Bài tập học kỳ Tố tụng Dân sự - Thủ tục tố tụng dân sự áp dụng trong trường hợp đương sự vắng mặt ở Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm khi giải quyết vụ án dân sự và thực tiễn thực hiện.
Thủ tục tố tụng dân sự áp dụng trong trường hợp đương sự vắng mặt ở Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm khi giải quyết vụ án dân sự.
1. Trường hợp đương sự vắng mặt do việc triệu tập của Tòa án không hợp lệ
Để bảo đảm quyền tham gia tố tụng của đương sự, một trong những vấn đề mang tính nguyên tắc là Tòa án phải tiến hành triệu tập hợp lệ đương sự. Theo quy định tại khoản 1 Điều 150 BLTTDS năm 2004 thì “Việc cấp, tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng được thực hiện theo quy định của Bộ luật này thì được coi là hợp lệ”. Chương X của BLTTDS năm 2004 quy định về việc cấp, tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng. Theo đó, việc triệu tập đương sự có thể thực hiện thông qua thủ tục tống đạt, thông báo trực tiếp, qua bưu điện hoặc người thứ ba được ủy quyền, niêm yết công khai hoặc thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng. Việc tiến hành các thủ tục triệu tập này phải thực hiện theo đúng thủ tục được quy định tại các Điều 151, 152, 153, 154, 155, 156 của BLTTDS năm 2004 được xác định là triệu tập hợp lệ. Vì vậy, nếu Tòa án đã triệu tập đương sự nhưng việc triệu tập đó được thực hiện không theo đúng thủ tục do BLTTDS quy định thì việc triệu tập đó được xác định là không hợp lệ. Tòa án triệu tập không hợp lệ đương sự thì về nguyên tắc việc triệu tập đó không có giá trị pháp lý. Do vậy, nếu đương sự vắng mặt trong trường hợp này, Tòa án phải hoãn phiên tòa để triệu tập lần tiếp theo. Nếu đương sự không được triệu tập hợp lệ nhưng Tòa án vẫn tiến hành việc xét xử vắng mặt đương sự thì việc xét xử đó được xác định là có sự vi phạm nghiêm trọng về tố tụng vì đã không bảo đảm quyền tham gia tố tụng của đương sự.
2. Trường hợp Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng đương sự vắng mặt
2.1. Thủ tục tố tụng dân sự áp dụng trong trường hợp đương sự vắng mặt ở Tòa án cấp sơ thẩm khi giải quyết vụ án dân sự
Ở giai đoạn xét xử sơ thẩm, Tòa án đã tiến hành việc triệu tập hợp lệ đương sự để tham gia phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự nhưng đương sự vắng mặt thì tùy từng trường hợp Tòa án cần xem xét đương sự vắng mặt là nguyên đơn hay bị đơn hay người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan? Đương sự vắng mặt có lý do chính đáng hay không có lý do chính đáng? Lần vắng mặt đó là lần thứ mấy để có biện pháp xử lý phù hợp. Cụ thể như sau:
Đối với trường hợp Tòa án triệu tập hợp lệ, đương sự vắng mặt nhưng có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt hoặc có người đại diện hợp pháp tham gia: Theo quy định tại Điều 202 BLTTDS năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011(sau đây gọi là BLTTDS năm 2011) thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án trong trường hợp:
“1. Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người đại diện của họ vắng mặt tại phiên tòa có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt;
2. Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa nhưng có người đại diện tham gia phiên tòa”.
Như vậy, khi Tòa án triệu tập hợp lệ, đương sự vắng mặt nhưng có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt hoặc không có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt nhưng có người đại diện hợp pháp tham gia phiên tòa thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.
