Bài tập học kỳ Luật Dân sự 2.
Ngày nay cùng với sự phát triển của kinh tế,trong xã hội xuất hiện những người có của cái dư thừa,thừa thãi,nhàn rỗi,chưa quyết định được đầu tư được vào đâu,lại có những người không có đủ tiềm lực về tài sản để đáp ứng nhu cầu sử dụng.Đó là lúc hợp đồng cho vay ra đời,nó đã khắc phục phần nào khó khăn tạm thời về kinh tế,đem lại lợi nhuận từ những tài sản nhàn rỗi,góp phần thúc đẩy nền kinh doanh sản xuất phát triển
BLDS 2005 đã dành hẳn một mục để qui định về hợp đồng vay tài sản,chứng tỏ nó chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế cũng như xã hội.Sau đây em xin trình bày vấn đề: “Đánh giá các quy định trong BLDS năm 2005 về hợp đồng vay tài sản (Nêu những ưu điểm, hạn chế và định hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật) ”để hiểu sâu hơn về vấn đề này
I) Cơ sở lí luận
Các qui định của pháp luật trong BLDS 2005 liên quan tới hợp đồng vay tài sản nằm (HĐVTS) ở chương XVIII mục 4,bao gồm từ điều 471 tới điều 479 theo đó:
- Định nghĩa về hợp đồng vay tài sản được qui định tại điều 471: “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên theo đó, bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên cho vay phải hoàn trả cho bên vay vật cùng loại theo đúng số lượng, đúng chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”.Nó đã thể hiển trách nhiệm và nghĩa vụ cơ bản của hai bên: ”bên vay” và “bên cho vay”.
- Thời điểm chuyển quyền sở hữu tài sản vay được qui định tại điều 472: “Bên vay trở thành chủ sở hữu tài sản vay kể từ thời điểm nhận tài sản đó.”
Kể từ thời điểm nhận tài sản, bên vay có đầy đủ các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản vay.
- Nghĩa vụ của các bên trong HĐVTS được quy định tại Điều 473 đến Điều 474 . Các qui định đặt ra các quy tắc xử sự cần thiết nhằm bảo đảm lợi ích giữa các bên như “Giao tài sản cho bên vay đầy đủ, đúng chất lượng, số lượng” (Khoản 1 Điều 473) hay “Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn, nếu là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng…” ( Khoản 1 Điều 474) Các quy định về nghĩa vụ còn điều chỉnh hành vi của các chủ thể trong một số trường hợp cụ thể chẳng hạn “tài sản vay không bảo đảm chất lượng” (Khoản 2 Điều 473) ; trường hợp “bên vay không thể trả bằng hiện vật” (Khoản 2 Điều 474) ; quy định về “lãi” trong các hợp đồng vay có kỳ hạn “có lãi” và “ không lãi”(Khoản 4,5 Điều 474) …
Hợp đồng vay tài sản thể hiện tính chất tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa bên cho vay với bên vay trong những lúc khó khăn về vật chất hoặc thiếu vốn để đầu tư, kinh doanh.
- Bên cho vay có quyền được hưởng các lợi ích vật chất từ HĐVTS,nếu có thỏa thuận hoặc được pháp luật qui định,được qui định tại 1 số điểm ở điều 474,476,478:
Khoản 4 điều 474: ” 4. Trong trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi đối với khoản nợ chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn chậm trả tại thời điểm trả nợ, nếu có thoả thuận”,điều kiện để áp dụng điều khoản là phải có thỏa thuận trước trong hợp đòng.Khoản 1 Điều 476: “Lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng” .Như vậy, các hành vi cho vay vượt quá mức lãi suất nêu trên đều được điều chỉnh về lãi suất theo quy định của pháp luật, ngoài ra hành vi “cho vay nặng lãi” còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự…….
II.ĐÁNH GIÁ CÁC QUY ĐỊNH TRONG BLDS NĂM 2005 VỀ HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN.
