kinh tế quốc tế, làm tăng sự phụ thuộc lẫn nhau, thúc đẩy toàn cầu hóa, hình thành luật lệ trong quan hệ quốc tế, chuyển tải các giá trị xuyên biên giới và củng cố hệ thống quốc tế, thúc đẩy xu hướng thống nhất thế giới. Việc các công ty này hợp tác với các quốc gia hay các tổ chức khác để thực hiện các dự án kinh doanh đã không còn quá mới mẻ. Như vậy, việc tiếp tục lờ đi các công ty xuyên gia, đặt chúng nằm ngoài pháp luật quốc tế liệu có còn là sự lựa chọn khôn ngoan nữa không? Và nếu không công nhận chúng, thì văn bản pháp luật nào sẽ điều chỉnh quan hệ giữa các công ty này với quốc gia hay các chủ thể của luật quốc tế khác khi nguồn gốc quốc tế là một yếu tố cơ bản của loại hình công ty này.

2.1.3. Các tổ chức phi chính phủ:

2.1.3.1 Khái niệm:

Tổ chức phi chính phủ là thuật ngữ dùng để chỉ tổ chức, hiệp hội, ủy ban văn hóa xã hội, hội từ thiện, tập đoàn phi lợi nhuận hoặc các pháp nhân khác theo quy định của pháp luật, được thành lập hợp pháp và tự nguyện, không phụ thuộc vào Nhà nước và không hoạt động vì mục đích lợi nhuận.

2.1.3.2 Đặc điểm chủ thể của tổ chức phi chính phủ:

Năng lực pháp luật và năng lực hành vi của tổ chức phi chính phủ khá tương đồng với công ty xuyên quốc gia bởi chúng đều có tư cách pháp nhân. Năng lực chủ thể của các tổ chức này phát sinh đồng thời và tồn tại tương ứng cùng với thời điểm thành lập và chấm dứt nó. Năng lực chủ thể của tổ chức phi chính phủ được quyết định bởi mục đích hoạt động của tổ chức đó. Các tổ chức phi chính phủ ra đời nhằm mục đích khác nhau, thông thường nhằm đẩy mạnh các mục tiêu chính trị hay xã hội như bảo vệ môi trường thiên nhiên, khuyến khích việc tôn trọng quyền con người, cải thiện mức phúc lợi cho những người bị thiệt thòi, hoặc đại diện cho một nghị trình đoàn thể. Có rất nhiều tổ chức như vậy và mục tiêu của chúng bao trùm nhiều khía cạnh chính trị, xã hội, triết lý và nhân văn.

Các tổ chức phi chính phủ trên thế giới hiện nay chủ yếu nằm trong 3 dạng sau :

-   Tổ chức phi chính phủ mang tính chất quốc gia: là tổ chức mà thành viên đều mang một quốc tịch. Phạm vi hoạt động là trong cộng đồng một quốc gia.
-   Tổ chức phi chính phủ mang tính chất quốc tế: là tổ chức mà thành viên của nó mang nhiều quốc tịch sáng lập ra. Phạm vi hoạt động của tổ chức này rộng khắp trên thế giới nhưng phải tuân theo luật pháp của quốc gia nhận hỗ trợ.
-   Tổ chức phi chính phủ mang tính chất chính phủ: là một tổ chức do chính phủ lập ra hoặc là một tổ chức phi chính phủ dựa hoàn toàn vào nguồn ngân sách của chính phủ.

Như vậy, năng lực chủ thể của các tổ chức phi chính phủ sẽ do quốc gia nơi nó được hình thành hoặc hoạt động công nhận.

2.1.3.3. Quyền năng chủ thể luật quốc tế của các tổ chức phi chính phủ:

Ngày nay, tiếng nói của các tổ chức phi chính phủ đối với các vấn đề thuộc mối quan tâm của cộng đồng quốc tế càng được các nước và các tổ chức quốc tế lớn (như Liên Hiệp quốc) quan tâm. Hàng năm, Ngân hàng thế giới (WB) đều tổ chức các hội nghị tư vấn với các tổ chức phi chính phủ. Còn với Liện Hiệp quốc, Theo Điều 71 Hiến chương Liên Hiệp quốc, Hội đồng Kinh tế và Xã hội có thể ký kết các hiệp ước phù hợp để tư vấn cho các tổ chức phi chính phủ có liên hệ với các vấn đề thuộc thẩm quyền của mình. Các hiệp ước đó có thể được ký kết với các tổ chức quốc tế và cả các tổ chức quốc gia, nếu thích hợp, sau khi đã tham vấn Thành viên hữu quan của Liên Hiệp Quốc. Như vậy, ở phương diện nào đó Liên Hiệp quốc đã có quan hệ cũng như đã tác động đến hoạt động của các tổ chức này thông qua các hiệp ước. Hơn nữa, chương 27 của chương trình nghị sự 21 về vấn đề phát triển bền vững, đã công nhận vai trò to lớn của các tổ chức này, từ đó sắp xếp lại vai trò tư vấn giữa Liên Hiệp quốc với các tổ chức phi chính phủ.

