14/03/2015
Tội sản xuất, buôn bán hàng giả lý luận và thực tiễn tội phạm nay tại địa bàn Hà Nội
Khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành Luật đề tài: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả lý luận và thực tiễn tội phạm nay tại địa bàn Hà Nội.

LỜI NÓI ĐẦU


Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta đã được đề ra từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ sáu năm 1986 trong hơn 20 năm qua nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn như : chính trị ổn định, kinh tế tăng trưởng cao, trật tự an ninh xã hội được giữ vững, tỷ lệ xóa mù chữ là cao nhât thế giới….mặc dù bước đầu đã gặp không ít chông gai. Hiện nay trong mắt bạn bè thế giới Việt Nam đã trở thành đối tác đáng tin cậy. Để đưa đất nước tiến lên CNXH thì vấn đề phát triển kinh tế có ý nghĩa then chốt, quyêt định. Với mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, chúng ta đang phải đương  đầu với rất nhiều những khó khăn thử thách rất lớn. Tình hình tội phạm kinh tế trong giai đoạn hiện nay đang ngày càng gia tăng, tinh vi và phức tạp, trong đó tội sản xuât, buôn bán hàng giả đang có chiều hướng gia tăng và diễn biến phức tạp. 


Theo đánh giá của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) tổng giá trị hàng giả được mua bán hàng năm trên thế giới khoảng 500 tỷ Euro gấp đôi ngân sách nước Đức. Hiện nay hàng giả chiếm lĩnh 1/10 thương mại thế giới, trong đó các loại hàng được làm giả nhiều nhất có: cứ 3 chiếc đĩa CD thì có 1 chiếc được sao chép trái phép; các mặt hàng như: quần áo, phụ kiện may mặc, mỹ phẩm và nước hoa chiếm khoảng 1/3 tổng số hàng giả thế giới, phần mềm máy tính là 35%, video, DVD và CD là 25%. Đồng hồ Thụy Sỹ giả mạo được bán nhiều hơn hàng thật: 40 triệu chiếc giả so với 26 triệu chiếc đồng hồ thật. Ta có thể thấy hàng giả đang lan tran khắp mọi nơi và trở thành vấn nạn của các quôc gia, Việt Nam chúng ta cũng phải đối mặt với vấn nạn này, đặc biệt là Hà Nội. Nạn hàng giả này không chỉ gây ra những thiêt hại to lớn về kinh tế, làm tổn hại về vật chất, mất uy tín quốc gia, nhà sản xuất, người tiêu dùng mà tai hại hơn nó còn có thể gây ra những thiêt hại về sức khỏe, tính mạng của con người. Từ thực tế này đòi hỏi phải có những biệm pháp để ngăn chăn đẩy lùi nạn hàng giả, trong đó pháp luật hình sự là một biện pháp hữu hiệu. Do đó vấn đề nghiên cứu khoa học, phân tích, đưa ra quan điểm, giai pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự cũng như nâng cao hiệu quả của hoạt động xét xử đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả trong giai đoạn hiện nay.Chính vì vậy, chúng tôi chọn đề tài : “Tội sản xuất, buôn bán hàng giả lý luân và thực tiễn tội phạm nay tại địa bàn Hà Nội” để làm khóa luận tốt nghiệp.

Mục đích của khóa luân là nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định về tôi sản xuất, buôn bán hàng giả theo BLHS năm 1999, từ đó đối chiếu quy định pháp luật với thực tiễm xết xử để tìm ra những bất cập, vướng mắc, qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của tội sản xuất, buôn bán hàng giả.

Nhiệm vụ của đề tài lai khái quát lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam về tội sản xuất, buôn bán hàng giả; nghiên cứu quy định của Điều 156,157,158 BLHS năm 1999 để thấy những tiến bộ, hạn chế cần khấc phục, sửa chữa; tìm hiểu thực tiễn xét xử, đưa ra giải pháp để nâng cao hiệu quả của hoat động này đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả.

Đối tượng nghiên cứu của đố tài là quy định của BLHS năm 1999 về tội sản xuất, buôn bán hàng giả, thực tiễn xét xử tội phạm này trên địa bàn Hà Nội  những năm gần đây.

Phạm vi của đố tài là tội sản xuất, buôn bán hàng giả dưới góc độ luật hình sự trong khoảng thời gian từ 2003 đến nay.

Phương pháp nghiên cứu được sử dung trong khóa luận bao gồm: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, lịch sử, thống kê….dựa trên nền tảng Chủ nghĩa Mác-Lênin.

Ngoài phần lời nói đầu và kết luận, thì khóa luận này có kết cấu như sau:

Chương một: Lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tội sản xuất, buôn bán hàng  giả.                                                   
Chương hai  : Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo BLHS năm 1999.
Chương ba   : Thực tiễn xét xử tội sản xuất, buôn bán hàng giả trên địa bàn Hà Nội.

CHƯƠNG MỘT

Lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam quy định về tội sản xuất, buôn bán hàng giả

Bước vào những năm đầu thỊ kû 21, nước ta đang ngày càng tiến sâu hơn vào quá trình hội nhập toàn diện với quốc tế và khu vực. Trước những tác động và yêu cầu của quá trình hội nhập, đất nước ta đã có những thay đổi lớn về mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó sự thay đổi trong kinh tế là lớn nhất và quan trọng nhất. Để quản lý “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước. Bên cạnh những chính sách nhằm phát triển kinh tế thì pháp luật hình sự về các tội phạm xâm hại đến trật tự quản lý kinh tế cũng phải ra đời và phù hợp, linh hoạt, chặt chẽ hơn. Chương XVI – bộ luật hình sự 1999 quy định “Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế” đã đáp ứng phần nào những đòi hỏi này. Trong 29 điều luật (từ điều 153 đến điều 181) thì tội sản xuất, buôn bán hàng giả được quy định tại Điều 156,157,158 nhằm đấu tranh chống nạn hàng giả và buôn bán hàng giả nói riêng và tội phạm kinh tế nói chung. Trong lịch sử lập pháp hình sự nước ta, tội sản xuất, buôn bán hàng giả cũng đã được quy định và có sự trừng trị rất nghiêm khắc. Có thể khái quát như sau:

1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi có BLHS năm 1985.

Ngày 2/9/1945, Bác Hồ đọc “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà - “Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á”. Nhà nước và bộ máy của nó vừa mới được thành lập đã phải đương đầu với bao khó khăn và thử thách: “giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm”… Để bảo vệ thành quả của cách mạng, bảo vệ quyền và lợi ích của giai cấp mình, nhiệm vụ quan trọng và hàng đầu của Nhà nước ta là giữ vững an ninh quốc gia, ổn định kinh tế đảm bảo đời sống của người dân. Nhiều chính sách luật được ra đời (sắc luật) nhưng chưa thể cho ra đời một chính sách luật hình sự được pháp điểm hoá do hoàn cảnh chưa cho phép. Trong khoảng thời gian từ năm 1945 đến năm 1975, đất nước ta liên tục có chiến tranh, cả nước tập trung toàn bộ sinh lực vào cuộc chiến đấu các văn bản pháp luật mang tính hình sự ra đời cũng chỉ tập trung vào việc quy định các tội liên quan đến cuộc chiến: như tội phản cách mạng, tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa; các tội về kinh tế thì là các tội đầu cơ; buôn bán hàng cấm… có ảnh hưởng nhiều đến cuộc đấu tranh. Tội sản xuất, buôn bán hàng giả trong giai đoạn này không hề được quy định trong một văn bản pháp luật mang tính hình sự nào do hàng giả gây ra được tác hại lớn nào đến đời sống nhân dân, việc sản xuất hàng hoá chỉ tập trung cho cuộc chiến đấu và nhu cầu của người dân cũng được phần nào đáp ứng đủ, bởi vậy hàng giả hầu như không có cơ hội phát triển. Năm 1975, đất nước hoàn toàn giải phóng, nền kinh tế đất nước sau chiến tranh hết sức nghèo nàn, lạc hậu; bọn tư sản mại bản được tiếp tay bởi tư sản nước ngoài không ngừng gây rối loạn thị trường, trong đó nạn hàng giả cũng là một nguyên nhân gây ra sự rối loạn đó. Nhằm ổn định thị trường, thắt chặt sự quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế, Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hoà miền Nam Việt Nam ban hành sắc luật số 03.SL ngày 15/3/1976 quy định về tội phạm và hình phạt. Tội sản xuất hàng giả là một trong các tội kinh tế.

“Điều 6. Tội kinh tế.

Tội kinh tế là tội gây thiệt hại về tài chính cho Nhà nước, cho Hợp tác xã hoặc cho tập thể nhân dân, gây trở ngại cho việc khôi phục và phát triển sản xuất, cho việc ổn định và cải thiện đời sống của nhân dân, gồm các tội:
- Sản xuất hàng giả cố ý lừa gạt người tiêu thụ;
- Kinh doanh trái phép, cố ý trốn tránh quy định của Nhà nước;
- Làm bạc giả, hoặc tiêu thụ bạc giả;

Phạm một trong các tội trên đây, thì bị phạt tê từ sáu tháng đến năm năm và phạt tiền đến năm mươi nghìn đồng Ngân hàng hoặc một trong hai hình phạt đó. Trường hợp nghiêm trọng, thì bị phạt tê đến hai mươi năm, tê chung thân hoặc xử tử hình và bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. 

Việc quy định tội sản xuất hàng giả trong sắc lệnh 03.SL đã đáp ứng được  yêu cầu đấu tranh chống tội phạm về hàng giả trong tội phạm kinh tế. Qua đó thể hiện được tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội sản xuất hàng giả và thái độ của Nhà nước đối với tội phạm này là rất nghiêm khắc. Nhưng sắc luật số 03.SL bên cạnh những ý nghĩa tích cực còn bộc lộ những hạn chế nhất định và quy định tội sản xuất hàng giả cũng vậy. Sắc luật chưa thể hiện được sự phân hoá cần thiết đối với tội phạm về kinh tế nói chung và tội sản xuất hàng giả nói riêng. Điều 6 của sắc luật chỉ quy định “sản xuất hàng giả cố ý lừa gạt người tiêu thụ” mà không quy định hành vi buôn bán hàng giả cũng là tội phạm, không đưa ra các đối tượng hàng giả cụ thể như: hàng giả, hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh… mà chỉ quy định hàng giả chung chung, việc quy định như vậy là không chính xác do nếu hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh thì tính nguy hiểm của nó cao hơn hàng giả là các vật dụng thông thường khác.Về hình phạt, điều luật quy định hình phạt được áp dụng chung cho các tội phạm, việc quy định như vậy chưa cho thấy được mức độ nguy hiểm của từng loại tội phạm. cũng nh­ chế tài áp dụng đối với tội phạm đó. Nhưng sắc luật này vẫn được áp dụng chung trong cả nước từ năm 1978. Để khắc phục hạn chế của sắc luật 03.SL và phù hợp hơn với tình hình tình mới của nền kinh tế – xã hội, trên cơ sở của Hiến pháp năm 1985, pháp lệnh số 7-LCT/H§NN7 ban hành ngày 10/7/1982  - pháp lệnh trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép, đây là văn bản pháp luật đầu tiên quy định về các tội này cho đến trước khi BLHS năm 1985. “Tội làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả” quy định tại Điều 5 pháp lệnh, trong đó:

