Bài tập Hình sự - Lý luận về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
1.1. Khái niệm về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
1.1.1 Khái niệm về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo pháp luật hình sự Việt Nam
Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là hành vi nguy hiểm cho xã hội, những hành vi này không chỉ trực tiếp xâm phạm trật tự công cộng, an toàn xã hội mà còn cản trở hoạt động đúng đắn của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc điều tra, xử lý người phạm tội, gián tiếp khuyến khích người khác phạm tội, phạm tội nhiều lần [4, 23]. Do vậy theo luật hình sự Việt Nam, hành vi này được coi là tội phạm từ rất sớm. Công ước của Liên Hợp Quốc về phòng chống tội phạm có tổ chức, mafia thì tài sản được định nghĩa như sau: “Tài sản là mọi của cải dù là vật chất hay phi vật chất, động sản hay bất động sản, hữu hình hay vô hình và các văn bản hay văn kiện pháp lý là bằng chứng cho việc sở hữu hoặc lợi ích cho những của cải đó”. Còn tài sản do người khác phạm tội mà có là “bất cứ tài sản nào bắt nguồn hay có được một cách trực tiếp hay gián tiếp từ việc phạm tội” [14, 2]
Ở Việt Nam, tài sản để thục hiện hành vi tiêu thụ ở đây bao gồm: “vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản” [6, 83]. Như vậy, đối tượng của tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có chỉ có thể là tài sản. Tài sản do người khác phạm tội mà có, có thể là tài sản của Nhà nước, của tổ chức, hoặc của công dân. [16, 446] Người tiến hành hoạt động tiêu thụ ở đây rất đa dạng thể hiện dưới các hình thức khác nhau nhằm thu lợi bất chính. Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là hành vi mua, trao đổi, nhận hoặc giúp cho việc mua bán, trao đổi tài sản mình biết rõ là tài sản do hành vi phạm tội của người khác mà có (do trộm cắp tài sản, cướp tài sản…)[34,764]. Hành vi phạm tội của người khác đó có thể là bất kỳ tội phạm nào đựơc quy định trong BLHS mà kết quả trực tiếp của nó là chủ thể có được tài sản một cách bất hợp pháp. Hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội ở tội này được thực hiện không có sự hứa hẹn trước với người có tài sản do phạm tội mà có. Do vậy, hành vi tiêu thụ không có tác động đến việc thực hiện tội phạm của người có tài sản do phạm tội mà có. Đây là điểm khác so với hành vi giúp sức trong đồng phạm. Hành vi có hứa hẹn trước có tác động đến việc thực hiện tội phạm do đó được coi là hành vi giúp sức trong đồng phạm.
1.1.2. Vài nét về sự hình thành của tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
1.1.2.1. Dưới chế độ phong kiến đến trước cách mạng tháng 8 năm 1945
Ở thời kỳ này pháp luật nước ta phải kể đến bộ luật Hồng Đức hay còn gọi là Quốc triều hình luật. Mặc dù chưa có định nghĩa pháp lý về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, nhưng bộ luật đã đề cập loại tội phạm này tại nhiều điều luật. Điều 294 Quốc triều hình luật quy định: “Giữa ban ngày ăn cắp vặt cũng xử tội đồ, đã lấy được của thì phải bồi thường một phần tang vật. Những kẻ chứa chấp thì bị buộc tội nhẹ hơn một bậc và bắt bồi thường một phần ba tang vật. Kẻ biết việc mà không cáo giác bị tội nhẹ hơn hai bậc”. Trong điều luật này hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được các nhà làm luật đánh giá là ít nguy hiểm hơn so với tội không tố giác tội phạm. Hành vi chứa chấp và tiêu thụ thường gắn liền với nhau.