1. Khái niệm,hình thức hợp đồng vay tài sản.
Hợp đồng vay tài sản là loại hợp đồng dân sự thông dụng, phổ biến trong xã hội để giải quyết khó khăn tạm thời về kinh tế,đặc biệt với những gia đình túng thiếu cần vốn để sản xuất,kinh doanh,phải vay mượn tiền,vàng của người khác .Pháp luật dân sự qui định rõ về khái niệm HĐVTS tại điều 471 BLDS 2005:
“Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên theo đó, bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên cho vay phải hoàn trả cho bên vay vật cùng loại theo đúng số lượng, đúng chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”
Có thể nhận thấy rằng hợp đồng dân sự được hình thành dựa trên sự thỏa thuận của hai bên củ thể, bên cho vay có nghĩa vụ “Giao tài sản”; bên vay có nghĩa vụ “hoàn trả vật cùng loại theo đúng số lượng, đúng chất lượng”. Nó đã thể hiện được rõ bản chất của hợp đồng vay là việc chuyển quyền sở hữu giữa hai bên chủ thể. Khác với hợp đồng mua bán, trong HĐVTS, sau khi chuyển giao tài sản một bên có nghĩa vụ phải hoàn trả cho bên kia một tài sản khác bằng đúng giá trị của tài sản mà 2 bên đã chuyển giao cho nhau trước đó. HĐVTS đề cao nguyên tắc tự thỏa thuận giữa các bên, theo đó, các bên có thể thỏa thuận về hiệu lực của hợp đồng, từ đó xác định đặc điểm của hợp đồng trong từng trường hợp cụ thể: nếu thỏa thuận việc phát sinh hiệu lực từ thời điểm giao kết, hợp đồng đó mang đặc điểm là hợp đồng song vụ và hợp đồng thực tế; nếu hiệu lực của hợp đồng chỉ phát sinh khi hai bên chuyển giao tài sản vay, hợp đồng đó mang đặc điểm của hợp đồng đơn vụ và hợp đồng thực tế. Ngoài ra, yếu tố tự thỏa thuận còn được thể hiện ở việc trả lãi trong hợp đồng vay “bên vay chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định” theo đó các bên có thể thỏa thuận về việc áp dụng trả lãi, lãi suất hay thời điểm trả. Nếu có thỏa thuận về việc trả lãi, hợp đồng đó được xác định là hợp đồng có đền bù,nếu không nó là hợp đồng không có đền bù
- Ưu điểm:
+) Định nghĩa đã nêu rõ được đối tượng của hợp đồng vay là tài sản. Tài sản theo quy định tại Điều 163 bao gồm “Tiền, vật, giấy tờ có giá và các quyền tài sản khác”. Trong đó, quyền tài sản không được xác định là đối tượng của hợp đồng vay vì mang đặc tính của tài sản vô hình. Tiền là đối tượng phổ biến trong hợp đồng vay tài sản và tiền cần phải đáp ứng được điều kiện “Do Ngân hàng Nhà nước phát hành và đang có giá trị lưu thông”, trong trường hợp vay ngoại tệ thì phải đáp ứng điều kiện một trong hai bên phải có giấy phép được lưu thông tiền tệ. Nếu đối tượng của tài sản là vật thì phải là vật cùng loại, vật đã có hoặc sẽ có trong tương lai như vàng, thóc, gạo,… bên vay có nghĩa vụ hoàn lại vật cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng nên vật đặc định không được xác định là đối tượng của hợp đồng vay.