“Điều 5. Tội làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả.
1. Người nào làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả nhằm thu lợi bất chính, thì bị phạt tê từ sáu tháng đến năm năm và bị phạt tiền từ năm nghìn đồng đến năm vạn đồng;
2. Phạm tội làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh hoặc phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng quy định ở khoản 1 điều 9 pháp lệnh này thì bị phạt tê từ ba năm đến mười hai năm, bị phạt tiền đến năm trăm nghìn đồng và có thể bị tịch thu một phần tài sản;
3. Phạm tội làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả có chất độc hại hoặc các chất khác có thể nguy hiểm đến sức khoẻ, tính mạng người tiêu dùng, hoặc phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng quy định ở khoản 2 Điều 9 pháp lệnh này thì bị phạt tê từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tê chung thân, bị phạt tiền đến một triệu đồng, và có thể bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

“Tội làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả” được quy định trong pháp lệnh đã thể hiện sự thay đổi cơ bản trong trình độ lập pháp so với sắc luật số 03.SL. Tội phạm này đã được quy định trong một điều luật riêng, trong đó: hành vi buôn bán hàng giả đã được coi là tội phạm có tính nguy hiểm cho xã hội tương đương với hành vi làm hàng giả; hàng giả đã được phân định thành nhiều loại  hàng với mức độ nguy  hiểm khác nhau và chế tài áp dụng khác nhau. Tuy nhiên pháp lệnh cũng có những hạn chế nhất định, các tình tiết như “phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng quy định tại khoản 2 Điều 9 Pháp lệnh này” mà tại Điều 5 quy định hình phạt cao nhất là “tê chung thân” thì Điều 8 quy định hình phạt có thể lên tới “tử hình”. Điều này thể hiện tính không nhất quán của pháp luật đối với một hành vi phạm tội. Pháp lệnh cũng chưa phân định được tội phạm và vi phạm pháp luật khác mà phải áp dụng Nghị định 46/H§BT ngày 10/5/1983 quy định về việc xử lý bằng biện pháp hành chính các hành vi đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép. Nghị định đưa ra một số các dấu hiệu định lượng và định tính để xác định đâu là tội phạm, đâu là vi phạm pháp luật bị xử phạt hành chính đó là: “vi phạm nhỏ là vi phạm trong trường hợp giá trị hàng phạm pháp dưới hai vạn đồng, tính chất việc vi phạm không nghiêm trọng, tác hại gây ra cho sản xuất, đời sống nhân dân, trật tự và an toàn xã hội là không nhiều, người vi phạm không có tiền án, tiền sự, khi bị phát hiện không có hành động chống lại cán bộ, nhân viên làm nhiệm vụ”, nhưng Nghị định cũng quy định nếu “...hàng giả thuộc loại lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh thì bất cứ trường hợp nào cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự” do loại hàng giả này có tác động nguy hiểm  hơn so với loại hàng giả khác. Trên thực tế khi áp dụng pháp luật để xử lý một hành vi làm hoặc buôn bán hàng giả các cơ quan chức năng phải căn cứ vào cả hai văn bản pháp luật này để xác định truy cứu trách nhiệm hình sự hay xử lý bằng biện pháp hành chính phần nào gây những trở ngại nhất định, không thuận tiện. Việc ra đời một BLHS là vấn đề cần thiết để quy định cụ thể và khoa học về tội làm hàng giả, buôn bán hàng giả nói riêng và các tội phạm hình sự nói chung.

1.2. Giai đoạn từ khi BLHS năm 1985 ra đời đến khi ban hành BLHS năm 1999.

1.2.1. BLHS năm 1985 quy định về tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả.

Năm 1985, bộ luật Hình sự Việt Nam đầu tiên và cũng là Bộ luật đầu tiên của chúng ta được ban hành. Đây được coi là một mốc son trong lịch sử lập pháp của nước ta. Từ đây các tội phạm không còn quy định riêng lẻ trong các văn bản pháp luật dưới luật nữa mà được tập hợp trong một BLHS. Mỗi một tội phạm và hình phạt đối với tội đó được quy định trong một điều luật riêng và được sắp xếp vào từng nhóm tội khác nhau. Cũng như vậy, “Tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả” thuộc nhóm “các tội phạm kinh tế” quy định tại Điều 167 của Bộ luật.

“Điều 167. Tội làm  hàng giả, tội buôn bán hàng giả
1. Người nào làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả thì bị phạt tê từ sáu tháng đến 5 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây bị phạt tê từ ba năm đến mười hai năm.
a. Hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, phòng bệnh;
b. Có tổ chức;
c. Lợi dụng chức vụ quyền hạn hoặc danh nghĩa Nhà nước, tổ chức xã hội;
d. Hàng giả có số lượng lớn, thu lợi bất chính lớn;
e. Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tê từ mười năm đến hai mươi năm tê chung thân hoặc tử hình”.

Quy định trên cho thấy Điều 167-BLHS năm 1985 đã có tính kế thừa pháp lệnh số 07-LCT/H§NN7 nhưng cũng có những thay đổi có tính tiến bộ hơn: ở khoản 2 của điều luật không đưa ra, thuật ngữ “Phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng” mà thay vào đó là các trường hợp cụ thể; về  hình phạt, Điều 167 chỉ quy định một loại hình phạt là tước tự do (tê). Việc quy định hình phạt như thế này chưa thật khoa học nhưng cũng có sự tiến bộ hơn so với Điều 5 pháp lệnh.

Để giải thích thế nào là hàng giả thì Nghị định 140/H§BT ngày 25/4/1991 của Hội đồng Bộ trưởng về kiểm tra xử lý việc sản xuất buôn bán hàng giả và Thông tư liên Bộ số 1254-TTLB ngày 8/11/1991 của UBKHNN, Bộ Thương mại và du lịch hướng dẫn thực hiện Nghị định 140/H§BT đã đưa ra định nghĩa hàng giả, dấu hiệu nhận biết hàng giả và phân biệt hàng giả với hàng kém chất lượng. Trong đó: “hàng giả theo Nghị định này là những sản phẩm, hàng hoá được sản xuất ra trái pháp luật có hình dáng giống như những sản phẩm, hàng hoá được Nhà nước cho phép sản xuất, nhập khẩu và tiêu thụ trên thị trường, hoặc những sản phẩm, hàng hoá không có giá trị sử dụng đúng với nguồn gốc, bản chất tự nhiên tên gọi công dụng của nó” (Điều 3 – Nghị định 140/H§BT).

“Điều 4: Sản phẩm, hàng hoá có một trong những dấu hiệu dưới đây được coi là hàng giả.

1. Sản phẩm, hàng hoá (kể cả nhập khẩu) có nhãn sản phẩm giả mạo hoặc nhãn sản phẩm của một số cơ sở sản xuất khác mà không được chủ nhãn đồng ý;
2. Sản phẩm, hàng hoá mang nhãn hiệu hàng hoá giống hệt hoặc tương tự có khả năng làm cho người tiêu dùng nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hoá của cơ sở sản xuất, buôn bán khác đã đăng ký với cơ quan bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (Cục sáng chế) hoặc đã được bảo hộ theo Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia;
3. Sản phẩm, hàng hoá mang nhãn không đúng với nhãn sản phẩm đã đăng ký với cơ quan tiêu chuẩn đo lường chất lượng;
4. Sản phẩm, hàng hoá ghi dấu phù hợp tiêu chuẩn Việt Nam khi chưa được cấp giấy chứng nhận và dấu phù hợp tiêu chuẩn Việt Nam.
5. Sản phẩm, hàng hoá đã đăng ký hoặc chưa đăng ký chất lượng với cơ quan tiêu chuẩn đo lường chất lượng mà có mức chất lượng thấp hơn mức tối thiểu cho phép;
6. Sản phẩm, hàng hoá có giá trị sử dụng không đúng với nguồn gốc, bản chất tự nhiên, tên gọi và công dụng của nó”.

Từ đây ta có thể thấy hàng giả được chia thành 2 loại: hàng giả về hình thức (sản xuất và sử dụng nhãn giả và bao bì mang nhãn giả hoặc sử dụng nhãn của người khác, của cơ sở sản xuất khác mà không được phép của chủ nhãn (bao gồm nhãn sản phẩm, nhãn hiệu hàng hoá và dấu phù hợp Tiêu chuẩn Việt Nam); hàng giả về nội dung (hàng không có giá trị sử dụng, không đúng với nguồn gốc, bản chất tự nhiên, tên gọi và công dụng của nó; hoặc có chất lượng dưới mức tối thiểu do Nhà nước quy định; nhằm đánh lịa gây thiệt hại cho người tiêu dùng để thu lợi bất chính). Hàng giả là hàng có mức chất lượng thấp hơn mức chất lượng tối thiểu còn hàng kém chất lượng là hàng có mức chất lượng thấp hơn mức chất lượng ghi trên nhãn đăng ký song chưa vi phạm mức chất lượng tối thiểu.

Qua những quy định trên, hàng giả đã được phần nào làm rõ hơn với những dấu hiệu cơ thể của nó mà trước đây chưa hề có một văn bản pháp luật nào của Nhà nước đưa ra khái niệm hàng giả. Nó có một ý nghĩa lớn trong việc áp dụng để phân định hàng giả với hàng thật và hàng kém chất lượng. Tuy nhiên thì định nghĩa và dấu hiệu này vẫn chưa phản ánh đúng bản chất của hàng giả; hàng giả được chia thành hai lại trong đó có hàng giả về hình thức nhưng từ định nghĩa đến dấu hiệu của loại hàng này cho thấy đây không phải là hàng giả mà là hàng xâm phạm sở hữu trí tuệ. Việc đưa ra “mức chất lượng tối thiểu” để phân biệt hàng giả và hàng kém chất lượng nhưng không phải bất cứ loại hàng hoá nào cũng được quy định mức chất lượng tối thiểu mà đa phần là không có. Do vậy việc áp dụng trong thực tế là rất khó khăn.

Bộ luật Hình sự năm 1985 với những hạn chế lịch sử của nó là: được xây dựng trên cơ sở kinh tế xã hội của nền kinh tế bao cấp và trên cơ sở thực tiễn của tình hình tội phạm của thời kỳ đó. Do vậy có thể nói ngay từ khi ra đời BLHS đã ở trong tình trạng không phù hợp với chủ trương đổi mới cũng như những đòi hỏi đổi mới. Do vậy trong khoảng 15 năm tồn tại, BLHS năm 1985 được sửa đổi bổ sung bốn lần. Trong đó Điều 167 được sửa đổi bổ sung hai lần, ở lần sửa đổi bổ sung thứ hai (1992) Điều 167 được sửa theo hướng tăng hình phạt lên mức cao hơn và bổ sung thêm đối tượng hàng mới là: “Vật liệu xây dựng, phân bón thuốc trừ sâu”. Với sự sửa bổ sung mới này ta thấy được các loại hàng giả ngày càng đa dạng hơn và việc tăng hình phạt lên mức cao hơn thể hiện thái độ của Nhà nước là nghiêm khắc hơn đối với loại tội phạm này. Mặc dù đã sửa đổi bổ sung nhưng Điều 167 vẫn có những hạn chế về các nội dung và kỹ thuật lập pháp, nó đã tạo ra những khó khăn nhất định trong việc áp dụng pháp luật như: việc không đưa ra định lượng cũng như định tính để xác định một hành vi làm, buôn bán hàng giả là tội phạm hay vi phạm pháp luật khác do vậy một người khi có hành vi làm, buôn bán hàng giả sẽ có 3 khả năng có thể xảy ra: người đó có thể bị truy cứu TNHS theo Điều 167 BLHS; có thể bị xử phạt hành chính theo Nghị định 57/CP ngày 31/5/1997 quy định việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đo lường và chất lượng hàng hoá; hoặc có thể bị xử lý bằng các biện pháp khác như: cảnh cáo, bị tịch thu tài sản… Cả ba khả năng này cũng tồn tại cho thấy Điều 167 còn không kế thừa được cả theo văn bản pháp luật trước đó là Pháp lệnh số 07.LCT/H§NN và Nghị định 46/H§BT ngày 10/5/1983.

