Quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một quyền quan trọng của công dân khi tham gia tố tụng với tư cách là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa là nguyên tắc Hiến định được ghi nhận trong tất cả các bản Hiến pháp đã ban hành của nước ta. Đồng thời đây cũng là một nguyên tắc đặc thù của luật Tố tụng hình sự (TTHS).Việc thực hiện nguyên tắc này trên thực tế đã góp phần không nhỏ vào việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; giúp cơ quan điều tra (CQĐT), Viện kiểm sát (VKS) và Toà án giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ.
Tuy nhiên, thực tiễn TTHS cho thấy, việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa được thực hiện một cách đầy đủ, nhiều cơ quan tiến hành tố tụng (THTT), người THTT và những người tham gia tố tụng vẫn còn xem nhẹ nguyên tắc này. Tình trạng bắt, giam giữ, xét xử oan sai vẫn còn tồn tại trên thực tế tố tụng. Mặt khác, vấn đề lý luận của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa: khái niệm, chủ thể, nội dung của quyền bào chữa; khái niệm nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo... vẫn cần được nghiên cứu và làm sáng tỏ.
Đề tài: nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một đề tài mang tính lý luận và thực tiễn sâu sắc; đây cũng là đề tài gây cho em nhiều hứng thú nghiên cứu và tìm hiểu trong quá trình học tập tại trường. Mục đích nghiên cứu của em khi lựa chọn đề tài này là: Nghiên cứu nhằm làm rõ một số vấn đề lý luận chung về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; Làm rõ nội dung và sự thể hiện của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong pháp luật TTHS hiện hành; Nghiên cứu thực trạng thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, tìm hiểu những hạn chế vướng mắc, nguyên nhân của chúng từ đó đưa ra các kiến nghị, giải pháp khắc phục hạn chế và hoàn thiện pháp luật.
Để đạt được những mục đích nghiên cứu trờn, trờn cơ sở của phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử chúng tôi đã sử dụng những phương pháp như: so sánh, phân tích, tổng hợp, lụgic...
Kết cấu của khoá luận gồm lời nói đầu, ba chương, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo.
Đây là lần đầu tiên nghiên cứu khoa học, kiến thức lý luận và thực tế chưa đầy đủ nên những thiếu sót trong khoá luận là không thể tránh khỏi, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và các bạn sinh viên.
�CHƯƠNG 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ, BỊ CAN, BỊ CÁO
1.1. Khái niệm quyền bào chữa và nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
Lịch sử xã hội loài người là lịch sử của các cuộc đấu tranh giành các quyền dân chủ và tiến bộ. Các quyền tự do, dân chủ mà con người có được ngày nay là kết quả của quá trình đấu tranh lâu dài, bền bỉ của những lực lượng tiến bộ chống lại những thế lực độc tài, phản dân chủ trên thế giới. Một trong những quyền dân chủ mà con người giành được trong các cuộc đấu tranh này là quyền bào chữa. Ở tất cả các nước tiến bộ trên thế giới, quyền bào chữa đều đã được ghi nhận, được coi là nguyên tắc Hiến pháp và được cụ thể hoá trong những quy định của Bộ luật TTHS. Tính đến nay, Nhà nước ta đã ban hành bốn bản Hiến pháp và trong tất cả các bản Hiến pháp đó đều ghi nhận nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong TTHS.
Quyền bào chữa là một chế định quan trọng của luật TTHS nhưng khái niệm, chủ thể, nội dung của quyền bào chữa vẫn còn là những vấn đề gây tranh cãi giữa các nhà khoa học pháp lý cũng như những cán bộ làm công tác áp dụng pháp luật.
Quan điểm thứ nhất là quan điểm trong luật TTHS một số nước thuộc hệ thống pháp luật Common Law: TTHS được coi là bắt đầu từ thời điểm vụ án hình sự được chuyển sang Toà án và quyền bào chữa chỉ thuộc về bị cáo.
Quan điểm thứ hai cho rằng: quyền bào chữa thuộc về bị can, bị cáo(1).
Quan điểm thứ ba cho rằng: trong TTHS, bị can, người bị tình nghi cũng như những công dân tham gia trong tố tụng với tư cách khác trong đó có cả người bị hại đều cần có sự bảo vệ các lợi ích có thể bị xâm phạm. Như vậy, theo tác giả thì quyền bào chữa có cả trong trường hợp mà ở đó không có sự buộc tội. Cùng quan điểm như vậy, một số tác giả khác cũng cho rằng: “ Không chỉ có bị cáo mà người bị hại cũng cần đến việc bào chữa. Nhân chứng, giám định viên và những người khác cũng vậy nếu quyền lợi của họ bị xâm hại”(2).
Quan điểm thứ tư: quyền bào chữa trong TTHS là tổng hoà các hành vi tố tụng do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án thực hiện trên cơ sở phù hợp với quy định của pháp luật nhằm phủ nhận một phần hay toàn bộ sự buộc tội của các cơ quan THTT, làm giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự của mình trong vụ án hình sự(1).
Quan điểm thứ năm là quan điểm trong Bộ luật TTHS Việt Nam năm 2003: quyền bào chữa thuộc về người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Ngoài các quan điểm trên trong Bộ luật TTHS của các nước trên thế giới cũng có những quan điểm hết sức khác nhau về chủ thể của quyền bào chữa.
Bộ luật TTHS Liên Bang Nga quy định: “Người bào chữa được tham gia tố tụng từ khi nhận được quyết định khởi tố bị can, trong trường hợp người bị tình nghi thực hiện tội phạm bị tạm giữ hoặc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam trước khi khởi tố bị can thì từ khi nhận được biên bản về việc bắt hoặc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam”. (Điều 47)(2).
Theo Bộ luật TTHS Nhật Bản thì quyền bào chữa chỉ thuộc về người bị tình nghi và bị cáo. Điều 30 Bộ luật này quy định: “Bị cáo hoặc người bị tình nghi có thể lựa chọn luật sư bất cứ lúc nào”(3).