Quốc triều hình luật còn đề cập tới tội phạm này tại điều 460: “Những kẻ nhận tài vật của kẻ ăn trộm, thay đổi hình dạng rồi đem bán thì xử nhẹ hơn tội ăn trộm một bậc. Nếu vì nhầm mà nhận những đồ vật ấy, thì chỉ phạt 60 trượng, biếm, biếm hai tư. Nếu không biết mà mua những đồ vật ấy, thì truy số tiền mua ở người bán, còn đồ vật thì được trả lại cho chủ mất”. Như vậy tại điều luật này, người mua phải đồ gian nhưng ngay tình thì được lấy lại số tiền đã mua ở người bán còn đồ gian thì được trả lại cho người mất trộm. Đây là quy định hợp lý thể hiện trình độ lập pháp rất cao của bộ luật Hồng Đức. Ngay từ rất sớm, tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có đã được các nhà làm luật phong kiến đưa vào và xử phạt nghiêm khắc không thua kém những người có hành vi trộm cắp.
Tại khoản 6, điều 351, Hoàng Việt hình luật cũng đề cập tới tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có song song với các hành vi chứa chấp: “người nào tri tình mà oa trữ một phần hay toàn phần của trộm cướp hoặc của lừa gạt hoặc của gì do phạm tội đại hình mà lấy được, thì người oa trữ sẽ bị phạt một nửa tội danh mà luật đã định phạt về tội đại hình ấy và về trọng hình trong tội đại hình ấy mà người oa trữ đã tri tình. Tuy nhiên nếu tội danh ấy là tử hình hay khổ sai chung thân, thì người oa trữ sẽ bị phạt khổ sai từ 6 năm đến 20 năm”.
Từ những quy định trên, có thể thấy tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có đã được Hoàng Việt hình luật đề cập rất cụ thể. Theo bộ luật, loại tội phạm này không chỉ liên quan tới tội trộm cắp như trong Quốc triều hình luật, mà còn có thể liên quan tới tội phạm khác. Mặc dù trong điều luật chưa đề cập khá cụ thể về định nghĩa pháp lý của tội này nhưng đây có thể xem là bước tiến bộ đáng kể trong kỹ thuật lập pháp hình sự đối với tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trong Hoàng Việt hình luật.
1.1.2.2. Từ cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước năm 1985
Nhà nước luôn coi hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là tội phạm.
Thời kỳ đầu, tại sắc lệnh số 26/SL ngày 25 tháng 2 năm 1946 trừng trị nghiêm khắc những kẻ phá hoại cầu cống, đường giao thông, dây điện thoại… đã đề cập tới tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có như sau: “những kẻ oa trữ các dây điện thoại hay dây điện tín cũng bị phạt như những kẻ ăn trộm các đồ vật ấy”. Trong quy định này phạm vi đồng phạm được quy định rộng, bao gồm cả hành vi oa trữ, tức là hành vi tiêu thụ và chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có, không phân biệt có hứa hẹn trước hay không.
Có thể thấy rằng, luật cũng chưa quy định tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có thành tội danh riêng mà coi việc xử phạt người có hành vi này như là người chính phạm, không phân biệt giữa hành vi oa trữ là đồng phạm nếu có hứa hẹn trước với hành vi oa trữ không phải là đồng phạm mà là tội danh riêng biệt nếu không có sự hứa hẹn trước [33, 7].
Để quy định cụ thể hơn về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, Nhà nước đã ban hành pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa tại điều 17 và pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân tại điều 13 (ban hành vào ngày 21 tháng 10 năm 1970). Trong các văn bản này thì tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có mới được quy định thành chương riêng.
Nhưng theo hai pháp lệnh này, tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có có khách thể là quan hệ sở hữu và được xếp vào nhóm tội cố ý trực tiếp xâm hại tới tài sản. Hơn nữa, trong các pháp lệnh đó cũng chưa có sự phân biệt giữa hành vi tiêu thụ và hành vi chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có là tội phạm độc lập nếu không có sự hứa hẹn, thỏa thuận trước giữa những người chứa chấp, tiêu thụ với những người có tài sản do chiếm đoạt mà có. Sự phân biệt hành vi chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có cấu thành tội độc lập với hành vi chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có có cấu thành hành vi đồng phạm được thể hiện trong văn bản giải thích luật liên nghành của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ công an [29, 207]
1.1.2.3. Từ năm 1985 đến trước khi BLHS năm 1999 có hiệu lực
Trong BLHS năm 1985, tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được quy định thành tội danh riêng tại điều 201. Điều luật này quy định phạm vi áp dụng rộng hơn so với hai pháp lệnh được ban hành ngày 20 tháng 10 năm 1970, không chỉ với tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản riêng của công dân mà còn cả những tài sản khác, không chỉ tiêu thụ cho người phạm tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và người xâm phạm tài sản riêng của công dân mà cho tất cả các hành vi phạm tội. Điều luật này quy định như sau:
“1. Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm .
2. Phạm tội một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 3 năm đến 12 năm.
a. Có tổ chức
b. Tài sản có số lượng hoặc có giá trị lớn
c. Tái phạm nguy hiểm”.
Ngoài ra theo các khoản 2, 3 điều 218 BLHS năm 1985 người phạm tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có còn có thể bị quản chế hoặc cấm cư trú từ 1 năm hoặc 5 năm, bị phạt tiền từ một ngàn đồng đến 50 ngàn đồng và có thể bị tịch thu một phần tài sản. Từ đây, tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có không còn được coi là tội cố ý trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản mà là tội xâm phạm trật tự công cộng có khách thể trực tiếp là trật tự công cộng.
BLHS cũng phân biệt trường hợp chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có cấu thành tội độc lập với trường hợp chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có cấu thành hành vi đồng phạm bằng việc quy định: “Người nào không hứa hẹn trước…”. BLHS cũng không giới hạn đối tượng của tội phạm này như trong pháp lệnh 1 và 2 (được ban hành ngày 20 tháng 10 năm 1970) mà mở rộng đối tượng của tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, không chỉ là tài sản bị chiếm đoạt mà còn là tài sản do người khác phạm bất cứ tội gì mà có.
Trong lần sửa đổi bổ sung BLHS năm 1985 (lần thứ 2 năm 1991), quy định về hình phạt của tội này đã được sửa đổi theo hướng phân hóa trách nhiệm hình sự một cách rõ hơn. Cụ thể, điều 201 được cấu tạo bởi ba khung hình phạt, trong đó có một số tình tiết định khung tăng nặng được quy đinh bổ sung thêm. Đồng thời, hình phạt tiền là hình phạt bổ sung thay đổi từ một nghìn đồng đến năm mươi nghìn đồng thành từ 1 triệu đồng tới 50 triệu đồng.
Như vậy, BLHS năm 1985 đã có một số điểm tiến bộ sau:
- Thứ nhất, tội danh tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trong luật hình sự sửa đổi có tính khái quát cao hơn, nội hàm rộng, chính xác hơn.
- Thứ hai, thể hiện sự phân hóa trách nhiệm hình sự trong luật, tạo điều kiện cá thể hóa trong áp dụng luật
1.1.2.4. Từ năm 1999 cho tới nay
Kế thừa những điểm lập pháp tiến bộ của BLHS năm 1985, hiện nay tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được quy định tại điều 250 của BLHS năm 1999 và nằm trong chương XIX về các tội phạm xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng:
"Điều 250. Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
1. Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức.
b) Có tính chất chuyên nghiệp.
c) Tài sản, vật phạm pháp có giá trị lớn.
d) Thu lợi bất chính.
e) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ năm năm đến mười năm:
a) Tài sản, vật phạm pháp có giá trị rất lớn.
b) Thu lợi bất chính rất lớn.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Tài sản, vật phạm pháp có giá trị đặc biệt lớn.
b) Thu lợi bất chính đặc biệt.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này."
Như vậy, so với quy định tại điều 201 BLHS năm 1985 tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được quy định tại điều 250 bộ luật hình sự năm 1999 có những điểm sửa đổi và bổ sung như sau:
- Về cơ cấu, ngoài hình phạt bổ sung, điều 250 BLHS năm 1999 cấu tạo thành 4 khoản tương ứng với 4 khung hình phạt (Điều 201 có 3 khoản).