Để đáp ứng yêu cầu cấp thiết của sự phát triển kinh tế – xã hội và phát triển của tội phạm về kinh tế đòi hỏi phải có pháp luật hình sự mới phù hợp và tiến bộ hơn. bộ luật hình sự 1999 ra đời là điều cần thiết đối với pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng.

1.2.2. bộ luật hình sự 1999 và những tiến bộ của nó về tội sản xuất, buôn bán hàng giả so với bộ luật hình sự năm 1985.

Trước yêu cầu thực tế, BLHS năm 1999 được xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung một cách tương đối toàn diện BLHS năm 1985 nhưng có sự kế thừa những nội dung tích cực của BLHS sau 4 lần sửa đổi, bổ sung. Cũng theo hướng chung của BLHS thì “tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả” cũng được sửa đổi một cách khá toàn diện thể hiện tại “Điều 156. Tội sản xuất, buôn bán hàng giả”, “Điều 157. Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương th­c, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh”, “Điều 158. Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng vật nuôi”. Điều 167 BLHS năm 1985 quy định về tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả trong đó bao gồm các loại hàng giả là: hàng giả nói chung; hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh phòng bệnh, hàng giả là phân bán thuốc trừ sâu và về bản chất thì hàng giả được chia thành 2 loại là  hàng giả về hình thức và hàng giả về nội dung, thì nay BLHS 1999 đã tách các loại hàng giả trên thành các đối tượng hàng giả được quy định tại các điều luật riêng như: Điều 156. Tội sản xuất buôn bán hàng giả, Điều 157. Tội sản xuất buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh phòng bệnh; Điều 158. Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bán, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng vật nuôi và Điều171. Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Việc tách ra nh­ vậy là hoàn toàn phù hợp vì mỗi loại hàng giả khác nhau có những tác hại và tác động đến các đối tượng khác nhau. Từ đó trách nhiệm hình sự được áp dụng một cách đúng đắn hơn. Điều 156 quy định “Tội sản xuất, buôn bán hàng giả” về mặt nội dung có thay đổi so với Điều 167, phạm vi của đối tượng tác động là hàng giả ở đây được thu hẹp lại không còn các loại hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, phân bón, thuốc trừ sâu,... nay đã là đối tượng tác động của Điều 157, 158; về kỹ thuật lập pháp các thuật ngữ “phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng” được cụ thể hoá, “hàng giả có số lượng lớn” đã được định lượng rõ ràng; về hình phạt, hình phạt đã được giảm nhẹ hơn so với Điều 167 với mức cao nhất là tê đến mười lăm năm, hình phạt bổ sung được quy định trong khoản 4 Điều 156 khác so với BLHS năm 1985 hình phạt bổ sung được quy định trong một điều luật riêng áp dụng cho các tội phạm trong nhóm tội.

Với những điểm mới này của Điều 156,157,158 so với các văn bản pháp luật trước đây quy định về tội phạm này thì điều 156,157,158 thể hiện được một sự tương đối hoàn thiện và đầy đủ hơn mặc dù điều luật vẫn chưa khái quát được thế nào là sản xuất hàng giả, buôn bán hàng giả mà chỉ quy định tính chất, mức độ, hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi.

CHƯƠNG HAI

TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ.

BLHS năm 1999 được đánh giá là một sự phát triển mới của luật hình sự Việt Nam. Bộ luật được xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung một cách tương đối toàn diện BLHS năm 1985 nhưng có kế thừa những nội dung tích cực, hợp lý của BLHS này qua các lần sửa đổi, bổ sung. Các “tội sản xuất, buôn bán hàng giả” nằm trong chương các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế gồm các điều luật có đổi mới là Điều 156, 157và 158. Với mục đích của khóa luận là nghiên cứu quy định của pháp luật về các “tội sản xuất, buôn bán hàng giả” theo BLHSnăm 1999, chúng ta cần tìm hiểu một cách có hệ thống các dấu hiệu pháp lý, hình phạt và phân biệt tội phạm này với một tội phạm khác được quy định trong bộ luật.

Nhưng trước khi đi tìm hiểu những vấn đề trên thì ta phải định nghĩa thế nào là “tội sản xuất, buôn bán hàng giả”. Điều 156, 157, 158 không đưa ra định nghĩa này, nhưng dưới góc độ khoa học pháp lý chúng ta có thể xây dựng lên một định nghĩa về tội phạm này trên cơ sở của định nghĩa tội phạm tại khoản 2 điều 8, Do đó:

“Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là hành vi làm ra, mua đi bán lại hàng giả, do người có năng lực trách nhiêm hình sự thực hiện với lỗi cố ý xâm phạm đến trật tự của nền sản xuất hàng hóa, làm mất ổn định  thị trường, xâm hại lợi ích người tiêu dùng”

2.1 Dấu hiệu pháp lý của tội sản xuất buôn bán hàng giả:

Tội phạm được cấu thành bởi bốn yếu tố: khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm, mặt chủ quan của tội phạm. Đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả thì bốn yếu tố này được thể hiện như sau:

2.1.1 Khách thể của tội sản xuất buôn bán hàng giả :

Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại. Khách thể của từng tội phạm cụ thể (khách thể trực tiếp của tội phạm) là nhưng quan hệ xã hội cụ thể được quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ khỏi sự xâm hại trực tiếp của một tội phạm cụ thể.

Khách thể trực tiếp của tội sản xuất, buôn bán hàng giả là những quan hệ xã hội trong lĩnh vực quản lý chất lượng hàng hóa, lưu thông, phân phối hàng hóa trên thị trường và đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng.

Đối tượng của tội sản xuất và buôn bán hàng giả là các loại hàng giả. Vậy hàng giả là gì? Và tại sao sản xuất buôn bán hàng giả lại xâm hại đến mối quan hệ XH  nêu trên.

Theo quan niệm chung thì hàng giả là những sản phẩm hàng hóa được sản xuất trái pháp luật có như những sản phẩm, hàng hóa được nhà nước cho phép sản xuất, nhập khẩu và tiêu thụ thị trường hoặc những sản phẩm, hàng hóa không có giá trị sử dụng với nguồn gốc, bản chất tự nhiên, tên gọi, công dụng của nó.

Theo quy định của pháp luật, trước khi bộ luật hình sự 1999 ra đời, thì tại Nghị Định 140/HĐBT ngày 25/4/1991cũng đưa ra định nghĩa về hàng giả và 6 dấu hiệu để hàng hóa bị coi là hàng giả, trong thông tư liên bộ 1254/TTLB ngày 8/11/1991 cũng phân loại hàng giả và phân biệt hàng giả và hàng kém chất lượng. Như đã phân tích ở mục 1.2.1 chương 1 khóa luận này thì những định nghĩa, dấu hiệu và sự phân biệt này chưa chính xác và đầy đủ để nhận biết hàng giả. Do vậy để giải thích đầy đủ và chính xác hơn thế nào là hàng giả, tại thông tư liên tịch số 10/2001/TTLT ngày 27/4/2000 của Bộ thương mại, Bộ tài chính, Bộ công an, Bộ khoa học công nghệ và môi trường hướng dẫn chỉ thị số 31/1999/CT-TTG của thủ tướng chính phủ về đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả thì:

“ Hàng hóa có một trong những dấu hiệu sau đây được coi là hàng giả:

1.  Hàng giả chất lượng hoặc công dụng:
1.1  Hàng hóa không có giá trị sử dụng hoặc giá trị sứ dụng không đúng như ban chất tự nhiên, tên gọi và công dụng của nó.
1.2 Hàng hóa đưa thêm tạp chất, chất phụ gia không được phép sử dụng làm thay đổi chất lượng, không có hoặc có ít dược chất khác với tân dược chất được ghi trên nhãn hoặc bao bì, không có hoặc không đủ hoạt chất, chất hữu hiệu khác với tên hoạt chất, chất hữu hiệu ghi trên bao bì.
1.3 Hàng hóa không đủ thành phần nguyên liệu hoặc bị thay thế bằng những nguyên liệu phụ tùng khác không bảm bảo chất lượng so với tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa đã công bố, gây hậu quả xấu đối với sản xuất, sức khỏe người, động vật, thực vật hoặc môi sinh, môi trường.
1.4 Hàng hóa thuộc danh mục tiêu chuẩn bắt buộc áp dụng mà không thực hiện gây hậu quả xấu đối với sản xuất, sức khỏe người, động vật, thực vật và môi sinh, môi trường.
1.5 Hàng hóa chưa được chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn mà áp dụng giấy chứng nhận hoặc dấu phù hợp tiêu chuẩn (đối với danh mục hàng hóa bắt buộc).

2. Giả về nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp, nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa:

   2.1 Hàng hóa có nhãn hiệu hàng hóa trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hóa của người khác đang được bảo hộ cho cùng loại hàng hóa kể cả nhãn hiệu hàng hóa đang được bảo hộ theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, mà không được phép của chủ nhãn hiệu.
   2.2 Hàng hóa có dấu hiệu hoặc bao bì mang dấu hiệu trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫm với tên thương mại được bảo hộ hoặc với tên xuất xứ hàng hóa được bảo hộ.
   2.3 Hàng hóa, bộ phận của hàng hóa có hình dáng bên ngoài trùng với kiểu dáng công nghiệp đang được bảo hộ mà không được phép của chủ kiểu dáng công nghiệp. 
   2.4 Hàng hóa có dấu hiệu giả mạo về chỉ dẫn nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa gây hiểu sai lệch về nguồn gốc, nơi sản xuất, nơi đóng gói, lắp ráp hàng hóa.

3.Giả về nhãn hàng hóa :
    3.1 Hàng hóa có nhãn hàng hóa giống hệt hoặc tương tự với nhãn hàng hóa của cơ sơ khác đã công bố.
    3.2 Những chỉ tiêu ghi trên nhãn hàng hóa không phù hợp với chất lượng hàng hóa nhằm lừa dối người tiêu dùng.
    3.3 Nội dung ghi trên nhãn bị cạo, tẩy xóa, sửa đổi ghi không đúng thời hạn sử dụng để lừa dối khách hàng.

4.Các ấn phẩm hàng hóa đã in sử dụng vào viêc sản xuất, tiêu thụ hàng giả;

4.1 Các loại đề can, tem sản phẩm, nhãn hàng hóa, mẫu nhãn hiệu hàng hóa, bao bì sản phẩm có dấu hiệu vi phạm như: trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hàng hóa cùng loại, với nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp, tên gọi xuất xứ hàng hóa được bảo hộ.

4.2 Các loại hóa đơn, chứng từ, chứng chỉ, tem,vé, tiền, ấn phẩm có giá trị như tiền, ấn phẩm và sản phẩm văn hóa giả mạo khác.”