Để tìm hiểu rõ hơn về các quan điểm trên trước hết chúng ta hãy đi tìm hiểu khái niệm người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Người bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đó cú quyết định tạm giữ. (khoản 1 Điều 48 Bộ luật TTHS năm 2003).
Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự. (khoản 1 Điều 49 Bộ luật TTHS năm 2003).
Bị cáo là người đã bị Toà án quyết định đưa ra xét xử. (khoản 1 Điều 50 Bộ luật TTHS năm 2003).
Trong các xã hội công dân, đặc biệt là trong xã hội XHCN, người công dân được hưởng những quyền và lợi ích hết sức rộng lớn, Hiến pháp và pháp luật ghi nhận và bảo đảm cho việc thực hiện các quyền này. Điều 71 Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam quy định: “Cụng dõn có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hội về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhõn phẩm…Nghiờm cấm mọi hình thức bức cung, dùng nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của cụng dõn”.
Quyền bào chữa là một trong rất nhiều quyền của công dân, là bộ phận hợp thành của quyền được bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình. “Bào chữa là hành vi của một người đưa ra các tình tiết và chứng cứ chứng minh cho sự không có lỗi hoặc làm giảm lỗi của mỡnh”. Vì vậy, quyền bào chữa chỉ thuộc về người nào bị coi là có lỗi bao gồm cả lỗi kỷ luật, lỗi hành chính, lỗi dân sự, lỗi hình sự. Quyền bào chữa với ý nghĩa là khái niệm chung bao hàm cả quyền bào chữa của người bị coi là có lỗi hành chính, lỗi kỷ luật, quyền bào chữa của bị đơn dân sự (trong tố tụng Dân sự) và quyền bào chữa của người bị coi là có lỗi hình sự (quyền bào chữa trong TTHS).
Như vậy, quyền bào chữa trong TTHS với quyền bào chữa ở trên có mối quan hệ giữa cái chung với cỏi riờng. Người nào bị coi là có lỗi hình sự, bị buộc tội thì có quyền bào chữa trong TTHS – sau đây gọi tắt là quyền bào chữa.
“Như một chức năng tố tụng, bào chữa tồn tại ở tất cả các giai đoạn của TTHS ở đõu có buộc tội thì ở đó có bào chữa”(1). “Buộc tội trong TTHS là hành vi của các cơ quan THTT nhằm xác định trách nhiệm hình sự đối với người buộc tội trên cơ sở các chứng cứ về hình sự đã được xác định ở thời điểm ấy”(2).
Bị can bị buộc tội bằng quyết định khởi tố bị can, phải chịu những hậu quả pháp lý: bị điều tra hình sự, có thể bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế TTHS…Bị cáo bị buộc tội bằng bản cáo trạng của VKS, hậu quả pháp lý của việc buộc tội này là bị cáo có thể bị kết án, có thể phải chịu hình phạt…Người bị tạm giữ tuy chưa bị buộc tội bằng một văn bản có tính chất pháp lý nhưng đối với họ đó cú quyết định tạm giữ và họ đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế tố tụng là tạm giữ. “Cơ sở coi một người là người bị tình nghi phạm tội là các dữ kiện khách quan và không thể bắt giữ một người khi ĐTV và CQĐT “nghi” là họ phạm tội vì bản thân sự nghi ngờ mang tính chủ quan”(3).
Vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng quan điểm của Bộ luật TTHS Việt Nam 2003 về quyền bào chữa là hoàn toàn chính xác. Quyền bào chữa chỉ thuộc về những chủ thể: người bị tạm giữ, bị can, bị cáo - những người bị buộc tội với nội dung: đưa ra những chứng cứ chứng minh cho sự không có lỗi hoặc làm giảm lỗi của mình (lỗi hình sự). Ngoài những chủ thể trên, những người khác – không chịu sự buộc tội thì không có quyền bào chữa, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình họ có thể sử dụng những quyền năng khác được pháp luật quy định và bảo đảm thực hiện.
Từ những phân tích ở trên, chúng tôi đưa ra khái niệm về quyền bào chữa trong TTHS như sau: “Quyền bào chữa trong TTHS là tổng hoà các hành vi tố tụng do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện trên cơ sở phù hợp với các quy định của pháp luật nhằm phủ nhận một phần hay toàn bộ sự buộc tội của các cơ quan THTT, làm giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự của mình trong vụ án hình sự”.
Khái niệm nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thể được xác định như sau: Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một quy định của luật TTHS trong đó xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa đồng thời quy định các cơ quan THTT có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của pháp luật”.
1.2. Cơ sở của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
1.2.1. Cơ sở lý luận
Ý thức về nhân quyền và việc thực hiện nhân quyền có một quá trình lịch sử lâu dài gắn với lịch sử xã hội loài người và giải phóng con người qua các hình thái kinh tế - xã hội và các giai đoạn đấu tranh giai cấp qua đó quyền con người trở thành giá trị chung của nhân loại. Xuất phát từ con người là một thực thể thống nhất - một “sinh vật – xã hội”, theo chủ nghĩa Mác – Lê nin quyền con người là sự thống nhất biện chứng giữa “quyền tự nhiờn” (như một đặc quyền vốn có và chỉ con người mới có) và “quyền xã hội” - sự chế định bằng các quy chế pháp lý nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Mác cũng khẳng định không có quyền con người chung cho mọi chế độ xã hội mà quyền con người phụ thuộc vào từng phương thức sản xuất nhất định với từng chế độ chính trị xã hội – kinh tế - văn hoá nhất định.