Chương 27 đã đề cập đến một số vấn đề như sau:

Điều 1: các tổ chức phi chính phủ, nên được công nhận là đối tác của chương trình nghị sự 21.

Điều 3: các tổ chức phi chính phủ, bao gồm cả các tổ chức phi lợi nhuận đại diện cho các nhóm tham gia vào chương trình nghị sự, phải là những tổ chức đã tồn tại lâu bền và có kinh nghiệm phong phú, cũng như chuyên môn và năng lực trong các lĩnh vực; sẽ được tham gia vào việc thực hiện và đánh giá môi trường và sự phát triển bền vững của xã hội. Cộng đồng của các tổ chức phi chính phủ sẽ cung cấp một mạng lưới toàn cầu, phục vụ cho việc khai thác và tăng cường hỗ trợ trong nỗ lực đạt được mục tiêu chung.

Việc công nhận các tổ chức phi chính phủ trong hoạt động xây dựng và phát triển một thế giới bền vững đã chứng tỏ vị trí của các tổ chức này trong các mối quan hệ quốc tế. Từ đó cho thấy, các tổ chức phi chính phủ không còn giữ vai trò là người được tư vấn nữa mà là một chủ thể quan trọng trong việc hiện thực hóa các chính sách của Liên Hiệp quốc.

2.2. Ưu nhược điểm của quan điểm hiện đại:

Như đã phân tích ở trên, việc đáp ứng đủ các tiêu chí là chủ thể Luật Quốc tế: cá nhân, pháp nhân, tổ chức phi chính phủ có khả năng đóng vai trò của một chủ thể quan hệ quốc tế. Các chủ thể này đang tác động ngày một nhiều tới nền kinh tế, văn hóa, chính trị quốc tế. Nhưng việc công nhận một chủ thể là chủ thể của Luật Quốc tế sẽ làm phát sinh rất nhiều quan hệ phức tạp cần giải quyết trên thực tế vì thế việc có công nhân cá nhân, pháp nhân, tổ chức phi chính phủ có phải là chủ thể Luật Quốc tế hay không phải dựa trên những tác động tích cực hay tiêu cực của từng chủ thể trên đến quan hệ quốc tế trên thực tiễn. Sau đây chúng tôi đưa ra những ưu cũng như nhược điểm mà theo chúng tôi nếu cá nhân, pháp nhân, tổ chức phi chính phủ được công nhận là chủ thể Luật Quốc tế trong tương lai sẽ xuất hiện.

2.2.1. Cá nhân:

Nếu công nhận cá nhân là chủ thể Luật Quốc tế đồng nghĩa sẽ thể chế những quy định về quyền con người được ghi nhân trong Hiến chương Liên hợp quốc là tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Khi đó, cá nhân không những có quyền và nghĩa vụ pháp lý quốc tế được nảy sinh từ điều Luật Quốc tế mà còn có quyền và khả năng yêu cầu quốc gia thực hiện các quyền con người và trong trường hợp cần thiết thỉnh cầu lên các Toà án Quốc tế để đảm bảo cho các quyền đó. Và lẽ tất nhiên những viện dẫn vào nguyên tắc không can thiệp vào nội bộ của nước khác để cản trở sự điều tiết của Luật Quốc tế đối với vấn đề quyền con người sẽ không còn tồn tại nhiều như hiện nay. Nhưng đứng ở góc độ quốc gia thì sẽ phát sinh hiện tượng dựa vào con bài nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của một quốc gia có chủ quyền và sẽ lại vi phạm nguyên tắc chủ quyền quốc gia.

Mặt khác việc cá nhân ngày càng tích cực tham gia vào hoạt động trên trường quốc tế làm cho các hoạt động này phức tạp hơn, khó điều khiển hơn, như một số ý kiến cho rằng “thật là vô ích nếu như xếp cá nhân vào hàng ngũ những chủ thể của Luật Quốc tế, bởi vì làm như vậy là vô hình chung công nhận một số quyền của cá nhân mà trên thực tế không có, phủ nhận tính tất yếu của sự khác biệt giữa cá nhân và các chủ thể khác trong luật quốc tế”.[1]

Thiết nghĩ ở đây nên có một cách nhìn đúng đắn và những việc làm cụ thể để quyền con người được thực hiện mà chủ quyền của quốc gia vẫn được toàn vẹn. Và cũng cần nhấn mạnh rằng chủ yếu không phải là tuyên bố một cách hình thức về tính chủ thể pháp lý cá nhân, về quyền con người mà tìm các biện pháp hữu hiệu để cho quyền con người được đảm bảo trong mối tương hỗ giữa nội Luật và Công pháp Quốc tế, trong sự hợp tác quốc tế giữa các tổ chức, quốc gia với nhau.