+) Hình thức của hợp đồng vay, khác với BLDS năm 1995, BLDS năm 2005 đã hủy bỏ quy định về hình thức của hợp đồng vay. Hợp đồng vay tài sản có thể được lập dưới hình thức miệng hoặc văn bản. Hợp đồng cũng có thể lập dưới hình thức văn bản có công chứng, chứng thực nếu các bên có yêu cầu. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao kết hợp đồng được diễn ra thuận tiện, nhanh chóng nhất là đối với hợp đồng vay có giá trị tài sản nhỏ hoặc hợp đồng được lập dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau giữa các bên.Tuy nhiên nó cũng kèm theo mặt hạn chế trong tranh chấp,xét xử sẽ được nêu ở phần dưới
- Hạn chế:
+) Theo định nghĩa tiền tệ của Luật Ngân hàng nhà nước thì tiền bao gồm tiền giấy, tiền kim loại và các giấy tờ có giá trị như tiền .Như vậy, bên cạnh đối tượng vay phổ biến là đồng nội tệ (VND) ngân phiếu, cổ phiếu, trái phiếu… cũng có thể là đối tượng của HĐVTS. Và có một vấn đề đặt ra, ngoại tệ có được xem là đối tượng của HĐVTS? Điều này có được đề cập ở Thông tư số 01/1999/TT- NHNN: ” Trên lãnh thổ Việt Nam, nghiêm cấm người cư trú, người không cư trú là tổ chức, cá nhân mua bán, thanh toán, cho vay với nhau bằng ngoại tệ và niêm yết giá hàng hoá, dịch vụ bằng ngoại tệ trừ trường hợp được phép quy định trong Thông tư này”. Nhà nước ban hành những quy định nhằm hạn chế việc sử dụng ngoại tệ trong các giao dịch, nhưng thực tế nó vẫn diễn ra và diễn ra khá phổ biến. Thậm chí ở nước ta, người dân ít tiếp xúc với văn bản luật, nếu có tiếp xúc thì thường là các bộ luật, luật, còn các văn bản dưới luật (văn bản hướng dẫn thi hành luật) thì ít ai biết đến.Như vậy cần có một sự cụ thể hóa vào trong BLDS. Bên cạnh đó,các đối tượng là vàng, kim khí quý, đá quý, không nên để nó bao gồm trong đối tượng là vật. Bởi vàng, kim khí quý, đá quý là những tài sản có giá trị đặc biệt, đối với vàng tiêu chuẩn quốc tế theo quy định của pháp luật ngân hàng nó còn là ngoại hối và được quản lý theo quy chế giống như là ngoại tệ. Do đó, việc đánh đồng các loại tài sản nêu trên có thể dẫn đến việc pháp luật không được giải thích rõ, ảnh hưởng đến việc tuân thủ pháp luật trên thực tế mà ở đây là hợp đồng vay tài sản.
+) Hình thức của hợp đồng, theo thực tế xét xử cho thấy, các HĐVTS giao kết bằng lời nói nhiều hơn các hợp đồng giao kết bằng văn bản. Đối với những HĐVTS giao kết bằng lời nói nếu không có bên thứ ba làm chứng, đã tạo rất nhiều khó khăn cho thẩm phán trong quá trình điều tra, thu thập chứng cứ để giải quyết tranh chấp.” Do đó, việc để các bên tự thỏa thuận về hình thức của hợp đồng, đặc biệt đối với hợp đồng miệng có thể làm bắt nguồn các hành vi vi phạm hợp đồng như vi phạm nghĩa vụ trả nợ, trả lãi… đồng thời gây khó khăn trong công tác giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng vay tài sản.
- Định hướng hoàn thiện:
+) Khi quy định về đối tượng của HĐVTS, không nên đánh đồng những tài sản có giá trị đặc biệt, ngoại tệ, vàng, kim khí đá quý với vật thông thường mà cần thiết phải tách bạch chúng thành một khoản riêng mang tính hướng dẫn, giải thích, từ đó mới điều kiện cho việc hiểu và thi hành pháp luật. Cũng cần nói thêm, việc tách vàng thành một đối tượng đặc biệt trong HĐVTS cũng góp phần tạo cơ sở cho việc xây dựng cách tính lãi khi vay vàng – vấn đề mà bấy lâu, BLDS vẫn còn đang bỏ ngỏ.
+) BLDS 2005 không nên hủy bỏ mà cần quy định chi tiết hơn về hình thức của HĐVTS để tạo điều kiện thuận lợi cho Toà án có cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐVTS; đồng thời đảm bảo được quyền lợi hợp pháp của các bên, bên vay không còn lý do để từ chối việc vay mượn của mình, còn bên cho vay không thể ép buộc bên vay hoặc lợi dụng giấy tờ vay nợ không rõ ràng để đi đòi nợ; theo hướng: với giá trị tài sản bao nhiêu thì HĐVTS phải được lập thành văn bản
2. Nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng vay tài sản.
a. Nghĩa vụ của bên cho vay.