Khái niệm nhân quyền có nguồn gốc từ thời Hy Lạp cổ đại dưới dạng các quyền tự nhiên của con người như quyền được sống… Dưới chế độ chiếm hữu nô lệ, người nô lệ không được coi là con người, không có và không được thừa nhận các quyền con người. Chế độ phong kiến so với chế độ nô lệ đã là một bước tiến trong việc giành lại tự do và giải phóng con người. Giai cấp tư sản là những người đầu tiờn nờu ngọn cờ nhân quyền, biết lợi dụng những tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, vốn là yêu cầu bức thiết của nhân dân lao động, tuyệt đối hoá tự do cá nhân, nhấn mạnh các yếu tố cá nhân trong khái niệm quyền con người – “quyền tư hữu thiờng liờng”. Lần đầu tiờn cỏc quyền con người được ghi nhận trong các văn kiện quan trọng như Tuyờn ngôn độc lập của Mỹ 1776, Tuyên ngôn về quyền con người và quyền công dân của Pháp 1789… Tuy vậy giai cấp Tư sản chỉ tập trung nhấn mạnh quyền dân sự, chính trị, coi nhẹ quyền kinh tế, văn hoá, xã hội - những cơ sở và điều kiện quan trọng để người lao động thoát khỏi đúi nghèo và bóc lột. Cách mạng Tháng Mười Nga đã tạo nên một phạm trù mới về quyền con người: đó là các quyền kinh tế, văn hoá, xã hội. Từ sau chiến tranh Thế giới thứ II, các nước XHCN đã đi đầu trong việc nêu bật các quyền dân tộc cơ bản như một bộ phận thiết yếu của quyền tập thể, đưa ra cách đề cập toàn diện và biện chứng hơn về nhân quyền. Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của loài người, các quyền con người cũng tiếp tục phát triển.
Trong mỗi quốc gia, quyền công dân là một nội dung cơ bản của quyền con người, là sự thể hiện cụ thể của quyền con người. Chúng ta có thể thấy rõ điều này qua Điều 50 Hiến pháp 1992 của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam: “Ở nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật”.
Quyền con người, quyền công dân được chia thành cỏc nhúm chớnh sau :
+ Các quyền tự do, dân chủ về chính trị: tham gia quản lý Nhà nước, bầu cử, bình đẳng nam nữ…
+ Các quyền về kinh tế - xã hội: quyền lao động, quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản hợp pháp, quyền thừa kế…
+ Các quyền dân sự (quyền tự do cá nhân): quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, quyền khiếu nại, tố cỏo…(�)
Các quyền con người đã trở thành một giá trị pháp lý được quốc tế hoá khi Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua bản Tuyên ngôn về nhân quyền ngày 10/12/1948. Khoản 1 Điều 11 tuyên ngôn này khẳng định: “Bị cáo về một tội hình sự được suy đoán là vô tội cho đến khi có đủ bằng chứng phạm pháp trong một phiên toà xét xử công khai với đầy đủ bảo đảm cần thiết cho quyền biện hộ”(2).
Như vậy trước khi có bản án kết tội của Toà án có hiệu lực pháp luật, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vẫn chưa bị coi là người có tội, họ vẫn là những công dân, những con người, chỉ khác là họ đang chịu sự buộc tội và phải chịu những biện pháp tố tụng. Những biện pháp tố tụng được tiến hành đối với họ có thể hạn chế quyền tự do hay động chạm đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được pháp luật bảo hộ về danh dự, nhân phẩm… - những nội dung cơ bản của quyền con người. Để đảm bảo các biện pháp đó được tiến hành một cách cần thiết và hợp pháp tránh được sự độc đoán một chiều từ phớa các cơ quan THTT, pháp luật đã quy định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền bào chữa và cơ chế bảo đảm quyền bào chữa được thực hiện.
Có thể thấy rằng quyền bào chữa là một nội dung cơ bản thể hiện quyền con người và quyền con người là cơ sở lý luận của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa
trong TTHS Việt Nam.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn
Trong TTHS, quá trình nhận thức vụ án diễn ra từ thấp đến cao, từ chỗ chưa nhận thức đến chỗ nhận thức được, từ chỗ nhận thức ít tới chỗ nhận thức nhiều và cuối cùng là từ nhận thức chưa đầy đủ, chưa đúng đắn tới nhận thức đầy đủ và đúng đắn. Việc xác định chân lý khách quan của vụ án không thể thực hiện được nếu chủ thể không sử dụng biện pháp so sánh, đỏnh giỏ cỏc dữ kiện và cọ sỏt cỏc quan điểm khác nhau giữa bên buộc tội và bên bào chữa.
Trong TTHS, chức năng bào chữa tồn tại song song với chức năng buộc tội như một nhu cầu tất yếu khách quan. Nó xuất phát từ mục đích, nhiệm vụ của TTHS được đặt ra đối với tất cả các cơ quan, những người THTT và những người tham gia tố tụng. Sẽ không xuất hiện sự tranh tụng nếu TTHS chỉ đơn thuần hoặc là bào chữa hoặc là buộc tội. Nếu quan niệm buộc tội là chức năng duy nhất của TTHS thì sẽ dẫn đến sai lầm là người ta chỉ chú ý tới các chứng cứ buộc tội mà không chú ý tới các chứng cứ gỡ tội (giảm tội). Điều này đến lượt nó lại gây ra các hiện tượng tiêu cực có thể có như mớm cung, bức cung, hoặc hậu quả tai hại hơn là truy tố, xét xử người vô tội. Ngược lại, nếu quan niệm bào chữa là chức năng duy nhất của TTHS thì có thể dẫn tới hậu quả bỏ lọt tội phạm, không xử lý công minh các hành vi phạm tội và người phạm tội. Cả hai quan niệm trên đều không đúng và rõ ràng, chúng có thể làm giảm hiệu quả của hoạt động TTHS. Nghiêm trọng hơn, chúng là những cản trở cho quá trình xác định chân lý khách quan của vụ án và thực hiện mục đích của TTHS như đã nêu trong Điều 1 của Bộ luật TTHS nước ta.