Đối với trường hợp Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất: Khoản 1 Điều 199 BLTTDS năm 2011 quy định: “Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất, đương sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có mặt; trường hợp có người vắng mặt thì Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt”. Theo quy định này, khi Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất mà đương sự vắng mặt dù có lý do chính đáng hay không có lý do chính đáng thì Tòa án đều phải hoãn phiên tòa. Thời hạn hoãn phiên tòa sơ thẩm là không quá ba mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên tòa (khoản 1 Điều 208 BLTTDS năm 2011). Việc pháp luật tố tụng dân sự quy định hoãn phiên tòa trong trường hợp Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất mà đương sự vắng mặt dù có lý do chính đáng hay không là phù hợp với thực tiễn xét xử của Tòa án hiện nay, đảm bảo được sự bình đẳng giữa các đương sự. Bởi vì khi Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất mà đương sự vắng mặt thì thông thường ngay vào thời điểm đương sự vắng mặt Tòa án vẫn chưa có cơ sở xác định việc vắng mặt là có lý do chính đáng hay không có lý do chính đáng. Hơn nữa, do điều kiện thông tin liên lạc ở các vùng nông thôn còn chưa thuận tiện, trình độ hiểu biết pháp luật của người dân còn hạn chế nên trong nhiều trường hợp họ không thể đến tham gia phiên tòa nhưng cũng không kịp thông báo cho Tòa án. Nếu trường hợp này mà Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ thì quyền lợi của họ không được đảm bảo.
Đối với trường hợp Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai:
Nếu đương sự vắng mặt vì sự kiện bất khả kháng: BLTTDS hiện hành không quy định hướng xử lý trong trường hợp Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, đương sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt vì sự kiện bất khả kháng nhưng khoản 3 Điều 28 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS (sau đây gọi là Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP) có hướng dẫn như sau: “Trường hợp đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đã nhận được quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định tại khoản 2 Điều 195 của BLTTDS, đã được Tòa án tống đạt hợp lệ giấy triệu tập phiên tòa theo quy định tại các điều từ Điều 150 đến Điều 156 của BLTTDS và đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đã chuẩn bị tham gia phiên tòa xét xử vụ án, nhưng do sự kiện bất khả kháng xảy ra đối với họ vào trước thời điểm Tòa án mở phiên tòa hoặc ngay trong thời điểm họ đang trên đường đến Tòa án để tham gia phiên tòa (do thiên tai, địch họa, bị tai nạn, ốm nặng phải đi bệnh viện cấp cứu, người thân bị chết,…) nên họ không thể có mặt tại phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án, thì Tòa án cũng hoãn phiên tòa”. Tuy nhiên, Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP lại không nêu rõ hướng dẫn trên áp dụng đối với trường hợp Tòa án triệu tập hợp lệ đương sự đến lần thứ mấy. Rõ ràng, đối với trường hợp Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất, đương sự vắng mặt dù có lý do chính đáng hay không có lý do chính đáng Tòa án đều phải hoãn phiên tòa. Cho nên, cần phải hiểu đây là hướng dẫn cho trường hợp Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai trở đi mà đương sự vẫn vắng mặt tại phiên tòa khi có lý do chính đáng.
Trường hợp do Tòa án không nhận được thông báo từ phía đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nên vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt họ, nếu sau khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, đương sự có khiếu nại và chứng minh được việc họ vắng mặt tại phiên tòa là do sự kiện bất khả kháng, thì khiếu nại cần được xem xét theo thủ tục tái thẩm.
Như vậy, khi Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, đương sự vắng mặt tại phiên tòa nhưng vì sự kiện bất khả kháng thì Tòa án vẫn phải hoãn phiên tòa.
Nếu đương sự vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng: Trong trường hợp Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, đương sự phải có mặt tại phiên tòa, nếu vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng thì tùy từng trường hợp sẽ được giải quyết như sau:
- “Nguyên đơn, người đại diện theo pháp luật vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện và Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu khởi kiện của người đó, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Nguyên đơn có quyền khởi kiện lại, nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn” (điểm a khoản 2 Điều 199 BLTTDS năm 2011).
Như vậy, trừ trường hợp đặc biệt việc vắng mặt của nguyên đơn là do sự kiện bất khả kháng như phân tích trên đây thì khi Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa sơ thẩm mà nguyên đơn vắng mặt thì Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Nếu nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt thì Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt nguyên đơn.