2.2.2. Pháp nhân và các tổ chức phi chính phủ:

Từ những phân tích trên ta thấy pháp nhân tổ chức phi chính phủ có tác động  đáng kể trong quan hệ quốc tế. Và đó là tác động có tính hai mặt. Thông qua quá trình hoạt động và mạng lưới quốc tế của mình, các pháp nhân, tổ chức phi chính phủ góp phần mở rộng quan hệ quốc tế, phát triển quan hệ kinh tế, văn hóa quốc tế, làm tăng sự phụ thuộc lẫn nhau, thúc đẩy toàn cầu hoá, hình thành Luật lệ trong quan hệ quốc tế, chuyển tải các giá trị xuyên biên giới và củng cố hệ thống quốc tế. Các đóng góp tích cực nhất của pháp nhân, tổ chức phi chính phủ là phát triển kinh tế thế giới, tạo điều kiện cho hợp tác và hội nhập quốc tế, thúc đẩy xu hướng thống nhất của thế giới.

Ngược lại, pháp nhân, các tổ chức phi chính phủ cũng gây ra những tác động tiêu cực đối với quan hệ quốc tế. Pháp nhân, tổ chức phi chính phủ góp phần tạo ra hình thức thống trị và lệ thuộc mới trong quan hệ quốc tế. Trong tác phẩm “Chủ nghĩa Đế quốc - giai đoạn tột cùng của Chủ nghĩa Tư bản”, Lênin đã chỉ ra và phân tích những hậu quả to lớn do các pháp nhân độc quyền gây ra cho quốc gia và quan hệ. Một số lý luận khác như Lý thuyết về sự phụ thuộc của Raul Prebish, Lý thuyết về hệ thống thế giới của Immanuel Wallerstein cũng chỉ ra tác động tiêu cực của pháp nhân, tổ chức phi chính phủ đối với sự phân hoá thế giới.

Nắm công cụ tài chính và công nghệ trong tay, các pháp nhân, tổ chức phi chính phủ đang tác động lên Luật lệ Quốc tế và chi phối sự phân công lao động quốc tế mới có lợi cho chúng. Trong đó, các nước đang phát triển có nguy cơ ngày càng phụ thuộc vào các nước công nghiệp phát triển khi trở thành nơi cung cấp nguyên liệu, lao động và sản phẩm sơ chế giá rẻ cũng như nơi tiêu thụ hàng hoá giá cao của các pháp nhân. Các pháp nhân, tổ chức phi chính phủ được cho rằng đang khoét sâu thêm mâu thuẫn Bắc-Nam khi duy trì sự bóc lột các nước đang phát triển, chèn ép nền sản xuất nội địa, duy trì bất bình đẳng về cơ hội và thu nhập, trói buộc bằng nợ nần, chuyển giao công nghệ lạc hậu, thủ phạm tàn phá tài nguyên và môi trường, gây ra đụng độ giá trị Văn hoá Phương Tây và bản địa, tiếp tục sự can thiệp chính trị vào công việc nội bộ các nước dưới nhiều hình thức khác nhau… Nói chung, pháp nhân, các tổ chức phi chính phủ vẫn tiếp tục gây lo ngại cho các nước đang phát triển và hoàn toàn có thể tạo ra những vấn đề lớn trong quan hệ quốc tế bởi khả năng can thiệp chính trị và lũng đoạn kinh tế của chúng. Vì thế, đã có những cố gắng trong quan hệ quốc tế nhằm ngăn chặn các khả năng này[2]. Các tác động hai mặt của pháp nhân, tổ chức phi chính phủ đối với quan hệ quốc tế là một thực tế. Và đó cũng là cơ sở để khẳng định thêm tư cách chủ thể quan hệ quốc tế của pháp nhân, tổ chức phi chính phủ.