Chúng ta chắc hẳn đã ít nhiều nghe về “ Vụ án Vườn Điều” - một vụ án kéo dài vào loại nhất nhì trong lịch sử tố tụng, hơn 12 năm, qua 4 lần xét xử, đến nay chấm dứt bằng quyết định đình chỉ điều tra vào tháng 12/2006. Năm 1993, từ phát hiện của người dân, CQĐT Công an Bình Thuận phát hiện nạn nhân nằm chết tại vườn điều nhà ông Hai Hoàng là bà Dương Thị Mỹ. Công an Bình Thuận đã ra quyết định khởi tố vụ án nhưng sau đó phải đình chỉ điều tra vỡ khụng tìm được thủ phạm. Năm năm sau, cũng tại địa phương trên lại xảy ra 1 vụ giết, cướp. Hung thủ trong vụ án Công an Bình Thuận bắt được là Huỳnh Văn Nén (sinh 1962, người địa phương). Qua quá trình tạm giam Nén và điều tra vụ án này xuất hiện nhiều chi tiết cho thấy Nộn cú biết vụ án tại vườn điều nhà ông Hai Hoàng trước đó. Từ lời khai của Nén, Công an Bình Thuận đã phục hồi điều tra vụ án giết bà Mỹ tại vườn điều nhà ông Hai Hoàng, đồng thời đưa ra một kết luận khá tròn trịa. Hung thủ được CQĐT xác định là một tập thể gồm 9 người, đều là người nhà phía vợ ông Trần Văn Sáng - người tình của nạn nhân. Vụ án đã từng được đưa ra xét xử phúc thẩm tới lần thứ 2, và tại phiên toà này, đồng loạt các bị cáo đều phản cung và chối tội. Tại phiên toà, bị cáo Trần Thanh Vân cho biết đã được ĐTV dạy cho 1 tháng mới cú cỏc thông tin để khai trong băng video. Còn bị cáo Lâm cho biết CQĐT đã quay 7 cuộn băng và bắt bị cáo khai đi khai lại nhiều lần để chọn được cuộn băng hoàn chỉnh nhất. Bị cáo Lâm khi phản cung cũng khẳng định rằng, mình nhận tội trước đõy là do ĐTV đã đỏnh gãy răng bị cáo và hứa hẹn với bị cáo: “Bà già rồi, không ai bắt bà làm gì, nếu bà khai ra sẽ được tha”…(�)
Rõ ràng việc không tôn trọng nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo như trên mà vụ án đã rơi vào bế tắc, gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới tự do, danh dự, nhân phẩm của 9 con người trong 1 gia đình.
Từ những phân tích ở trên chúng ta có thể đi đến kết luận rằng việc quy định nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là rất cần thiết xuất phát từ nguyên tắc bảo đảm quyền con người và từ thực tiễn của quá trình tố tụng.
1.3. Ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
Thứ nhất, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là sự thể hiện cụ thể của việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong TTHS.
Vấn đề nhân quyền luôn là điểm nóng của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Đặc biệt, các thế lực phản động và hiếu chiến luôn lấy vấn đề nhân quyền để kích động nhân dân, chống phá cách mạng. Hiện nay, đất nước ta đang trên đà phát triển mạnh mẽ về kinh tế - xã hội nhưng song song với đó, Nhà nước luôn chú ý tới việc phát huy toàn diện quyền tự do, dân chủ của công dân, bảo đảm các quyền con người. Việc Hiến pháp và các văn bản pháp luật có liên quan ghi nhận quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trước các cơ quan THTT và cơ chế bảo đảm việc thực hiện là nhiệm vụ của cơ quan đó đã chứng tỏ bản chất ưu việt của Nhà nước ta.
Thứ hai, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can,bị cáo thể hiện tính nhân đạo XHCN.
Tính nhân đạo được thể hiện, trong những trường hợp theo quy định của pháp luật, nếu bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì CQĐT, VKS hoặc Toà án yêu cầu Đoàn luật sư cử người bào chữa cho họ. Các trường hợp đó là: bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình theo quy định tại Bộ luật hình sự; bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
Thứ ba, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là biểu hiện của tính dân chủ XHCN trong hoạt động TTHS.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đã tạo điều kiện thuận lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có cơ hội đưa ra những chứng cứ minh oan hoặc làm giảm nhẹ tội cho mình, cơ hội được tranh tụng bình đẳng trước Toà án.
Thứ tư, thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo góp phần tích cực vào việc bảo vệ pháp chế XHCN, củng cố lòng tin của quần chúng nhân dân vào hoạt động của hệ thống Tư pháp hình sự.
Thứ năm, thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo góp phần vào việc xác định sự thật khách quan của vụ án, bảo đảm trong quá trình tố tụng không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, bảo đảm điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
1.4. Lịch sử hình thành và phát triển của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo ở Việt Nam
Theo nhận xét của một số nhà nghiên cứu thì quyền bào chữa xuất hiện sớm nhất ở Châu Âu cùng với sự xuất hiện của Toà án và người biện hộ xuất hiện cùng Thẩm phán. Trong Nhà nước Hy Lạp cổ, khi mà tổ chức Toà án đã hình thành, bị cáo được nhờ người thân thuộc của mình bào chữa trước Toà án. Vào giai đoạn đầu của nền Cộng hoà thứ IV trước Công nguyên, chế độ bào chữa bắt đầu phát triển. Việc bào chữa xuất phát tự nhiên nhằm minh oan cho bạn bè, người thân bị giai cấp thống trị bắt giam vô cớ và trừng phạt một cách độc đoỏn. Nó xuất phát từ quyền lợi của nhân dân bị áp bức nên được nhân dân nhiệt tình ủng hộ.(�)
Trong lịch sử, pháp luật thừa nhận nhiều cách bào chữa khác nhau, nhưng ở các chế độ xã hội và kiểu nhà nước khác nhau, trong mỗi giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử do quan điểm giai cấp không giống nhau, quyền bào chữa cũng được quan niệm khác nhau.
Thuở xa xưa, khi một người bị tình nghi là phạm tội, họ được bào chữa bằng cách trói chân, trói tay rồi quẳng xuống nước mà không chỡm thỡ họ được coi là vô tội. “Cỏch bào chữa mỏng manh theo ý trời này đối với số phận một con người thực chất là lời buộc tội họ một cách hùng hồn nhất, vì dẫu có vô tội, họ cũng đã cầm chắc trong tay một bản án kết tội khó có thể bào chữa được”(2).
Thế kỷ I trước Công nguyên đến thế kỷ II sau Công nguyên, tại Hy Lạp và La Mã đã xuất hiện một loại hiệp sĩ đặc biệt - họ không dùng khí giới hay bắp thịt để chiến thắng mà chỉ dùng thiên tài ngôn ngữ, sự hiểu biết rộng rãi về cổ luật để đứng ra bênh vực cho những kẻ nghèo nàn, yếu thế, thấp cổ bé họng hoặc phụ nữ bị ngược đói trước các thế lực đương thời. Họ được gọi là Advocatus (người biện hộ).