Từ những quy định trên thì hàng giả được chia làm ba loại:

- Hàng giả về nội dung: là hàng giả về chất lượng hoặc công dụng. Đây là loại hàng hóa không có giá trị sử dụng hoặc có giá trị sử dụng không đúng bản chất tự nhiên tên gọi và công dụng của loại hàng hóa đó.

Ví dụ: Dựng bột mỳ để làm thuốc B1, dựng nước tinh khiết với muối để làm thuốc nhỏ mắt…

- Hàng giả về hình thức: là hàng giả về nhãn hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp, nguồn gốc xuất xứ … Đây là loại hàng hóa mang nhãn hiệu, kiểu dáng… của cơ sở sản xuất khác nhưng có giá trị sử dụng.

Ví dụ: Những chiếc đồng hồ mang nhãn hiệu nổi tiếng của Thụy Sỹ nhưng thực ra là đồng hồ Trung Quốc được làm với kiểu dáng và hình thức giống hệt đồng hồ Thụy Sỹ. Hay những chiếc túi sách của hãng nổi tiếng Louis Vuitton của Pháp được làm giả kiểu dáng giống hệt và chất liệu kém hơn.

- Hàng giả về nội dung và hình thức: Đây là loại hàng hóa mang nhãn hiệu kiểu dáng… của cơ sở sản xuất khác vừa không có giá trị sử dụng mà nó mang tên.

Ví dụ: Những chiếc tivi mang nhãn mác và kiểu dáng của hãng Sony nhưng thực tế bên trong là những linh kiện cũ và bóng hình được thay thế bằng bóng hình của màn hình máy tính cũ và chỉ dựng một thời gian là bị hỏng.

Hàng giả được phân ra là các loại như vậy là tương đối hợp lý và cũng tạo điều kiện cho việc nhận biết hàng giả. Tuy nhiên trong thực tiễn đấu tranh chống lại các tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả đều thống nhất coi hai loại hang giả về nội dung và hàng giả cả về nội dung và hình thức là hàng giả. Là đối tượng của tội phạm quy định tại các điều 156, 157, 158 của Bộ luật hình sự năm 1999. Còn đối với loại hàng giả về hình thức thì có hai quan điểm khác nhau:

Có quan điểm cho rằng đây là hàng giả dự có hay không có giá trị sử dụng, thì hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả này thỏa mãn các cấu thành tội phạm quy định tại điều 156, 157, 158 Bộ luật hình sự thì đều bị phải định tội theo các điều này.

Có quan điểm khác lại coi loại hàng giả này là hàng hóa vi phạm quyền sở hữu công nghiệp là đối tượng của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp quy định tại Điều 171 BLHS vì hành vi sản xuất, mua bán hàng giả này là sử dụng trái phép kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa của cơ sở khác.

Vậy loại hàng hóa về hình thức là đối tượng của Điều 156, 157, 158 là loại hàng giả như thế nào? Theo quy định của pháp luật Việt Nam về sở hữu trí tuệ, cũng như quy định của các ĐƯQT về sở hữu trí tuệ mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia, thì nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp, nguồn gốc, xuất xứ, chỉ dẫn địa lý là đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp. Và việc bảo hộ của Nhà Nước đối với quyền của sở hữu công nghiệp là thông qua văn bằng bảo hộ. Quy định này có nghĩa là muốn được nhà nước bảo hộ quyền của mình đối với sáng chế, giải pháp hữu ích nhãn hiệu hàng hóa, kiều dáng công nghiệp… thì phải đăng ký cơ quan quản lý nhà nước về sở hữu công nghiệp và được cấp văn băng bảo hộ. Theo luật Tư Pháp Quốc tế thì quyền sở hữu công nghiệp chỉ có hiệu lực trên phạm vi lãnh thổ mà nó đăng ký bảo hộ và được cấp văn bằng bảo hộ. Căn cứ theo quy định trên của pháp luật thì hàng hóa xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là loại hàng hóa mang nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp, nguồn gốc xuất sứ của cơ sở sản xuất khác đã đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp hoặc có văn bản bảo hộ những loại hàng hóa này là đối tượng của điều 171 BLHS. Còn loại hàng giả về hình thức là đổi tượng của điều 156,157,158 BLHS là loại hàng hóa về nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp, nguồn gốc, xuất xứ… của cơ sơ sản xuất khác chưa đăng ký bảo hộ quyên sở hữu công nghiệp hoặc không có văn bằng bảo hộ sở hữu công nghiệp. Do vậy hai quan điểm trên đều chưa chính xác. 

Cũng tại Thông tư liên tịch số 10/2000/TTLT ngày 27/4/2000 tại mục IV  có đưa ra một số tiêu chí về hàng kém chất lượng. Theo đây:

“ Hàng hóa có một trong các dấu hiệu sau đây được coi là hàng kém chất lượng: 

      1.Hàng hóa có giá trị sử dụng, công dụng nhưng các chỉ tiêu, thành phần cấu tạo về chất lượng chưa đầy đủ như công bố trên nhãn hang hóa hoặc quảng cáo, tiếp thị nhưng không gây hại đến sản xuất, sức khỏe người, động vật, thực vật hoặc môi sinh, môi trường.
      2.Hàng hóa có một trong các chỉ tiêu chất lượng thuộc danh mục bắt buộc áp dụng thấp hơn mức chất lượng tối thiểu đã công bố, nhưng không gây hại đến sản xuất, sức khỏe người, động vật, thực vật, môi sinh, môi trường.
      3.Hàng hóa có chất lượng thực tế thấp hơn mức ghi trên nhãn hàng hóa hoặc quảng cáo công bố nhưng không gây hại đến sức khỏe người, động vật, thực vật.
      4.Hàng hóa cũ tân trang, sửa chữa lại rồi mạo hàng mới để lừa dối khách hàng, bán theo đơn giá của hàng mới.
      5.Hàng hóa đã bị đưa thêm tạp chất hoặc các nguyên liệu khác nhau làm thay đổi định lượng hàng hóa,nhưng không gây hại đối với sản xuất, sức khỏe người, động vật, thực vật hoặc môi sinh, môi trường”.

Qua quy định cho thấy, hàng kém chất lượng không còn được quy định một cách chung chung như Thông tư liên bộ 1254/TTLB ngày 8/11/1999 là những “sản phẩm có mức chất lượng thấp hơn mức chất lượng đã đăng ký và ghi nhãn sản phẩm, song chưa vi phạm chất lượng tối thiểu” thì dấu hiệu đưa ra ở thông tư số 10/2000/TTLT đã được cụ thể và rõ ràng hơn. Qua đây thì hàng giả  và hàng kém chất lượng giống nhau ở chỗ là không đạt chất lượng như đã đăng ký hay ghi trên bao bì nhãn mác nhưng hàng giả khác với hàng kém chất lượng ở chỗ: hàng giả không có giá trị sử dụng hoặc có giá trị sử dụng nhưng thấp hơn “mức chất lượng tối thiểu” còn hàng kém chất lượng là có giá trị sử dụng nhưng giá trị sử dụng của hàng hóa này là trên “ mức chất lượng tối thiểu” đã công bố. Theo quy định này, thì mức chất lượng tổi thiểu của hàng hóa đươc quy định tại các danh mục các loại hang hóa phải đạt chất lượng bắt buộc do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và mức chất lượng tổi thiều do cơ sở sản xuất công bố đối với sản phẩm của mình. Hàng giả còn khác hàng kém chất lượng ở chỗ, việc sử dụng hàng giả có thể dẫn đến những tổn hại về sức khỏe, tính mạng sức khỏe con người, động vật, thực vật hoặc môi sinh, môi trường. Còn hàng kém chất lượng thì không gây hại đến sức khỏe người, động vật, thực vật hoặc môi sinh, môi trường. 

Hiện nay, trên thị trường hàng hóa rất đa dạng với rất nhiều chủng loại. Hàng giả cũng như vậy nó rất đa dạng từ hang hóa làm giả đồ sản xuất trong nước đến những hàng hóa nhập khẩu, từ những đồ dùng vật dụng thông thường đến những hàng hóa cao cấp như chai nước khoáng, đồ điện tử, đồng hồ đeo tay, nước hoa…

Từ những phân tích trên đây, chúng ta có thể khái quát như sau:

“Hàng giả là tất cả những loại hàng hóa từ thông thường đến cao cấp được sản xuất trái pháp luật, có hình dáng bên ngoài giống như những sản phẩm, hàng hóa được nhà nước cho phép sản xuất, nhập khẩu, tiêu thụ trên thị trường không đủ tiêu chuẩn chất lượng của nhà nươc; hoặc những sản phẩm, hàng hóa không có giá trị sử dụng đúng nguồn gốc bản chất tự nhiên tên gọi và công dụng của nó nhằm lừa dối người tiêu dùng với mục đích  cạnh tranh không lành mạnh và thu lợi bất chính”. 

Hiên nay, Đảng và nhà nước ta đang chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cho nên nền sản xuất hàng hóa có một ý nghĩa quyết định đến sự phát triển này. Chúng ta không chỉ cần sản xuất ra nhiều hàng hóa mà chất lượng của những loại hàng đó còn phải đáp ứng được yêu cầu của con người đang ngày một tăng lên. Hàng giả xuất hiện trên thị trường với nhiều hình thức tinh vi, bề ngoài giống như hàng thật lưu thông, phân phối trên thị trường hoặc được trộn lẫn với hàng thật dễ bán. Từ đó gây ra những tác động xấu về mặt kinh tế, xã hội , giảm lòng tin của người tiêu dùng với nhà sản xuất nhằm cạnh tranh không lành mạnh và còn có thể gây thiệt hại tính mạng, sức khỏe con người. Đối với nên kinh tế, hàng giả và buôn bán hàng giả có ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế quốc dân, đến việc thực hiện chính sách kinh tế gây khó khăn cho việc quản lý thị trường của cơ quan chức năng, nhà nước sẽ mất đi một khoản thu cho ngân sách, gặp nhiều khó khăn trong lĩnh vực quản lý các lĩnh vực sản xuất, điều phối, lưu thông hàng hóa. Là nguyên nhân gây mất ổn định thị trường, ảnh hưởng tới hợp tác kinh tế quốc tế. Đối với nhà sản xuất thì hàng giả không chỉ gây ra những thiệt hại về tài chính mà nó còn giảm uy tín, lòng tin của người tiêu dùng đối với nhà sản xuất, đây là một thủ đoạn canh tranh không lành mạnh. Đối với người tiêu dùng thì ngoài những thiệt hại về tiền bạc, nhu cầu sử dụng không được đáp ứng thì hàng giả không có giá trị sử dụng hoặc có giá trị sử dụng nhưng không đạt tiêu chuẩn cho phép có thể gây ra những tổn hai sức khỏe và tính mạng đối với người tiêu dùng. Đặc biệt, hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh thì nhưng tác hại mà nó có thể gây ra cho con người là rất nhanh chóng và rất lớn, nó trực tiếp ảnh hưởng tới sức khỏe và sinh mệnh của người dân.