Để đảm bảo bên vay thực hiện các quyền của chủ sở hữu đối với tài sản vay đòi hỏi bên cho vay phải thực hiện một số nghĩa vụ nhất định được qui định tại điều 473 BLDS 2005:
“Bên cho vay có các nghĩa vụ sau đây:
1. Giao tài sản cho bên vay đầy đủ, đúng chất lượng, số lượng vào thời điểm, địa điểm đã thỏa thuận;
2. Bồi thường thiệt hại cho bên vay nếu bên cho vay biết tài sản không bảo đảm chất lượng mà không báo cho bên vay biết, trừ trường hợp bên vay biết mà vẫn nhận tài sản đó;
3. Không được yêu cầu bên vay trả lại tài sản trước thời hạn, trừ trường hợp quy định tại điều 478 của Bộ luật này.”
- Ưu điểm
+) Pháp luật quy định rõ bên cho vay phải thực hiện những nghĩa vụ trên nhằm đảm bảo các quyền của bên cho vay đối với tài sản vay được hiện thực hóa, hướng tới mục đích đã định sẵn. Là những điều khoản cơ bản của HĐVTS, nghĩa vụ của bên cho vay phải đảm bảo về việc giao vật đúng như đã thỏa thuận về số lượng, chất lượng, thời gian, địa điểm nhằm tạo điều kiện cho việc bên vay tiếp nhận tài sản, tài sản được sử dụng kịp thời, đúng dự tính.
+) Giúp nhằm nâng cao trách nhiệm của bên cho vay trong trường hợp phải thông báo cho bên vay về tài sản không bảo đảm chất lượng. Quy định tại khoản 3 về việc “Bên vay không được đòi lại tài sản trước thời hạn” cũng nhằm tạo điều kiện cho bên vay được sử dụng tài sản một cách lâu dài, ổn định đồng thời có thời gian chuẩn bị cho việc thực hiện nghĩa vụ hoàn trả.
Về hạn chế và định hướng hoàn thiện, quy định về “nghĩa vụ của bên cho vay” chưa được chi tiết, dễ dẫn đến hiểu, giải thích sai luật. Trong trường hợp bên cho vay “biết tài sản không bảo đảm chất lượng mà không thông báo cho bên vay biết”, luật có quy định bên cho vay phải bồi thường thiệt hại, tuy nhiên một trong những điều kiện để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại là phải có thiệt hại thực tế xảy ra, do đó cần thiết đưa vào điều khoản này về sự kiện “… gây thiệt hại cho bên vay”, từ đó mới phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại. VD: Ông A có vay một lượng thuốc trừ sâu của ông B để phun cho ruộng nhà mình, mặc dù biết lượng thuốc trừ sâu đó để lâu ngày, bị cô đặc lại, nhưng ông B không hề thông báo cho ông A, hậu quả làm ông A sử dụng thuốc quá liều lượng, diện tích lúa mà ông phun bị cháy lá, gây thiệt hại lớn đến năng suất mùa vụ. Khi đó cần xác định ông B phải có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho ông A . Tại khoản 3 Điều 473 về các trường hợp “được đòi tài sản vay trước kỳ hạn” ngoài trường hợp “được bên vay đồng ý” tại điều 478 đã được quy định, cần bổ sung trường hợp quy định tại điều 475, bởi lẽ việc “bên vay sử dụng tài sản vay sai mục đích mặc dù đã được nhắc nhở” cũng là căn cứ để bên cho vay có quyền đòi lại tài sản vay.
b. Nghĩa vụ của bên vay
Sau khi hết hạn của hợp đồng,bên vay phải tự giác thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình phát sinh từ hợp đồng đã ký kết,được qui định tại điều 474 BLDS 2005:
“1. Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
2. Trong trường hợp bên vay không thể trả vật thì có thể trả bằng tiền theo trị giá của vật đã vay tại địa điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng ý.
3. Địa điểm trả nợ là nơi cư trú hoặc nơi đặt trụ sở của bên cho vay, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
4. Trong trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi đối với khoản nợ chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn chậm trả tại thời điểm trả nợ, nếu có thoả thuận.
5. Trong trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi trên nợ gốc và lãi nợ quá hạn theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ.”
- Ưu điểm
+) Nghĩa vụ của bên vay tài sản được xác định rõ ràng“phải trả vật đúng thời hạn,cùng loại, đúng số lượng, chất lượng”.