Ở Việt Nam, các nhà sử học và luật học phần lớn đi đến nhận định, xã hội người Việt trong khoảng 1000 năm trước Công nguyên, pháp luật thành văn nếu có cũng không nhiều và trong một thời gian dài nguồn pháp luật chủ yếu là tục lệ, tập quán(�). Lịch sử của thời phong kiến cho thấy, về cơ bản nghề thầy cung, thầy kiện không được coi trọng bởi cách nhìn không đúng về loại người này, trong đó nguyên nhân chính xuất phát từ quan niệm các bậc vua, chúa phong kiến luôn tự coi mình là “kẻ bảo vệ dân và bảo vệ sự công bằng”, ý chí của vua là luật cao nhất… Tuy nhiên, hệ thống pháp luật thành văn thời phong kiến, đặc biệt là bộ Quốc triều Hình luật đã ghi nhận nhiều quan điểm mới, tiến bộ về việc bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của người phạm tội, cho phép họ tự bào chữa và bảo đảm việc tranh biện kỹ lưỡng. Điều 691 Bộ luật Hồng Đức quy định: “Những ỏn xột rồi mà còn nghi ngờ thì chuyển qua quan viện thẩm hình, hội đồng nghị xét, hỏi tội phạm nhân đến khi họ nhận tội, nếu họ không chịu nhận tội thì cho phép họ tự bào chữa rồi xét lại kỹ càng…”. Điều 670 còn quy định: “Cỏc quan xột ỏn, phải theo tờ cáo trạng mà xét hỏi, nếu ra ngoài tờ cáo trạng, tìm việc khác để buộc tội người, thì xử là cố ý bắt tội người”(2).
Phải nói rằng, những điểm mới, tiến bộ nêu trên đã đi trước hàng thế kỷ so với các nguyên tắc nêu trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ 1776 và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp 1789.
1.4.1. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật TTHS Việt Nam từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945 đến trước khi Bộ luật TTHS năm 1988 có hiệu lực thi hành
Trước bối cảnh thế giới thuận lợi, cùng với sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam, Cách mạng Tháng Tám 1945 đã thành công và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà – Nhà nước đầu tiên của giai cấp công nhân và nông dân ở Đông Nam Á được thành lập. Nhiệm vụ của Nhà nước non trẻ lúc này là củng cố chính quyền, kịp thời ban hành pháp luật cách mạng làm vũ khí chống lại thù trong, giặc ngoài, xây dựng xã hội mới. Mặc dù trong những ngày đầu khi cách mạng mới thành công có biết bao nhiệm vụ cần giải quyết trong đú có nhiệm vụ đấu tranh chống các loại tội phạm nhưng chính quyền dân chủ nhân dân vẫn rất quan tâm tới nhiệm vụ bảo vệ các quyền dân chủ của công dân trong đú có quyền bào chữa trước Toà án.
Ngày 13/09/1945 tức là chỉ sau ngày khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được thành lập đúng 11 ngày, Nhà nước đã ban hành Sắc lệnh 33c về việc thiết lập các Toà án quân sự. Đoạn 4, Điều V Sắc lệnh này quy định: “Bị cáo có thể tự bào chữa hay nhờ một người khác bênh vực cho”.
Ngày 10/10/1945, Sắc lệnh số 46-SL về việc quy định tổ chức các đoàn thể luật sư ra đời. Theo Điều thứ 2 sắc lệnh này thì: “Cỏc luật sư có quyền bào chữa ở tất cả các Toà án hàng tỉnh trở lên và trước các Toà án quân sự”
Tiếp theo, ngày 23/11/1945, Nhà nước ban hành Sắc lệnh thiết lập một ban thanh tra đặc biệt, trong đó quy định, một Toà án đặc biệt được thành lập để xử những nhân viên của Uỷ ban nhân dân hay các cơ quan của Chính phủ bị ban thanh tra truy tố (Điều III). Và trước các Toà án này “bị cáo có thể tự bào chữa lấy hay nhờ luật sư bênh vực. Ông Hội thẩm thuyết trình có thể cử một luật sư ra bào chữa không cho bị cỏo” (Điều V).
Sắc lệnh số 13-SL ngày 24/01/1946 về tổ chức Toà án và các ngạch Thẩm phán, tại Điều thứ 44 quy định : “Trong việc đại hình, nếu trước toà thượng thẩm một bị can không có ai bênh vực, ông Chánh án sẽ cử một luật sư để bào chữa cho hắn”. Còn tại Điều thứ 46: “Cỏc luật sư có quyền biện hộ trước tất cả các Toà án trừ những Toà án sơ cấp”.
Trong sắc lệnh số 40 ngày 29/03/1946 về việc bảo vệ tự do cá nhân, tiết II những phương pháp đề phòng đặc biệt, tại Điều thứ 7 quy định: “Trong tình thế đặc biệt hiện thời cho đến khi có lệnh khác, chủ tịch Uỷ ban hành chính kỳ đặc cách được phép ra lệnh bắt những người xét ra lời nói hay việc làm có thể làm hại cho sự đấu tranh giành độc lập, cho chế độ dân chủ, cho sự an toàn của công chúng và cho sự đoàn kết của quốc gia, để đem trừng trị trong những trại giam đặc biệt”. Đối với những người này sẽ có “nghị định giam”. Và trong 15 ngày, họ (đương sự) có thể nộp đơn “khỏng nghị nghị định giam” để hội đồng phúc thẩm giải quyết. Điều thứ 11 Sắc lệnh 40 quy định : “Hội đồng phúc thẩm sẽ báo ngay cho đương sự biết ngày hội đồng sẽ xét đơn kháng nghị. Người đó có quyền gửi bài trần tình hoặc nhờ vợ hay chồng, ông bà con cháu, anh em ruột, chỳ bỏc cụ dỡ, anh em thúc bá hay luật sư đại diện bào chữa cho mỡnh”.