- “Bị đơn vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt họ” (điểm b khoản 2 Điều 199 BLTTDS năm 2011).
Trường hợp bị đơn có yêu cầu phản tố được triệu tập hợp lệ lần thứ hai vắng mặt và không có người đại diện tham gia phiên tòa mà không vì sự kiện bất khả kháng thì Tòa án đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu phản tố của bị đơn, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn có yêu cầu phản tố có quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu phản tố đó, nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn (Điều 27 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP).
- “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt họ” (điểm b khoản 2 Điều 199 BLTTDS năm 2011).
“Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ yêu cầu độc lập của mình và Tòa án quyết định đình chỉ việc giải quyết đối với yêu cầu độc lập của người đó, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu độc lập đó, nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn” (điểm c khoản 2 Điều 199 BLTTDS năm 2011).
2.2. Thủ tục tố tụng dân sự áp dụng trong trường hợp đương sự vắng mặt ở Tòa án cấp phúc thẩm khi giải quyết vụ án dân sự
Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xem xét lại phần của bản án, quyết định sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị (Điều 263 BLTTDS). Theo quy định tại Điều 264 BLTTDS năm 2011, những người tham gia phiên tòa phúc thẩm bao gồm: “Người kháng cáo, đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đến việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải được triệu tập tham gia phiên tòa…”. Khi Tòa án triệu tập hợp lệ các đương sự tham gia phiên tòa phúc thẩm mà đương sự vắng mặt thì theo quy định tại Điều 266 BLTTDS năm 2011 và hướng dẫn tại Điều 16 Nghị quyết số 06/2012/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ ba “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm” của BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS thì tùy từng trường hợp Tòa án phải giải quyết như sau:
Đối với trường hợp Tòa án triệu tập hợp lệ, đương sự vắng mặt ở phiên tòa phúc thẩm nhưng có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt hoặc có người đại diện hợp pháp tham gia: Trong trường hợp này thì Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt họ.
Đối với trường hợp Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất: Trong mọi trường hợp, Tòa án phúc thẩm triệu tập hợp lệ lần thứ nhất, đương sự vắng mặt thì Hội đồng xét xử phúc thẩm phải hoãn phiên tòa mà không phân biệt họ vắng mặt có lý do chính đáng hay không có lý do chính đáng.
Đối với trường hợp Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai:
Nếu đương sự vắng mặt vì sự kiện bất khả kháng: Trong trường hợp này Tòa án cấp phúc thẩm cũng phải hoãn phiên tòa nếu thuộc trường hợp hướng dẫn tại khoản 3 Điều 28 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS.
Nếu đương sự vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng:
- Nếu đương sự là người kháng cáo: Người kháng cáo đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng thì bị coi là từ bỏ việc kháng cáo và Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án có kháng cáo của người kháng cáo vắng mặt (nếu trong vụ án không có người kháng cáo khác).
Trường hợp có nhiều người kháng cáo mà có người kháng cáo thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 266 của BLTTDS, thì Hội đồng xét xử phúc thẩm tiến hành xét xử phúc thẩm vụ án theo thủ tục chung đối với kháng cáo của những người kháng cáo có mặt tại phiên tòa.
Trường hợp có nhiều người kháng cáo mà có người kháng cáo vắng mặt thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 266 của BLTTDS và phần vụ án có kháng cáo của người kháng cáo vắng mặt đó độc lập và không liên quan đến phần khác của bản án bị kháng cáo, kháng nghị, thì Hội đồng xét xử phúc thẩm đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần vụ án có kháng cáo của người kháng cáo vắng mặt mà không phải ra quyết định riêng bằng văn bản, nhưng phải ghi rõ trong bản án.
Trong quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm phải ghi rõ bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật.
- Nếu đương sự không phải là người kháng cáo: Trong trường hợp Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, đương sự không phải là người kháng cáo mà vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm không vì sự kiện bất khả kháng thì Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt họ để xét kháng cáo của chủ thể khác hoặc kháng nghị của Viện kiểm sát.
No comments:
Post a Comment