+) Tại khoản 2: “Trong trường hợp bên vay không thể trả vật thì có thể trả bằng tiền theo trị giá của vật đã vay tại địa điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng ý” đã chỉ ra hướng giải quyết linh hoạt, hợp lý đồng thời vẫn tôn trọng yếu tố tự thỏa thuận giữa các bên. Ngoài ra quy định tại Khoản 3 Điều 474 cũng tạo ra sự thống nhất về địa điểm thực hiện nghĩa vụ đã được quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 284: nếu không có thỏa thuận thì địa điểm được xác định là “nơi cư trú hoặc trụ sở của bên có quyền, nếu đối tượng của nghĩa vụ không phải là bất động sản”. Tại khoản 3 và 4 Điều 474 đã quy định về nghĩa vụ trả lãi quá hạn trong trường hợp khi đến hạn trả mà bên vay chậm thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Bằng cách quy định về lãi quá hạn, quy định này nhằm nâng cao trách nhiệm trả nợ qua đó hướng đến đảm bảo quyền lợi của bên cho vay khi hết hạn hợp đồng vay.¬¬¬¬¬
- Hạn chế và định hướng hoàn thiện:
Các quy định trên đây đã xác định rõ nghĩa vụ trả nợ của bên vay, đồng thời dự liệu các tình huống phát sinh từ đó đưa ra cách giải quyết phù hợp. Tuy nhiên, quy định tại khoản 5 Điều 475 chưa thật sự rõ ràng, nêu ra các khái niệm mới như “lãi trên nợ gốc, lãi nợ quá hạn” mà chưa có sự giải thích cụ thể, xác đáng. Điều này có thể gây khó khăn trong việc hiểu, áp dụng pháp luật vào giải quyết cách tranh chấp. Định hướng hoàn thiện quy định này sẽ được phân tích kỹ hơn tại mục sau về “lãi và lãi suất”.
2. Lãi suất và lãi trong hợp đồng vay tài sản.
Mức lãi suất được quy định tại Điều 476:
“Lãi suất do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng.”
Lãi suất trong hợp đồng vay tài sản là tỷ lệ nhất định mà bên vay phải trả thêm vào số tài sản hoặc số tiền đã vay tính theo đơn vị thời gian. Căn cứ vào lãi suất, số tiền vay và thời gian vay mà bên vay phải trả một số tiền nhất định (tiền lãi) . Số tiền này được xác định theo công thức:
Tiền lãi = Số tiền vay × thời gian vay × lãi suất
Số tiền lãi trong hạn mà bên vay phải trả được xác định dựa theo công thức trên (trừ trường hợp HĐVTS có kỳ hạn và bên vay trả tài sản vay trước kỳ hạn) . Trong trường hợp bên vay khi đến hạn trả nợ mà không trả hoặc trả không đầy đủ thì áp dụng lãi quá hạn:
“4. Trong trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi đối với khoản nợ chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn chậm trả tại thời điểm trả nợ, nếu có thoả thuận.
5. Trong trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi trên nợ gốc và lãi nợ quá hạn theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ.”(Khoản 4,5 Điều 474)
- Ưu điểm: vấn đề lãi suất và tiền lãi được đặt ra trong HĐVTS nhằm mục đích để bên cho vay được hưởng một giá trị vật chất, từ đó khuyến khích việc giao kết HĐVTS. Việc giới hạn về lãi suất cho vay “Không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản” là công cụ pháp lý quan trọng nhằm quản lý hoạt động của các tổ chức tín dụng, cân bằng lợi ích giữa các bên trong HĐVTS từ đó tạo ra thị trường tín dụng lành mạnh, tránh hiện tượng đầu cơ, cho vay nặng lãi. Quy định về “lãi quá hạn” cũng nhằm bảo vệ lợi ích của bên cho vay, nâng cao ý thức thực hiện hợp đồng của bên vay, tránh tình trạnh trì hoãn, chậm trễ nghĩa vụ trả nợ.
- Hạn chế và định hướng hoàn thiện.