- Bổ sung các tình tiết “tài sản, vật phạm pháp có giá trị rất lớn, đặc biệt lớn, thu lợi bất chính lớn, rất lớn, đặc biệt lớn” là yếu tố khung hình phạt; bỏ tình tiết “tài sản, vật phạm pháp có số lượng lớn, phạm tội thuộc trường hợp đặc biệt nghiệm trọng” là yếu tố định khung hình phạt.
- Bổ sung hình phạt tiền là hình phạt chính quy định tại khoản 1 của điều luật và tăng mức hình phạt cải tạo không giam giữ lên ba năm; hình phạt bổ sung được quy định trong một điều luật và tăng mức phạt từ một triệu đến năm triệu lên từ ba triệu đến ba mươi triệu và bổ sung hình phạt tịch thu toàn bộ tài sản mà BLHS năm 1985 chỉ quy định tịch thu một phần tài sản.
Ngoài ra, quy định của BLHS năm 1999 có một số điểm mới sau đây:
Thứ nhất: tại khung cơ bản, có bổ sung thêm hình phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng, nâng mức hình phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm và nâng mức khởi điểm của hình phạt tù có thời hạn lên 6 tháng.
Thứ hai: tiếp tục phân hoá trách nhiệm hình sự trong luật bằng việc quy định ba khung hình phạt tăng nặng, trong đó có quy định các tình tiết tăng nặng định khung hình phạt củ thể như: có tổ chức, có tính chuyên nghiệp, tài sản, vật phạm pháp có giá trị lớn, thu lợi bất chính lớn; tài sản, vật phạm pháp có giá trị đặc biệt lớn, thu lợi bất chính có giá trị đặc biệt lớn.
Thứ ba, quy định thêm hình phạt bổ sung để tăng mức trừng phạt, răn đe đối với loại tội phạm này.
1.2. Dấu hiệu pháp lý về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo quy định của BLHS năm 1999
“Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong bộ luật hình sự, do người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hay vô ý” [8,19]và “chỉ người nào phạm một tội đã được bộ luật hình sự quy định thì mới coi là tội phạm…”[8,15].
Khi xem xét một hành vi vi phạm pháp luật có phải là tội phạm hay không chúng ta phải xem xét một cách tổng thể các yếu tố cấu thành tội phạm, tội phạm là tổng hợp thống nhất giữa các yếu tố khách quan và chủ quan gồm những bộ phận cấu thành chúng. Cấu thành tội phạm được tạo thành tổng hợp các dấu hiệu pháp lý đặc trưng: mặt khách quan, khách thể, chủ thể, mặt chủ quan. Những dấu hiệu của của cấu thành tội phạm là căn cứ để xác định một hành vi vi phạm pháp luật nào đó có phải là tội phạm hay không, để từ đó làm cơ sở pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi phạm tội.
1.2.1. Khách thể của tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
“Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị các hành vi phạm tội xâm hại đến”. [17, 79] Khách thể trực tiếp của tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là trật tự quản lí nhà nước đối với tài sản do phạm tội mà có. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, tội phạm này lại chủ yếu xâm phạm đến hoạt động điều tra, thu hồi tài sản có nguồn gốc do phạm tội mà có. Nhiều trường hợp hành vi tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có đã gây ảnh hưởng đến việc điều tra phát hiện tội phạm, tạo điều kiện khuyến khích những người khác đi vào phạm tội, có trường hợp làm cho việc điều tra phát hiện bị bế tắc phải tạm đình chỉ hoặc đình chỉ điều tra vì không thu hồi được tài sản do phạm tội mà có.
1.2.2. Mặt khách quan của tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện của tội phạm ra bên ngoài thế giới khách quan bao gồm hành vi khách quan, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ giữa hành vi và hậu quả, công cụ phương tiện, phương pháp thủ đoạn, hoàn cảnh, địa điểm phạm tội.