3. ĐÁNH GIÁ:

Như ta đã biết, các nước TBCN trước nay vẫn xem Tư pháp Quốc tế là một bộ phận của Luật Quốc tế cùng với Công pháp Quốc tế. Trong đó, Tư pháp Quốc tế điều chỉnh các quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngoài. Quan hệ dân sự ở đây tùy thuộc vào quan điểm lập pháp của mỗi nước mà có thể chỉ là quan hệ nhân thân, quan hệ tài sản hoặc còn có thêm quan hệ hôn nhân gia đình, tố tụng dân sự, lao động, kinh doanh - thương mại... Yếu tố nước ngoài có thể là chủ thể tham gia quan hệ là cá nhân, pháp nhân  nước ngoài hoặc có khách thể là tài sản, công việc ở nước ngoài hoặc có sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi chấm dứt các quan hệ đó xảy ra ở nước ngoài. Điểm đáng chú ý là chủ thể của Tư pháp Quốc tế có thể là cá nhân, pháp nhân hoặc bao gồm cả Nhà nước nước ngoài (ví dụ như quan hệ thừa kế tài sản giữa công dân Việt Nam và Nhà nước nước ngoài là quan hệ mang tính chất dân sự thuộc đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế). Như vậy có thể thấy rằng trong Tư pháp Quốc tế, một cá nhân hoàn toàn có thể ngang hàng, bình đẳng về địa vị pháp lý với Nhà nước và Nhà nước hoàn toàn có thể đối mặt với một đơn kiện từ cá nhân.

 Mặc khác, Công pháp Quốc tế điều chỉnh các quan hệ quốc tế phát sinh giữa các quốc gia và các chủ thể khác của Công pháp Quốc tế (không bao gồm cá nhân, pháp nhân) trong mọi lĩnh vực mà chủ yếu là các quan hệ chính trị, liên quan đến chính trị. Nó không trực tiếp điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa cá nhân, tổ chức nước này với cá nhân tổ chức nước khác và kể cả với Nhà nước. Những hành vi vi phạm Công pháp quốc tế của cá nhân, tổ chức thì quốc gia có công dân, tổ chức bị vi phạm có thể giải quyết vi phạm này thông qua con đường ngoại giao.

Như vậy, trong trường hợp này thì cá nhân và pháp nhân vẫn được coi là chủ thể của Luật Quốc tế.

Trong khi đó, quan điểm của các nước XHCN trước đây không công nhận cá nhân, pháp nhân là chủ thể của Luật Quốc tế, chỉ xem Tư pháp Quốc tế thuộc Luật quốc gia và Luật Quốc tế chỉ gồm có Công pháp Quốc tế. Việt Nam cũng theo quan điểm này. Theo đó, cá nhân, pháp nhân không được coi là chủ thể của Công pháp Quốc tế và kéo theo đương nhiên là cũng không được coi là chủ thể của Luật Quốc tế.

Tóm lại, có 2 vấn đề được đặt ra ở đây: Một là vị trí của Tư pháp Quốc tế trong hệ thống pháp luật. Nó có nên được coi là một nhánh của Luật Quốc tế hay không? Bởi vì nếu ta xem Tư pháp quốc tế là một nhánh của Luật Quốc tế thì vấn đề chủ thể  Luật Quốc tế có phải là cá nhân và pháp nhân là không cần bàn cãi; hai là trong trường hợp không xem Tư pháp Quốc tế là một nhánh của Luật Quốc tế thì có nên xem cá nhân và pháp nhân là chủ thể của luật quốc tế (hay chính là Công pháp Quốc tế) hay không? (pháp nhân mà đặc biệt là các công ty đa quốc gia, liên quốc gia và các tổ chức quốc tế phi Chính phủ vì đây là những chủ thể có tầm ảnh hưởng lớn, có khả năng chi phối cao đối với đời sống kinh tế, chính trị của các quốc gia). Dưới đây, chúng ta sẽ đi xem xét cụ thể từng vấn đề một.

3.1. Vị trí của Tư pháp Quốc tế trong hệ thống pháp luật:

Ở nước ta cũng như các nước khác trên thế giới đều thừa nhận rằng bên cạnh hệ thống pháp luật quốc gia thì còn tồn tại hệ thống pháp luật quốc tế và trên thực tế chỉ tồn tại 2 hệ thống pháp luật này. Vì vậy mà Tư pháp Quốc tế nếu không thuộc Luật quốc gia thì chỉ có thể thuộc Luật Quốc tế và ngược lại. Đây là vấn đề quan điểm của mỗi nước, vì vậy có nhiều quan điểm trái ngược nhau về vấn đề này. Theo nhóm chúng tôi thì cần phải dựa trên những đánh giá toàn diện về tất cả các nội dung như nguồn Luật, đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh, chủ thể, biện pháp chế tài để có thể có một cái nhìn chính xác về vị trí của Tư pháp Quốc tế trong hệ thống pháp luật.