Ví dụ: Vụ án Quách Thị Lành – Công ty TNHH dược phẩm Anh Ngọc (Cầu Giấy- Hà Nội) sản xuất thuốc tránh thai bằng bột mỳ, thuốc giảm đau bằng nước cất, dựng thuốc quá date đòng bao bì thuốc mới…Những loại thuốc giả nay khi vào cơ thể người bệnh vốn sức khỏe đã yếu, không có tác dụng chữa bệnh mà còn có thể dẫn đến những tác động xấu hơn cho sức khỏe của họ, còn có nguy cơ dẫn đến tử vong. Hay rượu ngoại giả được pha bằng cồn có nồng độ cao, hương liệu và phẩm màu gây ngộ độc cho người uống…Trứng gà giả, bánh bao nhân bìa cáttông…

Hàng giả là các loại thức ăn dựng để chăn nuôi, phân bún, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi, nước ta hiên nay vẫn là một nước nông nghiệp việc sản xuất nông nghiệp vẫn được coi là chủ chốt của nền kinh tế cho nên việc sản xuất, buôn bán những loai hàng giả trên gây thiệt hại cho sản xuất nông nghiệp, ảnh hưởng thu nhập của người nông dân, đe dọa an ninh lương thực của quốc gia, ành hưởng tới môi trường, môi sinh …thêm vào đó những loại hàng giả là thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, giống cây trồng, vật nuôi không những giả mà còn có thể mang trong nó những chất độc hại, khi con người sử dụng chúng những chất độc nay tích trữ trong cơ thể con người gây bênh.

Ví dụ : phân bón được làm từ cát, muối, bột màu trộn đều và đóng bao giả hiệu phân lân, kali…không có tác dụng bón cho cây mà còn có thể gây bạc màu cho đất. Giống ngô giả khi trồng có bắp mà không có hạt ….

Hàng giả là các loai hàng hóa khác (trừ những loại hàng đã nêu trên). Những mặt hàng này có nguy cơ gây thiệt hai trực tiếp cho con người về sức khỏe là không nhiều nhưng thiệt hại mà nó gây ra cho nền sản xuât hàng hóa và tài chính của nhà sản xuất là không nhỏ.   

Ví dụ: Đồng hồ Thụy Sỹ giả được bán nhiều hơn là đồng hồ thật, 40 triệu chiếc giả so với 26 triệu chiếc đồng hồ thật. Hay 10% tổng số sản phẩm công nghệ cao đang bày bán trên toàn thế giới là hàng giả- nhà sản xuất thiêt hại về doanh thu mỗi năm lên tới 100 tỷ USD. Dây điện giả không đạt chất lượng khi sử dụng có thể mát và hở điện khi có người chạm vào có thể gây ra điện giật dẫn đến chết người.

Do vậy, hàng giả và buôn bán hàng giả cần phải được ngăn chặn và xử lý nghiêm minh để bảo vệ những quan hệ xã hội trên.

2.1.2 Mặt khách quan của tội sản xuất, buôn bán hàng giả.

Bất kỳ một tội phạm nào khi xảy ta cũng đều có những biểu hiện diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài mà con người có thể trực tiếp nhận biết được nó như: hành vi, hậu quả cho xã hội, mối quan hệ giữa hành vi va hậu quả, các điều kiện bên ngoài khi thực hiện hành vi. Tổng hợp những điều kiện trên tạo thành mặt khách quan của tội pham. Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm bao gồm những biểu hiện của tội phạm bao gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan . Mặt khách quan của tội phạm là một trong bốn yếu tố cấu thành tội pham không có mặt khách quan thì cũng không có các yếu tố khác của tội phạm và cũng không có tội phạm.

“Trong mặt khách quan của tội phạm thì hành vi khách quan là biểu hiện cơ bản, những biểu hiện khác của mặt khách quan chỉ có ý nghĩa khi có hành vi khách quan”. Các “Tội sản xuất, buôn bán hàng giả” thọat nhìn ban đầu thì có thể cho đây là điều luật quy định một hành vi khách quan là hành vi sản xuất buôn bán hàng giả, nhưng khi xem xét ta thấy đây là một điều luật nhưng quy định một tội danh nhưng bao gồm hai hành vi khách quan đó là hành vi sản xuất hàng giả và hành vi buôn bán hàng giả. Mỗi hành vi khách quan  này có thể độc lập riêng rẽ với nhau tạo thành các tội như tội sản xuất hàng giả, tội buôn bán hàng giả, hoặc có thể đi liên nhau hành vi nay là tiền đố cho hành vi kia và ngược lại tạo cấu thành tội sản xuất, buôn bán hàng giả. 

Hành vi sản xuất hàng giả là hành vi làm ra (tạo ra) các loại hàng giả (như đó nêu ở 2.1.1). Làm ra hàng giả là làm với hoàn toàn hoặc lắp ráp từ những bộ phận giả của hàng hóa. Người phạm tội có thể tham gia vào cả quá trình làm ra hàng giả từ đầu đến cuối hoặc chỉ có thể tham gia vào một công đoạn của quá trình làm ra hàng giả như: lắp ráp, chế biến, đóng gói, dán nhãn hiệu để tạo ra hàng giả. Hàng giả được sản xuất ra chủ yếu bằng phương pháp công nghiệp theo một quy trình từ nguyên liệu đến sản phẩm. BLHS năm 1999 không sử dụng thuật ngữ “làm” hàng giả như Điều 167 BLHS năm 1985 mà sử dụng thuật ngữ “Sản xuất” hàng giả, sự khác biệt này có những ý nghĩa nhất định. Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức sản xuất mà trong đó có sự phân công lao động và sản phẩm được làm ra phải trải qua nhiều khâu khác nhau của một quá trình sản xuất, được thực hiện theo một quy trình từ nguyên liệu đến sản phẩm. Sản xuất hàng giả như vậy, việc sản xuất hàng giả là việc tạo ra hàng giả trong đó cũng có sự phân công lao động ra các khâu của quá trình sản xuất, hàng giả làm ra phải trải qua các khâu đó. Do vậy để sản xuất phải có từ hai người trở lên hoặc phải có máy móc và trang thiết bị kỹ thuật số lượng hàng giả làm ra là tương đối nhiều. Còn việc “làm” hàng giả là tạo ra sản phẩm giả trên cơ sở bắt chước kiểu dáng, tính năng của một loại hàng hóa nào đó, người làm hàng giả làm ta nó theo phương pháp thủ công, không có quy trình kỹ thuật nhất định nào, số lượng hàng giả làm ra là không nhiều. Việc Điều 156, 157,158 quy định như vậy có tính hợp lý hơn rất nhiều, do mục đích của tội phạm là hàng giả làm ra để lừa dối khách hàng nhằm thu lợi bất chính. Với mục đích như vậy mà sử dụng thuật ngữ “làm” để chỉ hành vi khách quan của tội phạm này có thể dẫn đến nhầm lẫn với hành vi khách quan của tội phạm khác hoặc cũng có thể là hành vi khác mà không phải tội phạm. Cụ thể là: nếu một người làm ta một sản phẩm được coi là hàng giả, người này đem bán cho người khác nói dối về chất lượng của sản phẩm hay tên gọi của sản phẩm đó để thu tiền “từ 500 nghìn đồng đến dưới 50 triệu đồng hoặc dưới 500 nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng” thì người đó phạm tội tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 139 BLHS. Nhưng nếu người đó chỉ làm ra sản phẩm giả đó để sử dụng cho nhu cầu sinh hoạt của bản thân và gia đình mình thì người đó không được coi là hành vi làm hàng giả và không vi pham pháp luật.

Do vậy việc sử dụng thuật ngữ “sản xuất” để thực hiện hành vi khách quan của tội sản xuất hàng giả là chính xác và không gây nhầm lẫn.

Hành vi buôn bán hàng giả là hành vi dựng tiền hoặc lợi ích vật chất khác để mua đi, bán lại những hàng hóa mà biết là hàng giả để thu lợi bất chính.

Có thể thấy các hành vi khách quan của tội sản xuất, buôn bán hàng giả đều được thể hiện dưới dạng hành động. Người phạm tội phải tiến hành một hoạt động cụ thể tác động một cách trực tiếp vào quan hệ xã hội cụ thể.

Đối với hành vi sản xuất hàng giả người phạm tội  phải tiến hành một loạt các hành động như: lắp ráp, dán nhãn… ngoài ra người phạm tội phải chuẩn bị trước mọi thứ như nguyên liệu, máy móc, nhà xưởng, dự trù loại hàng hóa sản xuất, móc nối để tiêu thụ, do vậy họ bắt buộc phải thể hiện bằng hành động.

Đối với hành vi buơn bán hàng giả là hành vi mua đi bán lại hàng hóa giả. Người phạm tội phải tìm mối mua hàng giả, chuẩn bị kho bãi tập kết hàng, vẫn chuyển hàng, sau đó bán lại hàng giả đó cho người khác để thu lợi bất chính.

Về thời gian thực hiện tội phạm, thì hành vi sản xuất hàng giả phải xảy ra trong một thời gian dài có tính liên tục, còn hành vi buôn bán hàng giả thì khác nó vừa có thể xảy ra trong một thời gian dài liên tục, có thể xảy ra trong thời gian ngắn và không liên tục.

Hành vi sản xuất hàng giả và hành vi buôn bán hàng giả có mối quan hệ khăng khít với nhau. Người phạm tội có thể thực hiện một trong hai hành vi hoặc là sản xuất hàng giả  hoặc là buôn bán hàng giả; hoặc thực hiện cả hai hành vi vừa sản xuất vừa buôn bỏn hàng giả. Có hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả thì hàng giả mới đến tay người tiêu dùng và gây hậu quả. Có hành vi buôn bán hàng giả thì mới tạo ra nhu cầu, và cần có sản xuất để đáp ứng cho nhu cầu này.

Ví dụ: Ngày 10/9/2007 Viện kiểm soát nhân dân tối cao đã hoàn thành bản cáo trạng vụ án “ cố ý làm trái, buôn bán hàng giả, trốn thuế” xảy ra tại công ty điện lực thành phố Hồ Chí Minh. Tại bản cáo trạng số 11/ VKSNDTC – V1B của Viện kiểm sóat nhân dân tối cao thì nhóm bị can nguyên là lãnh đạo nhân viên công ty Linkton Vina gồm: 

Trần Thị Liên (Phó chủ tịch hội đồng quản trị); Trần Công Điền (Phó Tổng giám đốc); Phạm Huy Quang(Quản đốc phân xưởng); Nguyễn Trọng Hiển (Trưởng phòng kinh doanh); Đặng Thị Kim Liên (Kế toán trưởng) bị truy tố về tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo khoản 3 Điều 156 BLHS. Những bị can này đã có vi phạm sản xuất ra 312.000 chiếc điện kế điện tử mang nhãn hiệu Linkton Xingapo nhưng thực chất là dựng những linh kiện mua ở trong nứơc cũ hỏng lắp vào vỏ điện kế điện tử Linkton Xingapo 312.000 chiếc điện kế điện tử này là hàng giả về nguồn gốc xuất xứ, nơi đóng gói, lắp ráp hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp. Những đối tượng này đã móc nối với nhiều người có chức năng tại công ty điện lực thành phố Hồ Chí Minh để tiêu thụ những chiếc điện kế điện tử giả này với giá 580.000đ/ cái. Tổng giá trị hàng giả tương đương với giá trị hàng thật là 181 tỷ đồng.

Hành vi của các đối tượng trên là vừa sản xuất vừa có hành vi buôn bán hàng giả. 

Hành vi nguy hiểm cho xã hội tác động lên các bộ phận cấu thành quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ không phải theo hướng có lợi mà gây thiệt hại cho quan hệ đó. 