1.2.2.1. Hành vi khách quan
Tội phạm này quy định hai hành vi phạm tội khác nhau nhưng lại có liên quan với nhau, đó là hành vi chứa chấp và hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Vì vậy, khi xác định tội danh (định tội) cần chú ý: nếu người phạm tội chỉ thực hiện hành vi chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có hoặc chỉ thực hiện hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có thì chỉ định tội “chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có” hoặc tội “tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” chứ không định tội như điều luật quy định “chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có”. Nếu người phạm tội thực hiện cả hai hành vi chứa chấp và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có thì định tội là “chứa chấp và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Chúng ta cần phân biệt rõ hai loại hành vi này để xác định rõ trách nhiệm pháp lý.
Thứ nhất là đối với hành vi chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có. Đây là trường hợp biết rõ đó là tài sản do người khác phạm tội mà có nhưng vẫn cất giữ, bảo quản. Việc cất giữ, bảo quản có thể ở bất cứ địa điểm nào; có trường hợp chỉ cất giữ trong túi áo, túi quần hoặc trong người. Nếu tài sản do người khác phạm tội mà có lại là đối tượng phạm tội của tội phạm khác thì người có hành vi chứa chấp tài sản đó bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng mà bộ luật hình sự quy định đối với hành vi tang trữ các loại tài sản đó.
Ví dụ: Đào Thị L biết rõ Nguyễn Văn T trộm cắp được một gói thuốc phiện có trọng lượng 0.5kg. T nhờ L giữ hộ khi nào cần T sẽ lấy. Khi cơ quan điều tra khám nhà L vì L có hành vi tổ chức đánh bạc thì phát hiện 0,5 kg thuốc phiện. L khai của T gửi. Hành vi cất giữ 0.5 kg thuốc phiện của Đào Thị L là hành vi chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có nhưng L không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này mà bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma túy qui định tại điều 194 BLHS năm 1999.
Thứ hai là hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Đây là trường hợp biết rõ tài sản có được là tài sản do người phạm tội nhưng vẫn nhận hoặc mua để dùng, nhận để bán lại hoặc giới thiệu để người khác mua, chuyển tài sản đó cho người khác theo yêu cầu của người phạm tội…Cũng như đối với trường hợp chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có, nếu người phạm tội có hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có và tài sản đó là đối tượng của tội phạm khác thì người có hành vi tiêu thụ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng theo quy định của BLHS.
Ví dụ: Bùi Văn H là thủ kho vật liệu nổ của công ty Z175 đã lấy thuốc nổ trong kho đem gạ bán cho Đỗ Trung Q. Q biết rõ thuốc nổ mà H gạ bán cho mình là thuốc nổ do H chiếm đoạt nhưng vẫn mua. Hành vi tiêu thụ thuốc nổ do H phạm tội mà có của Q sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “mua bán trái phép vật liệu nổ” qui định tại điều 232 bộ luật hình sự.
Dù là tội chứa chấp hay tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, thì người chứa chấp hoặc tiêu thụ chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm này nếu họ không hứa hẹn trước. Nếu người có hành vi hoặc tiêu thụ có hứa hẹn trước với người phạm tội thì họ phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm mà người phạm tội thực hiện để có tài sản mà họ tiêu thụ.
Việc xác định có sự hứa hẹn trước hay không hứa hẹn trước của người tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trong một số trường hợp rất khó. Trước năm 1989, người tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có tuy không hứa hẹn trước nhưng cứ tiêu thụ nhiều lần của một người phạm tội thì bị coi là đồng phạm với người phạm tội.
Như vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng phải chứng minh người có hành vi chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có phải là người không hứa hẹn trước với người khác do phạm tội mà có tài sản đó. Nếu có căn cứ xác định người có hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có lại là người đã hứa hẹn trước với người khác do phạm tội mà có được tài sản đó thì người có hành vi tiêu thụ tài sản đó là đồng phạm với người do phạm tội mà có được tài sản đó (người khác phạm tội gì thì người tiêu thụ tài sản phạm tội đó).
1.2.2.2 Hậu quả
Tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có không quy định hậu quả gây ra do hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt. Tuy nhiên, nếu hậu quả do hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có gây ra cấu thành tội phạm độc lập thì người phạm tội còn bị truy cứu về các tội phạm tương ứng.