Như đã nói, tùy thuộc vào quan điểm của mỗi quốc gia cho nên nếu xem Tư pháp Quốc tế là bộ phận của Luật Quốc tế thì cá nhân và pháp nhân cũng là chủ thể của Luật Quốc tế. Trong phạm vi của đề tài đặt ra, chúng tôi không đi sâu về vấn đề vị trí của Tư pháp Quốc tế nhưng chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng đây cũng là một trong các lý do chủ yếu dẫn đến sự khác biệt về quan điểm của các quốc gia trên thế giới về việc công nhận hay không công nhận cá nhân, pháp nhân là chủ thể của Luật Quốc tế. Một số quốc gia cho rằng cá nhân, pháp nhân là chủ thể của Luật Quốc tế vì quốc gia đó đang hiểu khái niệm Luật Quốc tế theo nghĩa rộng hơn, tức là bao hàm cả Công và Tư pháp Quốc tế.

3.2. Có nên xem cá nhân, pháp nhân là chủ thể của Công pháp Quốc tế (cũng chính là của Luật Quốc tế)?

Sau khi xem xét về ưu,nhược điểm của mỗi quan điểm (như đã trình bày ở phần các quan điểm) và trên các cơ sở về lý luận, pháp lý, thực tiễn về Luật Quốc tế ở Việt Nam hiện nay, nhóm chúng tôi  nghiêng về quan điểm  không  nên xem cá nhân và pháp nhân là chủ thể của Công pháp Quốc tế. Sau đây là những điểm cơ bản mà chúng tôi chứng minh cho quan điểm của mình:

3.2.1. Về đối tượng điều chỉnh của Luật Quốc tế:

Hiện nay, Luật Quốc tế điều chỉnh các quan hệ quốc tế phát sinh giữa các quốc gia và các chủ thể khác của Luật Quốc tế trên nhiều lĩnh vực, nhưng chủ yếu và quan trọng nhất vẫn là chính trị. Thật vậy, xu hướng tất yếu hiện nay đó là tăng cường sự hợp tác quốc tế giữa các quốc gia với nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: từ kinh tế, văn hóa đến giáo dục, y tế,  xây dựng cơ sở hạ tầng... Nhưng ẩn sau hầu hết các quan hệ này đều ít nhiều có liên quan đến chính trị. Trong khi đó, các quan hệ mà cá nhân, pháp nhân tham gia lại chủ yếu là các quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) - phi chính trị.

Vì thế có thể suy ra rằng các quan hệ xã hội mà cá nhân, pháp nhân tham gia với các quan hệ mà Luật Quốc tế điều chỉnh là không thống nhất với nhau.

3.2.2. Về các đặc điểm cơ bản để xác định một thực thể là chủ thể của Luật Quốc tế:

Ta có khái niệm về chủ thể của Luật Quốc tế: “chủ thể của Luật Quốc tế là những thực thể đang tham gia hoặc có khả năng tham gia vào các quan hệ quốc tế một cách độc lập, có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ quốc tế cũng như thực hiện một cách độc lập các quyền và nghĩa vụ quốc tế đó trên cơ sở các quy phạm Luật Quốc tế”.

Theo như khái niệm trên, ta có thể rút ra được các dấu hiệu cơ bản của chủ thể Luật Quốc tế và theo quan điểm của nhóm chúng tôi thì cá nhân, pháp nhân không đáp ứng được các dấu hiệu cơ bản sau đây để trở thảnh chủ thể của Luật Quốc tế:

Thứ nhất, thực thể đang và có khả năng tham gia vào các quan hệ quốc tế.

Một số các tác giả đã viện dẫn các Điều ước Quốc tế về quyền con người (ví dụ như Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế 1948), về vị thế pháp lý của một số nhóm cá nhân trong Luật Quốc tế (Công ước Quốc tế về quyền của người tị nạn 1951), hay quyền của cá nhân được thỉnh cầu lên các Tòa án Quốc tế (Điều 190 Công ước Quốc tế về Luật Biển 1982 cá nhân có quyền được đưa đơn kiện nhà nước tham gia Công ước và đòi hỏi được xét xử tại Toà án Quốc tế về biển), khả năng gánh vác trách nhiệm pháp lý quốc tế ( ví dụ như Điều lệ Tòa án binh quốc tế 1945, Công ước Quốc tế về ngăn ngừa và trừng phạt tội ác diệt chủng 1948...).

Thực tế cho thấy rằng cá nhân, pháp nhân chỉ có khả năng tham gia “rất hạn hữu” vào một số các quan hệ quốc tế xác định hoặc tham gia các quan hệ này một cách gián tiếp thông qua Nhà nước. Điều này xuất phát từ những quyền tự nhiên của con người, vị thế của công dân, pháp nhân của quốc gia.

Thứ hai, chủ thể Luật Quốc tế có ý chí độc lập, không phụ thuộc vào các chủ thể khác.