Hậu quả của tội phạm là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật Hình Sự. Thiệt hại gây ra  cho khách thể được thể hiện qua sự biến đổi tình trạng bình thường của các bộ phận cấu thành quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm. Tính chất, mức độ của thiệt hại được xác định bởi tính chất; mức độ biến đổi của các đối tượng tác động của tội pham.

Hậu quả của tội sản xuất, buôn bán hàng giả là từ sự biến đổi về chất của hàng hóa dẫn đến những thiệt hại cho khách thể của tội sản xuất buôn bán hàng hóa: đó là những thiết hại vật chất và phi vật chất cho xã hội như: tính mạng, nhân phẩm, danh dự của con người, những thiệt hại về tài sản cho xã hội và những thiệt hại về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… Theo quy định  của Điều 156, 157, 158 BLHS thì yếu tố hậu quả của tội phạm không phải lúc nào cũng là dấu hiệu bắt buộc đối với mặt khách quan của tội phạm. Nó chỉ có ý nghĩa là dấu hiệu bắt buộc trong trường hợp “hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật có giá trị…. Dưới 30 triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng” (khoản1-Điều156) hay “hoặc gây hậu quả nghiêm trọng” (khoản 1-Điều158).

Có ý kiến cho rằng tội sản xuẩt và buôn bán hàng giả là tội có cấu thành vật chất có nghĩa là phải có các dấu hiệu của mặt khách quan của tội phạm là hành vi, hậu quả và mối quan hệ giữa hành vi hậu quả. Thì mới được coi là tội phạm. Nhưng khi nghiên cứu thực tế tội phạm này, chúng tôi  thấy rằng tội sản xuất, buôn bán hàng giả có cấu thành hình thức nghĩa là chỉ cần có hành vi “sản xuất buôn bán hàng giả tương đương số lượng hàng thật có giá trị 30 triệu đồng”(Điều 156) hay “sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dựng để chăn nuôi,…với số lượng lớn” (Điều158) hoặc chỉ cần “sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh”(Điều157) đã cấu thành tội phạm mà không cần xem xét dấu hiệu hậu quả của tội phạm.

Ví dụ: Khoảng 7h sáng ngày 14/9/2007 công an Thành phố Hà Nội phát hiện một xe ô tô chở 179 cuộn dây điện mang nhãn hiệu SANGJIN – MADE IN KOREA nghi là hàng giả. 

Sau quá trình điều tra làm rõ thì toàn bộ 179 cuộn dây điện trên là hàng giả với giá trị tương đương giá trị hàng thật khoảng 255.066.000 đồng và chủ của những cuộn dây điện giả là Phạm Ngọc Anh sinh năm 1981 và Trần Quốc Tuấn sinh năm 1975. Thủ đoạn của bọn chúng là vào khoảng giữa năm 2007 nhận thấy nhãn dây điện SANGJIN bán chạy nên chúng sử dụng dây điện gia công không đảm bảo chất lượng in nhãn hiêu SANGJIN – MADE IN KOREA để bán kiếm lời. Đang trên đường đi tiêu thụ thì bị phát hiện.

Theo bản án số …….. ngày 14/3/2008 tòa án nhân dân thành phố Hà Nội căn cứ vào điểm e khoản 2 điều 156, khoản 1 điều 46, khoản 1 điều 60 quyết định:

Phạm Ngọc Anh – 1981: 36 tháng tự cho hưởng án treo, phạt tiền 5 triệu đồng;
Trần Quốc Tuấn – 1975: 24 tháng tự cho hưởng án treo, phạt tiền 5 triệu đồng.

Hành vi của Phạm Ngọc Anh và Trần Quốc Tuấn đã đủ cấu thành tội phạm và thể hiện được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà không cần gây ra hậu quả.

Thủ đoạn của bọn tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả rất đa dạng từ đơn giản đến tinh vi rất khó phát hiện, với cách thức quy mô nhỏ lẻ, phân tán đến sản xuất hàng loạt, cú tổ chức, có tính chuyên nghiệp…

Ví dụ: như để sản xuất rượu giả bọn tội phạm thường dùng rượu ngoại thật pha theo tỷ lệ thấp, hoặc dựng cồn có nồng độ cao pha thêm phẩm máu công nghiệp, hóa chất, các chất phụ gia, hương liệu đúng vào vỏ chai rươu ngoại thật đã sử dụng, dán tem giả…

Bọn chúng thường chọn nơi hẻo lánh để sản xuất và chọn thời điểm khan hiếm hàng hoặc sốt giá tung hàng giả ra tiêu thụ, chúng trộn lẫn hàng giả, hàng thật để bán cho người tiêu dùng. Chúng sản xuất các mặt hàng phù hợp với từng thời điểm tiêu thụ. 

Ví dụ: Xi măng giả tập trung vào mùa xây dựng, hàng điện gia dụng giả tập trung vào mùa tiêu thụ như mùa hè và giáp tết âm lịch, bánh kẹo giả tập trung bán vào dịp giáp tết…
2.1.3 Chủ thể của tội sản xuất, buôn bán hàng giả:

Chủ thể của tội phạm là người có năng lực TNHS, đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể.

Chủ thể của tội sản xuất, buôn bán hàng giả là người có năng lực TNHS, đạt độ tuổi và có hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả. Khác với một số pháp luật hình sự của một số nước trên thế giới, pháp luật hình sự Việt Nam không coi pháp nhân là chủ thể của tội phạm do vậy trong trường hợp pháp nhân có hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm được quy định tại Điều 156 BLHS thì pháp nhân đó không bị truy cứu TNHS. Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì chỉ cá nhân mới phải chụi trách nhiệm hình sự. Do vậy pháp nhân phạm tội thì người đại diện của pháp nhân sẽ là người bị truy cứu TNHS  hat người đại diện đó mới là chủ thể tội phạm. Việc quy đinh như vậy sẽ có trường hợp dẫn đến bỏ lọt tội phạm; do nếu 1 pháp nhân phạm tội thì tất cả các thành viên của pháp nhân đó đều thực hiện hành vi phạm tội nhưng chỉ có một người phải chịu trách nhiệm hình sự. Từ thực tế này cho thấy , quy định của pháp nhân hình sự là chưa phù hợp cần có những sửa đổi hợp lý hơn.

Chủ thể của tội sản xuất, buôn bán hàng giả có thể là chủ thể đặc biệt, “lợi dụng quyền hạn, chức vụ” quy định tại điểm d Khoản 2 Điều 156,157 và điểm b Khoản 2 Điều 158, những người này giữ những chức vụ nhất định tại các cơ quan công do đó có một số quyền hạn nhất định liên quan tới hoạt động sản xuất, lưu thông, phân phối hàng hóa …. Nếu người phạm tội là người nước ngoài ( người có quốc tịch nước khác hoặc không có quốc tịch) phạm tội sản xuất,buôn bán hàng giả trên lãnh thổ Việt Nam thì vẫn bị truy cứu TNHS theo quy định của BLHSVN trừ những trường hợp được hưởng quyền ưu đãi miễn trừ theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia thì khi đó TNHS của họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao.

Về tuổi chịu TNHS: theo tinh thần của các Điều 8, Điều 12 BLHS thì độ tuổi của người phạm tội theo quy định tại Điều 156 sẽ như sau:  Nếu người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này quy định tại khoản 1 của điều luật, nhưng phải chịu TNHS về tội phạm này quy đinh tại khỏan 2 và khoản 3 của điều luật. Vì khoản 1 của điều luật là “tội phạm nghiêm trọng” là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội là mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy đến 7 năm tự (Khoản 3 Điều 8) mà khoản 1 Điều 156,157,158 thì mức cao nhất của khung hình phạt là bảy năm tù và căn cứ tại Khoản 2 Điều 12 tuổi chịu TNHS “Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc hoặc tội pham đặc biệt nghiêm trọng”. Còn theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 156,157,158 là tội rất nghiêm trọngvà đặc biệt nghiêm trọng và mức cao nhất cua khung hình phạt là đến mười năm năm tự (khoản 3- Điều156,158)và tử hình(khoản 3-Điều157) căn cứ vào khoản 
3 Điều 8. Nếu  “người phạm tổi đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm” (Khoản 2 Điều 12 BLHS).

Vấn đề nhân thân người phạm tội theo quy định tại khoản 1 Điều 156 “ Người nào sản xuất, buôn bán hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật có giá trị… dưới 30 triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại điều này hoặc tại một điều khoản trong các Điều 153, 154,155,157,158,159 và 161 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm” và khoản 1 Điều 158 “Người nào sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dựng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi với số lượng lớn hoặc gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính quy định tại điều này hoặc tại một điều khoản trông các điều 153,154,155,156,157,159 và161của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”. Qua đây ta thấy dấu hiệu đã bị xử phạt hành chính… mà còn vi phạm là người phạm tội đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả hoặc một trong các hành vi quy định tại Điều 153 (Tội buôn lậu); Điều 154 (Tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới); Điều 155 (tội sản xuất tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm); Điều 157 (Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh); Điều 158 ( tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dựng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng vật nuôi); Điều 159 (Tội kinh doanh trái phép); Điều 161 (Tội trốn thuế). Sở dĩ quy định như vậy là do nhóm tội này có tính chất nguy hiểm cho xã hội tương đối giống nhau. Do vậy việc quy định đã bị xử phạt hành chính về các hành vi quy định tạo các tội trên cũng có ý nghĩa như quy định đã xử phạt hành chính về các hành vi quy định tại các tội trên cũng có ý nghĩa như quy định đã xử phạt hành chính hành vi quy định về tội sản xuất, buôn bán hàng giả.

Theo quy định tại Điều 11 pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính: “… nếu qua một năm kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt hoặc từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt mà không tái phạm thì được coi là chưa có vi phạm pháp luật.” thì “… đã bị xử phạt hành chính mà còn vi phạm…” là trường hợp người co hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả nhưng giá trị hàng giả tương đương với giá trị của hàng thật là dưới 30 triệu đồng nhưng không gây ra hậu quả nghiêm trọng thì bị phát hiện và bị xử phạt hành chính nhưng chưa hết hạn một năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt hoặc chưa chấp hành xong quyết định xử phạt thì lại có hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả. Việc người này đã vi phạm lại tiếp tục vi phạm như vậy thể hiên tính ngoan cố của chủ thể vi phạm do vậy cần xử lý thật nghiêm minh. Việc quy định còn cho thấy chính sách hình sự của nhà nước ta là tương đối tiến bộ; trước tiên là giáo dục sau đó mới xử lý  bằng hình phạt.

Dấu hiệu “ đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi  phạm” là trường hợp người phạm tội đã có bản án kết tội về một trong các hành vi quy định tại Điều 153,154,155,156,157,158,159 và 161 của BLHS… chưa chấp hành xong hình phạt hoặc đã chấp hành xong hình phạt  nhưng trong thời gian thử thách lại có hành vi sản xuất buôn bán hàng giả. Đây là các trường hợp tái phạm hoăc tái phạm nguy hiểm (Điều 49 BLHS ).

Qua quy định trên, ta thấy được thái độ nghiêm khắc của nhà nước đối với hành vi phạm tội liên tiếp này. Các quy định đã thể hiện một chính sách hình sự tiến bộ của nhà nước ta nó vừa mang tính giáo dục vừa nghiêm minh đối với những tội phạm ngoan cố, không chịu hối cải.
2.Mặt chủ quan của tội sản xuất, buôn bán hàng giả .