1.2.2.3 Các dấu hiệu khách quan khác
Tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có không quy định thêm các dấu hiệu khách quan khác là yếu tố cấu thành tội phạm hoặc là yếu tố định khung hình phạt. Tuy nhiên, khi xác định hành vi tiêu thụ trong một số trường hợp cần chú ý: nếu người khác tuy có hành vi phạm tội nhưng hành vi đó chưa tới mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì người có hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có cũng chưa cấu thành tội phạm.
Ví dụ: Hồ Trung H trộm cắp được một chiếc xe đạp Trung Quốc trị giá 460.000 đồng đem bán cho Trần Thị D chuyên bán buôn xe đạp cũ lấy 200.000 đồng. D biết chiếc xe đạp mà H bán cho mình là do H trộm cắp nhưng vẫn mua. Sau một thời gian, H bị bắt vì hành vi trộm cắp xe máy, H khai đã bán cho D chiếc xe đạp trộm cắp trước đó. Cơ quan điều tra đến thu hồi chiếc xe đạp trả lại cho người bị mất nhưng không khởi tố Trần Thị D về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Bởi vì nếu chỉ tính hành vi trộm cắp xe đạp của H thì chưa đủ cấu thành tội phạm vì chiếc xe trị giá chưa đến 500.000 đồng và trước khi H thực hiện hành vi trộm cắp chiếc xe đạp thì H cũng chưa bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc chưa bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản. Ngoài ra, hành vi trộm cắp xe đạp của H cũng chưa gây ra hậu quả nghiêm trọng.
1.2.3. Chủ thể của tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
“Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt một độ tuổi nhất định và đã thực hiện một hành vi phạm tội” [26,33]. Trong đó, năng lực trách nhiệm hình sự là khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi ấy. Còn độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điều 12 BLHS năm 1999:
“Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm”
Như vậy, chủ thể của tội phạm này là người có năng lực trách nhiệm hình sự, từ đủ 16 tuổi trở lên, đã thực hiện hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Ngoài ra, đối với trường hợp người thực hiện hành vi tiêu thụ ở độ tuổi từ đủ 14 đến 16 tuổi thì phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
1.2.4. Mặt chủ quan của tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của tội phạm. Đó là những biểu hiện về mặt tâm lý của người phạm tội, khi thực hiện hành vi phạm tội bao gồm lỗi, động cơ, mục đích.
1.2.4.1. Dấu hiệu lỗi
“Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý”.[17,128]
Người phạm tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có thực hiện hành vi của mình là do cố ý, tức biết rõ tài sản mà mình tiêu thụ là tài sản do người khác phạm tội mà có. Nếu vì một lý do nào đó mà họ không biết thì hành vi tiêu thụ tài sản đó không bị coi là hành vi phạm tội.
Việc xác định người tiêu thụ tài sản có biết rõ là do người khác phạm tội mà có hay không là một vấn đề khó, vì họ không bao giờ tự nhận mình biết rõ tài sản mà họ tiêu thụ là do người khác phạm tội mà có và thường khai rằng, nếu biết đó là của gian thì không bao giờ tiêu thụ cả. Vì vậy, để xác định người có hành vi tiêu thụ tài sản có biết rõ là do người khác phạm tội mà có hay không phải căn cứ vào các tình tiết khách quan mà đặc biệt là nhân thân và mối quan hệ giữa họ với người có tài sản do phạm tội mà có. Thông thường để xác định người tiêu thụ tài sản có biết rõ là tài sản do người khác phạm tội mà có phải căn cứ vào việc giao dịch giữa người tiêu thụ với người có tài sản.