Ngày 23/08/1946, Nhà nước ban hành Sắc lệnh số 163-SL về việc tổ chức Toà án binh lâm thời đặt tại Hà Nội. Điều thứ 10 Sắc lệnh này quy định: “Bị can có thể tự bênh vực lấy hay nhờ một luật sư hoặc một người khác bào chữa cho. Đối với những tội có thể phạt trên 5 năm tù mà bị can không có luật sư bào chữa cho thì Toà sẽ yêu cầu hội đồng luật sư chỉ định một luật sư bào chữa cho hắn”.
Như vậy, pháp luật TTHS của Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám đã là vũ khí, là cơ sở pháp lý để bảo vệ và củng cố các quyền của công dân trong đú có quyền bào chữa trước Toà án. Có thể thấy rằng, dù chưa rõ ràng và được quy định ở các văn bản pháp luật khác nhau nhưng qua các quy định đã dẫn ở trên, bước đầu quyền bào chữa đã được xác định bao hàm quyền tự bào chữa, quyền nhờ người khác bào chữa, và một số trường hợp đã được chỉ định người bào chữa; người bị bắt giam cũng được quy định là có quyền bào chữa. Tuy nhiên, bảo đảm quyền bào chữa chưa được quy định như là một nguyên tắc của luật TTHS Việt Nam; việc nhờ người khác bào chữa mới chỉ được quy định cho một số bị cáo; khái niệm bị can, bị cáo chưa được làm rõ và chưa được sử dụng một cách thống nhất trong các văn bản pháp luật; các trường hợp được chỉ định người bào chữa mới bước đầu được đề cập, các quy định chưa cụ thể và việc chỉ định luật sư bào chữa xem ra phụ thuộc nhiều vào ý kiến của Toà án.
Song song với việc ban hành các văn bản pháp luật để điều chỉnh những quan hệ xã hội trong tất cả các lĩnh vực, Nhà nước đã quan tâm xúc tiến những công việc cần thiết chuẩn bị cho việc dự thảo và ban hành Hiến pháp. Ngày 09/11/1946, tại kỳ họp thứ hai, Quốc hội khoá 1 đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Với ý nghĩa là luật cơ bản, Hiến pháp 1946 đã quy định nhiều nguyên tắc quan trọng trong đó có nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo: “ Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư” (Đoạn 2, Điều thứ 67). Như vậy lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, vấn đề bảo đảm quyền bào chữa cho bị cáo được quy định là một nguyên tắc Hiến pháp – đõy là nền móng cho quá trình phát triển và hoàn thiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật TTHS Việt Nam. Quyền bào chữa được Hiến pháp 1946 xác định gồm hai nội dung: tự bào chữa và nhờ luật sư bào chữa.
Ngày 18/06/1949, Nhà nước ban hành sắc lệnh số 69-SL, tại Điều thứ hai quy định: “Nếu bị can không có ai bênh vực, ông Chánh án có thể, tự mình hay theo lời yêu cầu của bị can, cử ra một người bào chữa cho bị can”. Còn Điều thứ nhất của sắc lệnh này đã được sửa đổi bổ sung bởi sắc lệnh số 144-SL ngày 22/12/1949 như sau: “…Từ nay, trước các Toà án thường và Toà án đặc biệt xử các việc tiểu hình, đại hình, trừ các Toà án binh tại mặt trận,… bị cáo và bị can có thể nhờ một công dân không phải là luật sư bênh vực cho mình. Công dân đó phải được ông Chánh án thừa nhận”. Có thể nói sắc lệnh số 69-SL và sắc lệnh số 144-SL đã bước đầu đặt nền móng cho việc xây dựng chế độ bào chữa viên nhân dân ở nước ta.
Tiếp theo đó, ngày 12/01/1950, Bộ Tư pháp đã ban hành nghị định số 1/NĐ về việc ấn định điều kiện để làm bào chữa viên. Theo Điều 1 nghị định này, những công dân sau đõy có thể được cử ra hay thừa nhận để bào chữa trước Toà án:
- Có quốc tịch Việt Nam, không phân biệt đàn ông hay đàn bà;
- Ít nhất 21 tuổi;
- Hạnh kiểm tốt và chưa can án.
Khi được phép tham gia tố tụng (bắt đầu từ khi hồ sơ vụ án được chuyển sang Toà án), bào chữa viên nhân dân cũng có địa vị pháp lý như luật sư.
Khoản 1, Điều 4 Nghị định trờn cũn quy định: “Người bào chữa được cử ra hoặc thừa nhận để bào chữa có quyền đến phòng lục sự xem xét và chép hồ sơ”.
Việc thừa nhận, khi tham gia tố tụng, bào chữa viên nhân dân có địa vị pháp lý như luật sư là một trong những điểm mới, tiến bộ nhằm thu hút quần chúng nhân dân tham gia vào việc đấu tranh phòng chống tội phạm, đặc biệt là xác định sự thật khách quan của vụ án cũng như bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo.
Năm 1956, khi cả nước đang tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thì ngày 20/06/1956 một văn bản quan trọng đã được thông qua tại hội nghị tư pháp toàn quốc. Đó là “Đề án về quyền bào chữa của bị cỏo”. Đặc biệt trong đề án đã ghi nhận các quyền cụ thể của người bào chữa khi tham gia tố tụng: người bào chữa có thể bắt đầu công tác từ khi mở cuộc thẩm cứu; được có mặt cùng với bị cáo trong các cuộc hỏi cung; được yêu cầu điều tra thêm nếu chứng cứ không đầy đủ, không rõ ràng; sau khi công bố việc luận tội, người bào chữa được trình bày lời bào chữa của mình, đề ra những điểm không đồng ý với công tố viện và biện bác, xuất phát từ quan điểm bảo vệ pháp luật, chính sách và quyền lợi của bị can; được chống án thay cho bị can nếu bị can yêu cầu hoặc được sự đồng ý của bị can; có quyền tiếp tục bênh vực cho bị can tại Toà án cấp trờn…So với các văn bản trước đõy, “Đề án về quyền bào chữa của bị cỏo” đã quy định tương đối cụ thể quyền của người bào chữa khi tham gia tố tụng nhằm bảo đảm cho bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình một cách có hiệu quả.