Tội phạm là một thể thống nhất của hai mặt khách quan và chủ quan. Mặt khách quan là những biểu hiện ra bên ngoài của tội phạm, còn mặt chủ quan của tội phạm là hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội. Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm: lỗi, mục đích, động cơ, trong đó lỗi là dấu hiệu được phản ánh trong tất cả các cấu thành tội phạm. 

“ Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý”.

Một người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội bị coi là có lỗi nếu hành vi đó là kết quả của sự tự lựa chọn của họ trong khi có đủ điều kiện khách quan và chủ quan để lựa chọn và thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội.

Đối với “tội sản xuất, buôn bán hàng giả”, hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng: người thực hiện hành vi quy định tại Điều 156,157,158 được thực hiện với lỗi cố ý. Tuy nhiên, để xác định đây là lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp thì có nhiều quan điểm trái ngược nhau: 

Quan điểm thứ nhất cho rằng lỗi của tội phạm này là lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội biết rõ  hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả do mình thực hiện là nguy hiểm cho xã hội trái pháp luật nhưng vẫn mong muốn thực hiên hành vi đó.

Quan điểm thứ hai cho rằng người thực hiện hành vi sản xuất, buơn bán hàng giả là do lỗi cố ý (cố ý trực tiếp, hoặc cố ý gián tiếp) người thực hiện các hành vi này, nhận thức rõ các hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước được hậu quả của hành vi và mong muốn cho hậu quả xảy ra hoặc bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. 

Chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ nhất bởi tội sản xuất, buôn bán hàng giả có cấu thành hình thức. Hậu quả nguy hiểm cho xã hội không phải là dấu hiệu bắt buộc co nên việc xác định ý chí của người phạm tội đối với hậu quả nguy hiểm cho xã hội không được đặt ra. Người phạm tội đã nhận thức tính chất nguy hiểm cho xã hội của các hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả song vẫn luôn mong muốn thực hiện các hành vi đó. Do vậy, lỗi trong trường hợp này phải được xác định là lỗi cố ý trực tiếp. 

Vì tội sản xuất và buôn bán hàng giả gồm hai hành vi khách quan là hành vi sản xuất hàng giả và hành vi buôn bán hàng giả. Đối với hành vi sản xuất hàng giả luôn được người thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiệp đối với hành vi buôn bán hàng giả thì vấn đề lỗi lại có quan điểm khác nhau: 

Có quan điểm cho rằng hành vi buôn bán hàng giả có thể được thực hiện với lỗi cố ý của người phạm tội. Có nghĩa là có trường hợp người phạm tội thực hiên hành vi với lỗi cố ý: biết rõ là hàng giả mà vẫn buôn bán, nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn mong muốn thực hiện hành vi; có trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi với lỗi vô ý: họ thực hiện hành vi buôn bán hàng giả nhưng không biết hàng hóa mình đang buôn bán là hàng giả, họ không nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội mặc dù phải thấy trước hoặc có thể thấy trước. Do vậy, nếu một người nào có hành vi buôn bán hàng giả với lỗi vô ý nếu không xảy ra hậu quả nghiêm trọng thì không bi truy cứu trách nhiệm hình sự.

Quan điểm khác cho rằng hành vi buôn bán hàng giả được quy định trong tội phạm này luôn được người phạm tội thực hiện với lỗi cố ý: Biết rõ hàng hóa mình đang mua bán là giả nhưng vẫn mua bán để thu lợi bất chính.

Chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ hai này vì theo quy định của nhà nước và pháp luật đối với cơ sở kinh doanh phải kiểm sóat được chất lượng hàng hoá mà mình bán ra. Mặt khác trong thực tiễn xét xử tội này của các tòa án nước ta, thì tòa án rất ít quan tâm đến xác định hành vi phạm tội đó có lỗi cố ý hay vô ý mà chủ yếu quan tâm đến mức độ nguy hiểm cho xã hội để truy cứu việc xử lý TNHS hay không.

Ngoài yếu tố lỗi, trong mặt chủ quan của tội phạm còn có các yếu tố khác như đông cơ phạm tội , mục đích phạm tội. Động cơ là động lực bên trong thuc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội cố ý. Nhìn chung, động cơ phạm tội không có ý nghĩa quyết định đến tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Hầu hết các điều luật đều không quy định dấu hiệu động cơ phạm tội trong cấu thành tội phạm. Đối với tội sản xuất, buôn bán hang giả, thì động cơ phạm tội cũng không phải là dấu hiệu bắt buộc khi định tội hoặc quyết định hình phạt. Tuy nhiên việc lam rõ động cơ phạm tội trong từng trường hợp cụ thể để nắm bắt nguyên nhân của tội phạm sẽ giúp nhà nước đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và xây dựng các chính sách kinh tế xã hội phù hợp. Thực tế động cơ phạm tội này chủ yếu là do lòng tham, vụ lợi.

Các chủ thể thực hiện tội phạm đều hướng tới những mục đích nhất định. Mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm tội đặt ra phải đạt được khi thực hiện hành vi phạm tội. Tội sản xuất, buôn bán hang giả được thực hiện lỗi cố ý trực tiếp do vậy mục đích phạm tội là luôn tồn tại. Chủ thể thực hiện hành vi này nhằm mục đích thu lợi bất chính và cạnh tranh không lành mạnh. Do vậy khi giải quyết vụ án phải xác định người phạm tội có mục đích thu lợi bất chính hay không. Nếu không có mục đích này thì không thể định tội danh là sản xuất, buôn bán hàng giả. 

Ví dụ: Một người làm ra một loại hàng giả (giả chiếc võng xếp Duy Lợi) nhưng chỉ để phục vụ cho gia đình người đó mà khong dựng để bán hay kinh doanh, do vậy họ không có mục đích thu lợi bất chính. Người đó không phạm tội buôn bán hàng giả.

Như vậy, mặt chủ quan của tội sản xuất, buôn bán hàng giả đều nhằm đạt được mục đích nhất định, nhưng mục đích thu lợi bất chính, cạnh tranh không lành mạnh là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này. Việc xác định động cơ phạm tội không có ý nghĩa đối với việc định tội.

2.2Hình phạt đối với tội sản xuất , buôn bán hàng giả.

Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt luôn thể hiện chính sách hình sự của nhà nước ta không chỉ mang tính chất của các biện pháp cưỡng chế, trấn áp hình phạt bổ sung, hai loại này có liên kết chặt chẽ với nhau.

Đối với “tội sản xuất, buôn bán hàng giả” thì hình phạt cũng bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung.

2.2.1. Hình phạt chính

Hình phạt chính cuả tội sản xuất, buôn bán hàng giả quy định tại Điều 156157,158  là hình phạt tiền, tự có thời hạn, tự chung thân hoặc tử hình.

Điều 156:

“ 1.Người nào sản xuất, buôn bán hàng giả … thì bi phạt tù từ sáu tháng đến năm  năm…
  2.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tự từ ba năm đến mười  năm…
  3.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tự từ bảy năm đến mười lăm  năm”.

Điều 157:
“1.Người nào sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh tì phạt tù từ hai năm đến bảy năm …
 2.Phạm tôi thuộc một trong  các trường hợp sau đây, thì bị phạt tự từ năm năm đến mười hai năm…
 3.Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tự từ mười hai năm đến hai mươi năm ...
 4.Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tự hai mươi năm, tự chung thân hoặc tử hình.”

Điều 158:
“1.Người nào sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dựng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật , giống cây trồng, vật nuôi…thì bị  phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm …
 2.Phạm tội thuộc một trong các truờng hợp sau đây, thì bị phạt tự từ ba năm đến mười năm …
 3.Phạm tôi trong truờng hợp hàn giả có số lượng đặc biệt lớn hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tự từ bảy năm đến mười lăm năm.”

Hình phạt tự có thời hạn là hình phạt buộc người bị kết án phải cách ly khỏi xã hội trong thời hạn nhất định để học tập, lao động, cải tạo. Nó tước đoạt quyền tự do các nhân của người phạm tội trong một khoảng thời gian nhất định.

Điều 156 quy định hình phạt chính chỉ là hình phạt tự có thời hạn. Cho thấy thái độ của nhà nước đối với tội phạm này là cần phải đấu tranh bằng cách tước đoạt tự do của người phạm tội. Tuy nhiên, thì việc quy định của nhà nước là chưa thực sự hợp lý. Theo quan điểm của chúng tôi thì, đối với các tội phạm mà mục đích thu lợi là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm thì đưa ra hình phạt để trừng trị đúng với mục đích phạm tội đó. Như vậy thì có khả năng hạn chế tội phạm hơn. Bởi vậy đối với tội phạm này nên bổ sung thêm hình phạt tiền làm hình phạt chính. Việc bổ sung này sẽ giúp tòa án mở rộng khả năng lựa chọn hình phạt phù hợp với tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, đặc điểm nhân thân và hoàn cảnh kinh tế của người phạm tội.

Điều 157 quy định hình phạt chính bao gồm : hình phạt tự có thời hạn, tự chung thân hoặc tử hình. Trong đó hình phạt tự chung thân là hình phạt tự không có thời hạn được áp dụng trong truờng hợp đặc biệt nghiêm trọng nhưng chưa đến mức bị xử phạt tử hình, và tử hình là hình phạt đặc biệt, có nội dung cưỡng chế nghiêm khắc nhất tước bỏ quyền sống của người bị kết án, chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Hai hình phạt tự chung thân, tử hình chỉ áp dụng trong trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng (khoản 4), quy định này thể hiện thái độ của nhà nước ta đối với hành vi sản xút, buôn bán loại hàng giả này là rất nghiêm khắc do những nguy hiểm mà nó gây ra  ngoài tác động xấu cho xã hội nhưng đặc biệt nó còn có thể trực tiếp ảnh hưởng tới tính mạng của con người. Việc quy định hình phạt như vậy không chỉ có ý nghĩa trừng trị người phạm tội mà nó còn có ý nghĩa dăn đe đặc biệt đối với những người có ý định phạm tội này.

Điều 158 quy định hình phạt chính bao gồm: hình phat tiền hoặc tự có thời hạn. Phạt tiền là hình phạt tước của người phạm tội khoản tiền nhất định sung công quỹ nhà nước. Điều luật này quy định hai hình phạt chính như vây theo chúng toi là khá hợp lý hơn so với Điều 156,157. Quy định này không chỉ hạn chế mục đích phạm tội và còn tạo thuân lợi cho cơ quan xét xử trong viẹc áp dụng hình phạt, mặc dù mức phạt tiền ở đây là còn thấp chưa phù hợp với thực tế.

Khoản 2 Điều 156,157,158 quy định các tình tiết: có tổ chức; có tính chuyên nghiệp; tái phạm nguy hiểm; lợi dụnh chức vụ, quyền hạn; lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; hàng giả tương đương với số lượng hàng thật có giá trị từ một trăm năm mươi triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; thu lợi bất chính lớn; gây hậu quả nghiêm trọng. Đây là khung hình phạt tăng nặng thứ nhất của tội sản xuất, buôn bán hàng giả. Các tình tiết định khung:

Có tổ chức: là trường hợp đồng phạm sản xuất, buôn bán hàng giả có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người căng thực hiên phạm tội. Trong trường hợp này những người đồng có sự liên kết chặt chẽ với nhau và phân hóa, vai trò, nhiệm vụ một cách tương đối rõ rệt, cụ thể, có người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức, người thực hành. Tội phạm có tổ chức thường có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn so với các loại tội phạm thông thường. Do đó, BLHS năm 1999 quy định tình tiết là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tại điểm a khoản 1 Điều 48. Tại Điều 156 thì “ có tổ chức” được quy định là tình tiết tăng nặng định chung tại khoản 2.