+) Khoản 1, điều 476 chưa quy định rõ về hậu quả pháp lý khi các bên thỏa thuận lãi suất vượt quá “150% lãi suất cơ bản”. Dẫn đến việc áp dụng không được thống nhất, có quan điểm cho rằng vấn đề vi phạm về lãi suất chỉ làm vô hiệu một phần của hợp đồng, khi có tranh chấp xảy ra, tòa chỉ chấp nhận mức lãi suất bằng với lãi suất cơ bản của NHNN. Mặt khác, cũng có ý kiến cho rằng đây là hành vi trái pháp luật, theo điều 122 BLDS thì HĐVTS này vô hiệu toàn bộ, do đó trở thành hợp đồng vay không có lãi. Như vây, vấn đề cần đặt ra là phải quy định rõ ràng hơn, nhằm thống nhất một cách hiểu duy nhất về hậu quả phát sinh trong trường hợp có sai phạm về lãi suất.
+) Khoản 5 Điều 474 có thể hiểu trong HĐVTS theo kỳ hạn có lãi, ngoài lãi suất trong hạn do các bên thỏa thuận còn xuất hiện lãi suất quá hạn bằng với lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định. Theo đó, số tiền lãi phải trả bằng:
Tiền lãi = gốc × lãi suất(thỏa thuận) × thời hạn + gốc × lãi suất cơ bản (do NHNN quy định) × thời gian chậm trả
Quy định trên đã giải quyết được lãi suất quá hạn trong trường hợp bên vay chậm thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Tuy nhiên, nếu như lãi suất thỏa thuận lớn hơn lãi suất cơ bản và không vượt quá 150% lãi suất cơ bản thì cách tính như trên chưa thực sự hợp lý, bởi lẽ bên vay hoàn toàn có động cơ để kéo dài thời gian vay khi chỉ phải trả số tiền lãi quá hạn nhỏ hơn so với lãi trong hạn. BLDS 2005 nên thêm quy định “Nếu mức lãi suất không vượt quá 150% mức lãi suấ cơ bản thì toà án buộc bên vay phải trả lãi theo đúng mức lãi suất mà hai bên đã thoả thuận tại thời điểm này.”
Cũng theo quy định tại khoản 5 Điều 474, nhận thấy lãi chậm trả được tính theo “lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay…”, quy định như vậy dễ dẫn đến cách hiểu về thời hạn vay là khoảng thời gian do các bên thoả thuận hoặc pháp luật quy định, mà trong khoảng thời gian đó, bên vay được quyền sở hữu tài sản của bên cho vay. Cách hiểu này là bất hợp lý, bởi lẽ nếu tính lãi suất nợ quá hạn thì phải tính theo thời gian chậm trả chứ không được tính trên thời hạn vay. Vì những lý do trên, kiến nghị nên sửa lại Khoản 5 Điều 474 như sau: “Trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ, thì bên vay phải trả lãi trên nợ gốc tương ứng với thời hạn chậm trả tại thời điểm trả nợ, trừ trường hợp có thoả thuận khác.”
3. Kỳ hạn của hợp đồng vay.
Hợp đồng vay có thể có kỳ hạn hoặc không có kỳ hạn. Dựa theo sự thỏa thuận về kỳ hạn, pháp luật lại quy định khác nhau về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng:
a. Hợp đồng vay không kỳ hạn.
Theo Điều 477 về “Thực hiện hợp đồng vay không kỳ hạn
1. Đối với hợp đồng vay không kỳ hạn và không có lãi thì bên cho vay có quyền đòi lại tài sản vay và bên vay cũng có quyền trả nợ vào bất cứ lúc nào, nhưng phải báo cho nhau biết trước một thời gian hợp lý nếu không có thỏa thuận khác.
2. Đối với hợp đồng vay không kỳ hạn và có lãi thì bên cho vay có quyền đòi lại tài sản bất cứ lúc nào nhưng phải báo trước cho bên vay một thời gian hợp lý và được trả lãi đến thời điểm nhận lại tài sản, còn bên vay cũng có quyền trả lại tài sản bất cứ lúc nào và chỉ phải trả lãi cho đến thời điểm trả nợ, nhưng cũng phải báo trước cho bên vay một thời gian hợp lý”
- Ưu điểm
- Quy định này phù hợp với ý chí của các bên khi giao kết hợp đồng vay không kỳ hạn. Trong trường hợp một người có tài sản nhàn rỗi, chưa xác định thời điểm sử dụng, đầu tư thì có thể cho người khác vay số tài sản đó, đến khi có nhu cầu sử dụng, bên cho vay hoàn toàn có quyền đòi lại tài sản. Về phương diện của người vay tài sản, quy định về “thực hiện hợp đồng vay không kỳ hạn” cũng tạo điều kiện cho bên vay linh hoạt trong việc trả nợ, không chịu gò bó về mặt thời gian, và chỉ phải trả lãi cho đến thời điểm trả nợ nếu như có thỏa thuận về lãi. Ngoài ra, quy định về thủ tục “phải thông báo trước một thời gian hợp lý” cũng nhằm để cho các bên có thời gian chuẩn bị để thực hiện nghĩa vụ trả nợ (hoặc tiếp nhận tài sản) của mình.