Hiện nay, khi tham gia vào tất cả các quan hệ của đời sống xã hội thì cá nhân, pháp nhân vẫn chịu một sự chi phối rất lớn từ ý chí, từ quyền lực chính trị của chủ thể đặc biệt đó là Nhà nước. Một mặt, cá nhân và pháp nhân không được làm trái, đi ngược lại các quy định của pháp luật quốc gia. Đồng thời hai loại chủ thể này không thể tự mình tham gia vào một số các quan hệ quốc tế mà phải thông qua nhà nước.

Thứ ba, được hưởng quyền và các nghĩa vụ pháp lý quốc tế và gánh vác trách nhiệm pháp lý quốc tế do hành vi của mình gây ra.

Một số nhà luật học đã dựa vào những căn cứ như trên đã đề cập, họ chứng minh rằng cá nhân vẫn được hưởng quyền và các nghĩa vụ cũng như gánh vác trách nhiệm pháp lý quốc tế như các chủ thể khác của luật quốc tế. Tuy nhiên, theo quan điểm của nhóm chúng tôi thì dù các Điều ước Quốc tế trên là hướng tới con người, hướng tới cá nhân nhưng chúng tôi đồng ý với quan điểm của B.M Shurshaloff  rằng các Điều ước Quốc tế được ký kết giữa các quốc gia với nhau, quyền và nghĩa vụ phát sinh từ các Điều ước này là dành cho nhà nước và nhà nước có phải đảm bảo cho cá nhân có những quyền trên, vì bản thân những Điều ước đó không thể nào được thực thi nếu không được nhà nước cụ thể hóa trong Luật quốc gia.

Thứ tư, không một chủ thể nào có quyền tài phán chủ thể của Luật Quốc tế, trên nó không tồn tại quyền lực chính trị nào chi phối hoạt động của nó và khi tham gia vào các quan hệ quốc tế thì các chủ thể có vị trí độc lập, bình đẳng với nhau.

Thực tiễn ta thấy rằng, trong mối tương quan về địa vị pháp lý trong Luật quốc gia thì nhà nước luôn có quyền tài phán đối với công dân, pháp nhân nước mình, phần lớn các quan hệ phát sinh giữa cá nhân, pháp nhân với nhà nước đều được điều chỉnh bởi phương pháp quyền uy, mệnh lệnh phục tùng. Mặt khác, chúng vẫn có thể bị tài phán bởi các cơ quan quốc tế khác (ví dụ như Tòa án binh Quốc tế) theo Luật Quốc tế. Vì vậy, khi tham gia vào các hoạt động, cá nhân pháp nhân luôn bị chi phối ảnh hưởng bởi quyền lực chính trị và khi tham gia vào quan hệ với các chủ thể khác của Luật Quốc tế thì chúng khó có thể có được vị trí độc lập và bình đẳng.

3.2.3. Về các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế :

Nội dung các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế hiện nay chủ yếu là tư tưởng chính trị, pháp lý mang tính chất điều chỉnh các quan hệ của các quốc gia xuất phát từ nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình.

Các nguyên tắc được coi như một cam kết, đã có sự tán thành của các nước hội viên và bắt buộc các nước phải tuân thủ theo.

Tóm lại :

Luật Quốc tế cũng như Luật quốc gia đều có sự phát triển, thay đổi theo quá trình phát triển khách quan của xã hội. Vì vậy với sự phát triển và hội nhập toàn cầu như hiện nay thì mở rộng khái niệm “Luật Quốc tế” là điều cần thiết nhưng cần có sự nhìn nhận phù hợp với khoa học pháp lý của từng chế độ, từng hình thức chính trị của mỗi quốc gia. Mặc dù các quan điểm vẫn chưa thống nhất về việc có nên công nhận Tư pháp Quốc tế với chủ thể cơ bản là các cá nhân, pháp nhân vào thành một nhánh nằm song  song với Luật Quốc tế để hoàn thiện Luật Quốc tế như đúng nghĩa của nó hay là công nhận nó thuộc hệ thống pháp luật quốc gia như hiện nay nhưng Tư pháp Quốc tế vẫn giữ một vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của kinh tế nói riêng và xã hội nói chung.

Mặc khác, việc có nên đưa cá nhân, pháp nhân vào là chủ thể của Công pháp quốc tế hay không cũng đang còn là vấn đề gây tranh cãi lớn. Dù không ủng hộ quan điểm này nhưng chúng tôi vẫn mong muốn rằng trong tương lai cá nhân và pháp nhân có thể tham gia nhiều hơn nữa vào đời sống quốc tế.

CHƯƠNG III – THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUAN ĐIỂM Ở VIỆT NAM.

1. THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM:

Những tổ chức được coi là chủ thể của Luật Quốc tế tham gia vào quan hệ quốc tế có những quyền và nghĩa vụ pháp lí quốc tế nhất định, những mối quan hệ đó sẽ được điều chỉnh bởi Luật Quốc tế. Các quốc gia là chủ thể cơ bản của Luật Quốc tế. Các dân tộc đang đấu tranh nhằm thực hiện quyền tự quyết dân tộc là chủ thể tiềm tàng, bình đẳng trong quan hệ Luật Quốc tế. Các dân tộc đó dần dần chuyển thành chủ thể cơ bản của Luật Quốc tế, trở thành các quốc gia, vì các dân tộc ấy thực hiện quyền tự quyết sẽ dẫn đến hình thành quốc gia độc lập. Các tổ chức quốc tế liên chính phủ là chủ thể đặc biệt của Luật Quốc tế. Đó là các tổ chức do các quốc gia thoả thuận thành lập ra để thực hiện những mục đích nhất định. Năng lực pháp luật của các tổ chức liên quốc gia được quy định trong điều lệ và phù hợp với mục đích thành lập của nó.

Ở Việt Nam, chủ thể của Luật Quốc tế vẫn theo quan điểm truyền thống. Nghĩa là chỉ công nhận những chủ thể sau là chủ thể của quan hệ pháp luật quốc tế:
  • Các quốc gia.
  • Các dân tộc đang đấu tranh nhằm thực hiện quyền dân chủ tự quyết.
  • Tổ chức quốc tế liên chính phủ.
  • Những chủ thể đặc biệt khác.

Tuy nhiên, do đặc thù của xu thế hợp tác và phát triển kinh tế trong thời đại toàn cầu như hiện nay, vai trò của các cá nhân, các tập đoàn, các công ty đa quốc gia, công ty xuyên quốc gia, các hiệp hội quốc tế phi chính phủ trong các quan hệ quốc tế ngày càng gia tăng. Dẫn đến khả năng thừa nhận có sự tham gia của các thực thể này vào một số lĩnh vực nhất định của quan hệ pháp luật quốc tế, ví dụ trong quan hệ kinh tế quốc tế, nhân đạo, nhân quyền, môi trường quốc tế…

Trong bài viết “Cá nhân – chủ thể của Luật Quốc tế?” [3], tác giả Nguyễn Đức Lam đã nói: chúng ta có thể tạm thời cho rằng cá nhân là một trong những chủ thể của Luật Quốc tế. Cá nhân không những có quyền và nghĩa vụ pháp lý quốc tế được nảy sinh từ điều Luật Quốc tế mà còn có quyền và khả năng yêu cầu quốc gia thực hiện các quyền con người và trong trường hợp cần thiết thỉnh cầu lên các Toà án Quốc tế để đảm bảo cho các quyền đó….

Trong bài viết: công ty xuyên quốc gia – chủ thể của quan hệ quốc tế trên tạp chí khoa học, ĐHQG Hà Nội, ngày 28/07/2008, tác giả Hoàng Khắc Nam [4] cũng cho rằng: Bên cạnh chủ thể quốc gia, sự nổi lên của các chủ thể phi quốc gia là một trong những nhân tố tạo nên những thay đổi ấn tượng của quan hệ quốc tế thời hiện đại. Công ty Xuyên quốc gia là một trong những chủ thể phi quốc gia quan trọng nhất, đó là những tổ chức kinh doanh có quyền sỡ hữu hoặc hoạt động kinh doanh diễn ra trên địa bàn nhiều quốc gia. Từ những năm 1980, nhất là sau chiến tranh Lạnh, các công ty xuyên quốc gia phát triển rất mạnh và đóng vai trò ngày càng quan trọng trong quan hệ quốc tế.(…) các công ty xuyên quốc gia có khả năng đóng vai trò của một chủ thể quan hệ quốc tế. Do có tính độc lập tương đối với quốc gia nên các công ty xuyên quốc gia có thể được coi là chủ thể phi quốc gia…

Như vậy, ở Việt Nam hiện nay, các quan điểm coi cá nhân và các công ty xuyên quốc gia là chủ thể của quan hệ pháp luật quốc tế mặc dù chưa được bàn nhiều, nhưng đã được đề cập đến trong một số bài viết cụ thể. Tuy nhiên, để nghiên cứu vấn đề này, cần phải xem xét mọi khía cạnh, mọi góc độ của quan điểm cho rằng cá nhân, các công ty xuyên quốc gia, công ty đa quốc gia là chủ thể của Luật Quốc tế. Bởi vì đã là chủ thể của quan hệ pháp luật quốc tế thì sẽ có quyền năng chủ thể. Quyền năng chủ thể của tổ chức quốc tế không phải dựa trên cơ sở của “những thuộc tính tự nhiên” như các loại chủ thể có chủ quyền. Mà nó dựa trên thực chất của quyền năng chủ thể Luật Quốc tế, phát sinh và tồn tại trên cơ sở các văn bản pháp lý quốc tế thiết lập nên tổ chức quốc tế đó. Do đó, một số tác giả vẫn không đồng tình với quan điểm coi các thực thể này là chủ thể của Luật Quốc tế.