Ví dụ: Lê Văn Kính biết Vũ Quốc Huy là con bạc đã nhiều lần đem xe đạp đến bán cho mình, Kính biết những chiếc xe đạp mà Huy bán cho mình là do đánh bạc mà có. Ngày 20- 10- 2007 Vũ Quốc Huy đem một xe máy đến nhờ Kính bán hộ; tuy không hỏi nhưng Kính biết rõ chiếc xe máy mà Huy nhớ mình bán hộ là do đánh bạc mà có nên nhận lời với Huy là cứ để đấy có ai mua thì bán hộ. Sau khi vụ án đánh bạc và tổ chức đánh bạc bị phát hiện, theo lời khai của Huy, cơ quan điều tra đến thu hồi chiếc xe máy mà Huy nhờ Kính bán hộ thì Kính khai rằng không biết xe do Huy phạm tội mà có. Tuy nhiên, căn cứ vào mối quan hệ giữa Kính và Huy, cơ quan điều tra vẫn kết luận Kính biết rõ chiếc xe máy mà Huy nhờ Kính bán là tài sản do Huy phạm tội mà có.
Điều luật quy định "biết rõ là do người khác phạm tội mà có" nhưng không vì thế mà cho rằng, người tiêu thụ tài sản phải biết người phạm tội là ai và họ phạm tội gì, mà chỉ cần biết rõ tài sản mà mình tiêu thụ là tài sản do người khác phạm tôi mà có.
Nhà làm luật quy định "do người khác phạm tội "mà không quy định "do phạm tội" là bảo đảm tính chuẩn xác. Vì nếu chỉ nói do phạm tội là chưa đủ vì hành vi phạm tội có thể do một tổ chức, cơ quan thực hiện. Mà theo quy định của BLHS Việt Nam thì không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với cơ quan, tổ chức. Vì vậy, nếu người tiêu thụ tài sản không do người khác phạm tội mà có thì cũng không bị coi là hành vi phạm tội.
1.2.4.2. Động cơ phạm tội
“Là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội cố ý”. [17,144]
Động cơ phạm tội của loại tội phạm về tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có ở đây là động cơ vụ lợi.
Mục đích không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này
1.3. Đường lối xử lý tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
1.3.1. Đường lối xử lý tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo khoản 1, 2, 3, 4 điều 250 BLHS năm 1999
Để cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm này có hiệu quả, góp phần làm hạn chế và tiến tới loại bỏ dần nó ra khỏi đời sống xã hội và thể hiện tinh thần chủ động phòng ngừa tội phạm. BLHS năm 1999 đã đưa ra đường lối xử lý tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có qua 4 khung hình phạt cơ bản và 1 khung hình phạt bổ sung. Cụ thể:
- Theo quy định tại khoản 1 điều 250 BLHS, thì người phạm tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng, phạt cảnh cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến ba năm, là tội phạm ít nghiêm trọng. Đây là trường hợp phạm tội không có tình tiết tăng nặng.
Khi quyết định hình phạt, nếu người có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt tiền hoặc cải tạo không giam giữ: nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến 3 năm tù.
- Theoquy định tại khoản 2 điều 250 BLHS năm 1999 thì người phạm tội bị phạt tù từ 2 năm đến 7 năm áp dụng đối với người phạm tội trong trường hợp có một trong các tình tiết định khung tăng nặng: có tổ chức, có tính chuyên nghiệp. Đây là tội phạm nghiêm trọng.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, nếu chỉ thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt dưới 2 năm tù hoặc được chuyển sang hình phạt cải tạo không giam giữ; nếu thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật và có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến 7 năm tù.
- Theo quy định tại khoản 3 điều 250 BLHS năm 1999 thì người phạm tội bị phạt tù từ 5 năm đến 10 năm áp dụng đối với người phạm tội trong trường hợp có một trong các tình tiết định khung tăng nặng ở khoản 3 điều 250: có tài sản, vật phạm pháp có giá trị rất lớn, thu lợi bất chính lớn. Đây là tội phạm rất nghiêm trọng.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, nếu chỉ thuộc một trong hai trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt dưới 5 năm năm tù nhưng không được dưới 2 năm tù. Nếu thuộc cả hai trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật hoặc tuy chỉ thuộc một trường hợp nhưng tập trung nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 của điều luật và có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bi phạt đến 10 năm tù.