- Hạn chế và định hướng hoàn thiện: quy định về “thực hiện hợp đồng vay không kỳ hạn” dù đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện nghĩa vụ của các bên, tuy nhiên vẫn bộc lộ nhiều điểm bất cập, chưa hợp lý. Chẳng hạn, bên cho vay có thể lợi dụng quyền đòi nợ “bất cứ lúc nào” của mình để yêu cầu bên vay phải thực hiện nghĩa vụ, mặc dù bên vay chưa đạt được mục đích của việc vay tài sản
b. Hợp đồng vay có kỳ hạn.
Theo Điều 478 về “Thực hiện hợp đồng vay có kỳ hạn
1. Đối với hợp đồng vay có kỳ hạn và không có lãi thì bên vay có quyền trả lại tài sản bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước cho bên cho vay một thời gian hợp lý, còn bên cho vay chỉ được đòi lại tài sản trước kỳ hạn, nếu được bên vay đồng ý.
2. Đối với hợp đồng vay có kỳ hạn và có lãi thì bên vay có quyền trả lại tài sản trước kỳ hạn, nhưng phải trả toàn bộ lãi theo kỳ hạn, nếu không có thoả thuận khác.”
Về ưu điểm, giống như hợp đồng vay không kỳ hạn, bên vay đều có “quyền trả lại tài sản bất cứ lúc nào”, tuy nhiên, trong hợp đồng vay có kỳ hạn, có lãi, nếu như bên vay trả trước kỳ hạn thì số lãi mà họ phải trả được xác định là “toàn bộ lãi theo kỳ hạn, nếu không có thỏa thuận khác”. Quy định này phù hợp với tâm lý của bên cho vay, khi mà tài sản vay được mang ra giao dịch, được bên vay xác định nhằm mục đích thu lại khoản giá trị tăng lên từ tiền lãi mang lại. Ngoài ra, quy định về việc bên vay có quyền “đòi lại tài sản trước kỳ hạn, nếu được bên vay đồng ý” cũng mang tính hợp lý nhằm đề cao nguyên tắc tự nguyện của các bên trong HĐVTS.
4. Hụi, họ, biêu, phường.
Điều 479 có qui định: “Họ, hụi, biêu, phường (gọi chung là họ) là một hình thức giao dịch về tài sản theo tập quán trên cơ sở thỏa thuận của một nhóm người cùng tập hợp nhau lại cùng định ra số người, thời gian, số tiền, hoặc tài sản khác, thể thức góp, lĩnh họ và quyền, nghĩa vụ của các thành viên”
Với sự ra đời của BLDS năm 2005, lần đầu tiên “Họ, hụi, biêu, phường” được quy định trong một điều luật mang bản chất của HĐVTS, và được cụ thể hóa trong Nghị định 144/2006/NĐ – CP về Họ hụi, biêu phường. Những quy định này đã tạo cơ sở pháp lý cho hình thức chơi họ vốn đã tồn tại từ lâu trong đời sống nhân dân. Đông thời, cũng khuyến khích những hình thức chơi họ có tính chất lành mạnh, qua đó nhằm hướng đến mục đích tương trợ lẫn nhau trong nhân dân ta.
Kết Luận
Không chỉ trong các qui định về hợp đồng vay tài sản mà trong các qui định khác của BLDS 2005 Việt Nam hay bất kì bộ luật nào khác,đều có những bất cập tồn tại cần được hoàn thiện.Đây là một vấn đề hết sức thực tế với nhà làm luật.Họ nên theo sát thực tiễn pháp luật trong cuộc sống để rút ra được những hướng đổi mới sửa đổi,cho phù hợp.
No comments:
Post a Comment