2. VÍ DỤ ĐIỂN HÌNH:
 
Trung Quốc bắt giữ ngư dân Việt Nam

Tranh chấp về chủ quyền biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc diễn ra ngày càng gay gắt. Như chúng ta đã biết, Trung Quốc đã chiếm hoàn toàn quần đảo Hoàng Sa từ năm 1974 và mới đây, bằng hành động ban hành cấm đánh bắt cá từ ngày 16/5/2008 đến 1/8/2008 thì Trung Quốc như càng muốn khẳng định chủ quyền của  mình đối với quần đảo có đầy lợi thế về mặt kinh tế lẫn mặt chính trị này.

Chính vì vậy, 21/6/2009 lực lượng tuần tra Trung Quốc đã bắt ba tàu cá gồm 37 ngư dân tỉnh Quảng Ngãi Việt Nam, khi họ đang hành nghề đánh cá bình thường tại khu vực vùng biển thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Sau đó, 1/8/2009, 13 ngư dân Việt Nam khác vào tránh bão tại Hoàng Sa cũng bị Trung Quốc bắt giữ.

Ngày 21/3/2010, một thuyền cá của ông Tiêu Viết Là bị Trung Quốc bắt giữ khi đang đánh bắt ở gần quần đảo Hoàng Sa. Phía Trung Quốc đã buộc ông Là gọi điện về nhà, đòi gửi tiền chuộc thì mới trả tự do cho ông và các thuyền viên. Họ cũng giải thích ông bị bắt và phải nộp phạt vì "xâm phạm lãnh hải" Trung Quốc.

Gia đình ông Tiêu Viết Là thì cho hay đây là lần thứ hai tàu của ông bị bắt khi hoạt động tại khu vực gần Hoàng Sa. Được biết số tiền chuộc Trung Quốc đòi hỏi là khoảng 180 triệu đồng, được cho là "quá lớn" so với hoàn cảnh tài chính eo hẹp của gia đình ông. Chính quyền sở tại và cơ quan biên phòng đã có báo cáo, kiến nghị lên Bộ Ngoại giao Việt Nam yêu cầu can thiệp.

Quan điểm chính thức của phía Việt Nam là không nộp tiền phạt, vì điều đ́ó đồng nghĩa với thừa nhận chủ quyền và quyền chủ quyền của Trung Quốc tại các vùng tranh chấp ở Biển Đông. [5]

Các cuộc tranh chấp như thế này thì những ngư dân Việt Nam không thể tự mình giải quyết cũng như tự đứng ra để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình được mà đều phải thông qua các cơ quan có thẩm quyền (thường là Bộ ngoại giao) giải quyết bằng con đường ngoại giao. Điều đó cho chúng ta thấy rằng, trong các vụ tranh chấp về biển - tranh chấp quốc tế, thì mặc dù là người trực tiếp liên quan đến vụ việc nhưng bản thân cá nhân các ngư dân không thể tham gia vào quan hệ pháp lý quốc tế này cũng như không thể có ý chí độc lập mà phải phụ thuộc vào các chủ thể khác. Mà những điều kiện trên đều là những dấu hiệu cơ bản , đặc trưng của chủ thể của luật quốc tế. Vì vậy, qua ví dụ trên phần nào chúng ta đã biết được cá nhân khó có thể trở thành chủ thể của Luật Quốc tế.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về Luật Quốc tế.
2. Giáo trình Luật Quốc tế - Đại học luật Hà Nội.
3. Hiến chương Liên Hiệp quốc.
5. Các tổ chức phi chính phủ - bộ ngoại giao việt nam.
6. Cá nhân, chủ thể của Luật Quốc tế, Nguyễn Đức Lam.
7. Công ty xuyên quốc gia – chủ thể quan hệ quốc tế, Hoàng Khắc Nam.

[1] Brownlee A. Luật quốc tế. M. 1977. tr 117.
[2] Ví dụ, Liên Hợp Quốc đã lập ra một Trung tâm về các tập đoàn xuyên quốc gia. Trung tâm này đã đề ra “Những nguyên tắc ứng xử” nhằm hạn chế các hành động quá trớn của pháp nhân, tổ chức phi chính phủ. Tuy nhiên, nhiều khi các pháp nhân, tổ chức phi chính phủ đã không tuân theo nguyên tắc này mà họ thường đi tìm những thoả thuận riêng với nước sở tại.
[3] Nguồn:  http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com
[4] ĐHKHXH và NV, ĐHQG Hà Nội
[5] Nguồn: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/

No comments:

Post a Comment