- Theo quy định tại khoản 4 điều 250 BLHS năm 1999 thì người phạm tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có bị phạt tù từ 7 năm đến 15 năm áp dụng đối với trường hợp tài sản vật phạm pháp có giá trị đặc biệt lớn, thu lợi bất chính đặc biệt lớn. Đây là tội phạm rất nghiêm trọng.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, nếu chỉ thuộc một trong hai trường hợp quy định tại khoản 4 của điều luật và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt dưới 7 năm tù nhưng không được dưới 5 năm tù. Nếu thuộc cả hai trường hợp quy định tại khoản 4 của điều luật hoặc tuy chỉ thuộc một trường hợp nhưng tập trung nhiều tình tiết quy định tại khoản 2, khoản 3 của điều luật và có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến 15 năm tù.
- Ngoài hình phạt chính, người phạm tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến 30 triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này.
Khi áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với người phạm tội cần chú ý chỉ áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung nếu không áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính.
1.3.2. Tình tiết định khung tăng nặng
1.3.2.1. Có tổ chức
Cũng như trường hợp phạm tội có tổ chức khác, phạm tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có tổ chức là trường hợp có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức.
Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có có tổ chức thường được biểu hiện như: chuẩn bị kho, bãi chứa hàng, tổ chức mạng lưới tiêu thụ, làm giả giấy tờ, mua hoá đơn, chứng từ, mua chuộc cán bộ có chức vụ quyền hạn để tiêu thụ tài sản dễ dàng…
1.3.2.2. Có tính chất chuyên nghiệp
Cũng tương tự như trường hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp khác, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có có tính chất chuyên nghiệp là thể hiện ở chỗ người phạm tội lấy việc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là nguồn sống chính cho mình.
1.3.2.3. Tài sản, vật phạm pháp có giá trị lớn, rất lớn, đặc biệt lớn
- Tài sản, vật phạm pháp có giá trị lớn
Đây là trường hợp người phạm tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có mà tài sản họ tiêu thụ có giá trị lớn.
- Tài sản, vật phạm pháp có giá trị rất lớn
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm c, khoản 2 của điều luật, chỉ khác là tài sản, vật phạm pháp mà người phạm tội tiêu thụ có giá trị rất lớn.
- Tài sản, vật phạm pháp có giá trị đặc biệt lớn
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm c khoản 2, điểm a khoản 3 của điều luật, chỉ khác là tài sản, vật phạm pháp mà người phạm tội tiêu thụ có giá trị đặc biệt lớn.
1.3.2.4. Thu lợi bất chính lớn, rất lớn, đặc biệt lớn
- Thu lợi bất chính lớn
Trường hợp phạm tội này có thể coi tương tự như trường hợp phạm tội có tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc thu lợi bất chính lớn nên có thể vận dụng Nghị Quyết số 02/2003/NQ- HĐTP ngày 17 tháng 4 năm 2003 của hội đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao hướng dẫn trường hợp thu lợi bất chính đối với tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc. Cụ thể là thu lợi bất chính do hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có từ 5 triệu đồng đến dưới 15 triệu đồng là thu lợi bất chính lớn.
- Thu lợi bất chính rất lớn
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 của điều luật, chỉ khác là do chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có mà người phạm tội thu lợi bất chính rất lớn.
Được coi là thu lợi bất chính rất lớn do hành vi chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có từ 15 triệu đồng đến dưới 45 triệu đồng.
- Thu lợi bất chính đặc biệt lớn
Trường hợp phạm tội ngày cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm d khoản 2, điểm b khoản 3 của điều luật, chỉ khác là do chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có mà người phạm tội thu lợi bất chính đặc biệt lớn.
Được coi là thu lợi bất chính đặc biệt lớn do hành vi chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có từ 45 triệu đồng trở lên.
1.3.2.5. Tái phạm nguy hiểm
Tương tự như trường hợp tái phạm nguy hiểm đối với người phạm tội với người phạm các tội khác, người phạm tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm là người đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do lỗi cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 điều 250 bộ luật hình sự hoặc đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
Như vậy, người phạm tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm chỉ có thể là trường hợp tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, vì nếu đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội thuộc quy định tại khoản 3 điều 250 BLHS năm 1999 thì người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 của điều luật.
No comments:
Post a Comment