Mặt khác, để tạo điều kiện cho bị cáo có đủ thời gian chuẩn bị bào chữa tại phiên toà, ngày 24/10/1956 Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư 2225/HCCP trong đó quy định “việc giao bản cáo trạng cho bị cáo chậm nhất là 3 ngày trước khi mở phiên toà”. Đõy là quy định rất cần thiết để bị cáo và người bào chữa của họ có thể nghiên cứu, chuẩn bị trước những tình tiết, những chứng cứ có lợi khi tham gia phiên toà.
Hiến pháp 1959 ra đời, quyền bào chữa của bị cáo một lần nữa được ghi nhận tại Điều 101 với nội dung : “quyền bào chữa của người bị cáo được bảo đảm”. Như vậy, nếu Hiến pháp 1946 chỉ dừng lại ở việc quy định quyền bào chữa cho bị cáo thì Hiến pháp 1959 đã tiến bộ hơn - khẳng định cả cơ chế bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo.
Cùng với sự ra đời của Hiến pháp, ngày 15/07/1960, Quốc hội ban hành luật Tổ chức TAND quy định cụ thể hơn nữa quyền bào chữa của bị cáo: “Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm, ngoài việc tự bào chữa ra, bị cáo có thể nhờ luật sư bào chữa cho mình. Bị cáo cũng có thể nhờ một công dân được đoàn thể nhân dân giới thiệu hoặc được TAND chấp nhận bào chữa cho mình. Khi cần thiết, TAND chỉ định người bào chữa cho bị cỏo”.
Để thực hiện quy định trên, TAND đã ban hành Thông tư 06/TC ngày 09/09/1967 hướng dẫn việc bảo đảm quyền bào chữa cho bị cáo trong đó có nhiều vấn đề mới, cụ thể và tiến bộ hơn so với các văn bản trước đõy như: trong phiên toà, Toà án phải xem bị cáo đã được tống đạt bản cáo trạng hay chưa; bị cáo có quyền yêu cầu Toà án thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, nếu nhận thấy những người này có quan hệ đối với vụ án có thể làm cho việc xét xử không được công bằng; trình bày chứng cứ, đề xuất những lời thỉnh cầu và phát biểu lời cuối cùng trước khi Toà án vào nghị án. Toà án có nhiệm vụ giải thích cho bị cáo biết những quyền đó trong phần chuẩn bị phiên toà xét xử. Sau khi VKS luận tội, Toà án cần để cho bị cáo trình bày lời bào chữa nếu họ không có người bào chữa; Toà án phải chú ý sắp xếp lịch phiên toà để người bào chữa có thời gian cần thiết chuẩn bị bào chữa; người bào chữa có thể xin hoón phiờn toà, nếu nhận thấy không có đủ thời gian cần thiết cho việc bào chữa …
Ngoài những hướng dẫn cụ thể trên, Thông tư 06 còn hướng dẫn việc thực hiện chế độ bào chữa chữa viên nhân dân: danh sách bào chữa viên nhân dân do các đoàn thể nhân dân giới thiệu. Đõy là những người cú trình độ chính trị khỏ, cú khả năng làm công tác bào chữa, có nhiệt tình và điều kiện thiết thực và có tư cách đạo đức tốt. Điểm đáng chú ý là, mặc dù đã có danh sách những người bào chữa nhưng bị cáo vẫn có thể yêu cầu Toà án chấp nhận một công dân không có tên trong danh sách bào chữa cho mình. Toà án có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận người được bị cáo cử ra để bào chữa; Thông tư 06 cũng đã có quy định về các trường hợp phải chỉ định người bào chữa cho bị cáo.
Ngày 27/08/1974, TAND tối cao đã ban hành Thông tư số 16-TATC, bản hướng dẫn trình tự tố tụng sơ thẩm về hình sự ban hành kèm theo Thông tư này khẳng định: quyền bào chữa là quyền của bị cáo nên Toà án phải bảo đảm cho họ thực hiện đầy đủ quyền đó và phải nghiên cứu những lời bào chữa của bị cáo một cách khách quan. Theo Thông tư 16-TATC thì thời gian giao bản cáo trạng cho bị cáo không chỉ là “3 ngày trước khi mở phiên toà” như văn bản trước đõy, mà là “chậm nhất là 5 ngày trước khi xét xử, bị cáo phải nhận được bản cáo trạng”. Thông tư cũng hướng dẫn cụ thể hơn những trường hợp TAND phải chỉ định người bào chữa cho bị cáo, đó là các trường hợp: bị cáo có thể bị phạt tù chung thân hoặc tử hình; bị cáo là vị thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất (ví dụ: mự, câm, điếc) hoặc về tinh thần (ví dụ: có bệnh động kinh, hoặc trước khi phạm pháp đã bị điờn nhưng đã chữa khỏi…); vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp và có ảnh hưởng lớn đến dư luận của nhân dân.
Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, Bộ Tư pháp của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam đã cú Thụng tư số 06 ngày 11/06/1976 về việc thực hiện chế độ bào chữa ở miền Nam.
Hiến pháp 1980 ra đời, tiếp tục khẳng định quyền bào chữa của bị cáo tại Điều 133: “Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm, tổ chức luật sư được thành lập để giúp bị cáo và các đương sự về mặt pháp lý”
Sau khi Việt Nam thống nhất về mặt Nhà nước, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 691/QLTA ngày 31/10/1983 về công tác bào chữa trong toàn quốc, trong đú xác định đoàn bào chữa và bào chữa viên có trách nhiệm góp phần bảo vệ chân lý, bảo vệ pháp chế XHCN thông qua hoạt động của mình.
Ngày 18/12/1987, một văn bản pháp luật quan trọng về công tác bào chữa được ban hành, đó là Pháp lệnh tổ chức luật sư và tiếp theo đó là Quy chế Đoàn luật sư kèm theo Nghị định 15-HĐBT ngày 21/02/1989 đã giải thích cụ thể quyền, nghĩa vụ, cơ chế hoạt động của luật sư và tổ chức luật sư.