Có tính chất chuyên nghiệp: Theo nghị quyết số 01/2006/NQ- HĐTP ngày 15/2/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS thì chỉ áp dụng tình tiết “ phạm tội có tính chuyên nghiệp” khi có các điều kiện đầy đủ sau đây:

“a) Cố ý phạm tội từ năm lần trở lên về cùng một tội phạm không phân biệt đã bị truy cứu TNHS hay chưa bị truy cứu TNHS nếu chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS hoặc chưa được xóa án tích;
 b) Người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội là nguồn sống chính”.

Theo hướng dẫn của này thì người thực hiện hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả được coi là phạm tội “ có tính chất chuyên nghiệp”, khi có đủ hai điều kiện sau:

Phạm tội 5 lần trở lên về tội sản xuất, buôn bán hàng giả, không phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu TNHS, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS hoặc chưa được xóa án tích.

Người thực hiện hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn thu chính.

Tình tiết này phải phản ánh hành vi phạm tội có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn so với các trường hợp phạm tội thông thường. Tội phạm có tính chất chuyên nghiệp, có khả năng thực hiện hành vi phạm tội một cách thường xuyên với những thủ đoạn hết sức tinh vi, xảo quyệt gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế.

Tái phạm nguy hiểm: Theo khoản 2 Điều 49 BLHS thì những trường hợp sau đây bị coi là tái phạm nguy hiểm:

“ a) Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý;
  b) Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý.”

Như vậy người thực hiện hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm khi: Người phạm tội đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả tại khoản 2, khoản 3 Điều 156,157,158 và khoản4 Điều157 BLHS.

Người phạm tội đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả không phân biệt thuộc trường hợp quy định tại khoản nào của các Điều 156,157,158 BLHS.

Tình tiết này phản ánh đặc điểm xấu về nhân thân, thái độ coi thường pháp luật của người phạm tội. Do vậy, nhà làm pháp luật quy định trường hợp này là tình tiết tăng nặng TNHS tại khoản 2 Điều 156,157,158.

So với khoản 2 Điều 167 BLHS năm 1985 thì khoản 2 Điều 156,158 BLHS năm 1999 quy định khung hình phạt nhẹ hơn. Đối với hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả được thực hiện trước 0h00’ ngày 01/7/2000 mà sau 0h00’ ngày 01/7/2000 mới bị phát hiện áp dụng theo khoản 2 Điều 156,158 BLHS năm 1999 (căn cứ vào khoản 3 Điều 7 BLHS).

Lợi dụng chức vụ,quyền hạn: Đây là trường hợp chủ thể của tội phạm là chủ thể đặc biệt, là những người có chức vụ quyền hạn (quy định tại khoản 3 Điều luật phòng chống tham nhũng năm 2005). Chủ thể của tội phạm này là người có chức vụ quyền hạn nên họ có điều kiện dễ dàng thực hiện và che dấu tội phạm, họ không những xâm phạm trật tự quản lý kinh tế mà còn ảnh hưởng tới hoạt động bình thường của cơ quan nhà nước nơi họ đang làm việc. Chính vì vậy, việc trừng trị nghiêm khắc đối với các chủ thể kinh tế có hành vi phạm tội là cần thiết.

Lợi dụng danh nghĩa của cơ quan tổ chức: là trường hợp người phạm tội sử dụng trái phép uy tín, quyền hạn của cơ quan, tổ chức mà mình là thành viên để dễ dang thực hiện hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả. Hình thức phạm tội này diễn ra khá phổ biến. Như nhân viên thủ kho, nhân viên kinh doanh tuồn hàng giả vào trộn lẫn với hàng thật mang hàng thật ra ngoài bán để kiếm lời… Hành vi phạm tội này rất khó phát hiện và có ảnh hưởng lớn tới uy tín của cơ quan, tổ chức mà người đó lợi dụng.

Hàng giả  tương đương với số lượng hàng thật có giá trị từ 150 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng: việc các nhà lập pháp đưa ra dấu hiệu định lượng hàng giả này là rất tiến bộ, nó giúp cho việc xét xử được dễ dang trong việc quyết định hình phạt đối với người phạm tội. Với số lượng hàng giả như trên được đánh giá là có tính nguy hiểm rất lớn cho xã hội cho nên cần phải nghiêm khắc trừng trị.

Thu lợi bất chính lớn: vấn đề này chưa được sự hướng dẫn cụ thể của cơ quan chức năng. Thực tế xét xử cho thây cơ quan tiến hành tố tụng thông thường không tính được người phạm tội thu lợi bất chính là bao nhiêu mà chỉ tính được giá trị của hàng phạm pháp.

Gây hậu quả rất nghiêm trọng(điểm h khoản2 điều156, điểm e khoản2 điều 158 và khoản 3 điều157) Dấu hiệu này chưa được giải thích cụ thể từ phái các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Cần có sự hướng dẫn cụ thể của các cơ quan nhà nước.

Khoản 3 Điều 156 quy định:

“ Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì phạt tù từ 7 năm đến 15 năm:
  a) Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên;
  b)Thu lợi bất chính rất lớn hoặc đặc biệt lớn;
  c)Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.” 

Đây là khung tăng năng thứ hai của Điều 156. Chủ thể thực hiện hành vi phạm tội thuộc các trường hợp quy đinh tại khoản 3 Điều này sẽ phải chịu mức hình phạt tự từ 7 năm đến 15 năm như:

Hàng giả tương đương với số lượng hàng thật có giá trị từ 5 triệu đồng trở lên: cũng như quy định định lượng hàng giả  tại khoản 2 Điều 156. Việc định lượng như thế này là rất tiến bộ, thể hiện được tính nguy hiểm của hành vi phạm tội.

Thu lợi bất chính lớn hoặc đặc biệt lớn: cũng không có hướng dẫn cụ thể của cơ quan chức năng.

Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng: hiện nay, chưa có hướng dẫn cụ thể nào của cơ quan có thẩm quyền nhưng việc gây hậu quả nghiêm trọng này là có người chết hoặc nhiều người bị tổn hại sức khỏe, thiệt hại vật chất là đặc biệt lớn… Do vậy cần phải trừng trị nghiêm khắc. Dấu hiệu này còn được quy định tại khoản 4 điều 157 và khoản 3 điều 158.

Điều 158 còn quy định dấu hiệu “hàng giả…với số lương lớn”và“ hàng giả có số lượng đặc biệt lớn” , dấu hiệu này cũng không được hướng dẫn cụ thể nhưng theo chúng tôi thì nhà làm luật nên quy định định lượng khối lượng hàng giả như quy định tại Điều 156

Khoản 3 Điều 156,157,158 BLHS năm 1999 quy định khung hình phạt nhẹ hơn rất nhiều khoản 3 Điều 167 BLHS năm 1985. Khoản 3 Điều 167 BLHS năm 1985 (sửa đổi năm 1992) quy định mức cao nhất của khung hình phạt là tử hình. Do vậy, nên đối với những người phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả thực hiện dưới 0h00’ ngày 01/7/2000 mà sau 0h00’ ngày 01/7/2000 mới bị phát hiện thì áp dụng khoản 3 Điều 156 BLHS năm 1999 theo quy định Điều 7 BLHS.

2.2.2. Hình phạt bổ sung:

Hình phạt bổ sung đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả được quy định tại khoản 4 Điều 156,158 và khoản5 Điều157 BLHS :

“ Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”

Hình phạt tiền được đưa vào làm hình phạt bổ sung với mức phạt từ năm triệu đồng đên 50 triệu đồng khi áp dụng có thể được áp dụng cho tất cả các khoản của Điều 156,157,158.

Tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản: là việc tịch thu số hàng giả hoặc hàng giả và toàn bộ máy móc vật liệu làm ra hàng giả dể tiêu thụ hoặc tái sử dụng.

Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định. Đây là hình phạt bổ sung được áp dụng khi xét xử nếu người bị kết án tiếp tục đảm nhiệm công vụ, hành nghề hoặc làm công việc đó thì có thể lại có điều kiện phạm tội mới. Chủ thể phải chịu khung hình phạt này chỉ có thể là người có chức vụ, hành nghề hoặc làm công việc nhất định mà khi phạm tội đã sử dụng chính chức vụ, nghề nghiệp hoặc công việc ấy để dễ dàng thực hiện tội phạm. Thời hạn của hình phạt này là từ 1 năm đến 5 năm tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và yêu cầu phòng ngừa tội phạm. Thời điểm bắt đầu của thời hạn được tính từ ngày chấp hành xong hình phạt tự hoặc từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật nếu trong trường hợp người phạm tội được cho hưởng án treo.

Nhìn chung, Điều 156,157,158 BLHS đã quy định một cách khá đầy đủ, toàn diện tội sản xuất, buôn bán hàng giả về hình phạt.

2.3. Phân biệt Tội sản xuất, buôn bán hàng giả với tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Điều 171-BLHS). 

Tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 156,157,158) và tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Điều 171) cùng được tách ra từ Điều 167 BLHS năm 1985.

“Người nào vì mục đích kinh doanh mà chiếm đoạt, sử dụng, bất hợp pháp sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp khác đang được báo hộ tại Việt Nam gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị phạt tiền từ hai mươi triệu đồng đến hai trăm triệu đồng hoặc cải tạo không giam giữ đến hai năm….” (Khoản 1 – Điều 171). 

Theo quy định của điều 171, chúng ta thấy khách thể của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là trật tự quản lý kinh tế, sử dụng bất hợp pháp quyền sở hữu công nghiệp như sáng chế, những giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp của hàng hóa, tên gọi xuất xứ hàng hóa của các doanh nghiệp được nhà nước Việt Nam bảo hộ.

Mặt khách quan của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp thể hiện ở hành vi dựng các thủ đoạn khác nhau nhằm chiếm đoạt hoặc cố ý sử dụng bất hợp pháp các đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp được bảo hộ. Hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp chỉ cấu thành tội phạm  nếu hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

So với Điều 156,157,158 thì đối tượng tác động của tội phạm của Điều 171 có sự khác biệt như đã phân tích tại 2.1.1.

Hình phạt được quy định tại Điều 171 nhẹ hơn nhiều so với hình phạt được quy định tại Điều 156,157,158.

Tuy nhiên trong thực tiễn xét xử vấn đề này vẫn chưa được hướng dẫn cụ thể rõ ràng và cũng chưa có sự thống nhất quan điểm về đối tượng tác động của tội sản xuất, buôn bán hàng giả và đối tượng tác động của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. 

Chính vì vậy mà trong thực tế xét xử hiên nay, một người có hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả về hình thức nhưng các tòa án hầu như không phân biệt loại hàng đó là đối tượng tác động của Điều 156,157,158 hay là đối tượng tác động của Điều 171 mà thường xét xử theo các Điều 156,157,158.


Do vậy cần có sự hướng dẫn cụ thể của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về vấn đề này. 

No comments:

Post a Comment