Như vậy, giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945 đến trước khi Bộ luật TTHS năm 1988 có hiệu lực thi hành là giai đoạn lịch sử dài từ khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà non trẻ được thành lập, chống thù trong giặc ngoài, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, đấu tranh giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước. Cùng với quá trình đó, mặc dù có rất nhiều khó khăn nhưng nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong TTHS vẫn được phát triển theo hướng dân chủ và ngày càng hoàn thiện. Quyền bào chữa của bị cáo đã được mở rộng, phát triển và được bảo đảm thể hiện tính nhân đạo và dân chủ trong pháp luật TTHS nước ta. Tuy nhiên, những quy định về quyền bào chữa trong thời kỳ này không tránh khỏi những hạn chế nhất định như quy định quyền bào chữa chỉ thuộc về bị cáo và việc thực hiện quyền bào chữa chỉ được thực hiện ở giai đoạn xét xử.
1.4.2. Giai đoạn từ khi Bộ luật TTHS năm 1988 có hiệu lực thi hành đến năm 2003
Kế thừa và phát triển pháp luật TTHS nước ta từ Cách mạng tháng Tám 1945 đến năm 1988, và để phù hợp với những đổi mới về mọi mặt của đời sống xã hội, ngày 20/06/1988, tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội thông qua Bộ luật TTHS đầu tiên của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, Bộ luật này có hiệu lực thi hành từ 01/01/1989. Đõy là một bước tiến lớn trong lịch sử lập pháp TTHS nói chung và chế định bào chữa nói riêng ở nước ta, nó đánh dấu sự thay đổi về chất của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa. Điều 12 với tên gọi: “Bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cỏo” quy định: “bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. CQĐT,… Bộ luật TTHS năm 1988 xác định không chỉ có bị cáo mà bị can cũng có quyền bào chữa; Bộ luật cũng đã phân biệt rõ khái niệm bị can, bị cáo, theo đó: “bị can là người đã bị khởi tố về hình sự. Bị cáo là người đã bị Toà án quyết định đưa ra xét xử” (khoản 1, Điều 34). Đồng thời, tại khoản 2 Điều 34, nhà làm luật khẳng định lại một lần nữa: “bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mỡnh”. Như vậy, nguyờn tắc bảo đảm quyền bào chữa trong Bộ luật TTHS năm 1988 đã thể hiện rõ 3 nội dung: thứ nhất, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa; thứ hai, bị can, bị cáo có quyền nhờ người khác bào chữa; thứ ba, CQĐT, VKS và Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa tiếp tục được khẳng định tại Điều 132 Hiến pháp 1992: “quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình. Tổ chức luật sư được thành lập để giúp đỡ bị cỏo…”.
Từ khi có hiệu lực thi hành, Bộ luật TTHS năm 1988 đã qua 3 lần sửa đổi bổ sung vào các năm 1989, 1992, và năm 2000. Các lần sửa đổi bổ sung này nhằm làm cho Bộ luật TTHS phù hợp hơn với Hiến pháp 1992 và tiến trình phát triển của xã hội, tuy nhiên nội dung nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa tại điều 12 của Bộ luật vẫn không thay đổi.
Bảo đảm quyền bào chữa cũng được ghi nhận trong Điều 9 Luật tổ chức TAND năm 1992 và năm 2002 với nội dung: “Toà án bảo đảm quyền bào chữa của bị cỏo”.
Pháp lệnh Luật sư năm 2001 thay thế cho Pháp lệnh Luật sư 1987 là một đảm bảo pháp lý, góp phần quan trọng cho nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo được thực hiện trên thực tế.
1.4.3. Giai đoạn từ khi có Bộ luật TTHS năm 2003 đến nay:
Qua gần 15 năm thi hành với 3 lần sửa đổi, bổ sung, Bộ luật TTHS năm 1988 đã là một trong những căn cứ pháp lý giúp CQĐT, VKS, Toà án tiến hành các hoạt động của mình một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ góp phần vào việc bảo đảm phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử ký công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Tuy nhiên, trong công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước trên tất cả các lĩnh vực trong đú có cải cách tư pháp, Bộ luật TTHS năm 1988 đã không còn phù hợp nữa và bộc lộ những hạn chế nhất định. Trước tình hình đó, Quốc hội khoá XI tại kỳ họp thứ tư đã thông qua Bộ luật TTHS 2003, Bộ luật có hiệu lực thi hành từ 01/07/2004.
Tại Bộ luật TTHS năm 2003 nguyờn tắc bảo đảm quyền bào chữa được quy định theo hướng mở rộng hơn. Điều 11 với tiêu đề: Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo quy định: “Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. CQĐT, VKS, Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của bộ luật này”. Như vậy, theo Bộ luật TTHS năm 2003, chủ thể của quyền bào chữa được mở rộng bao gồm cả người bị tạm giữ.
Ngoài việc mở rộng quyền bào chữa cho người bị tạm giữ thì Bộ luật TTHS năm 2003 còn có nhiều quy định thể hiện sự tiến bộ và phát triển của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa như: người bào chữa được tham gia tố tụng sớm hơn so với quy định của Bộ luật TTHS năm 1988; quy định cụ thể thủ tục chỉ định người bào chữa trong những trường hợp phải chỉ định người bào chữa cho bị can, bị cáo; thủ tục cấp giấy chứng nhận bào chữa được bổ sung một cách đầy đủ hơn; mở rộng thêm quyền của người bào chữa; đặc biệt nhấn mạnh quyền mới của người bào chữa là được thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan tới việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cỏo…
Năm 2006, Quốc hội ban hành Luật Luật sư và Luật trợ giúp pháp lý thể hiện sự phát triển ngày càng hoàn thiện của quyền bào chữa và nguyờn tắc bảo đảm quyền bào chữa ở nước ta.
Qua nghiên cứu một số khái niệm về quyền bào chữa, lịch sử hình thành và phát triển của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong luật TTHS có thể rút ra một số nhận xét:
1. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa đã được ghi nhận trong các điều ước quốc tế và trở thành một giá trị pháp lý được quốc tế hoá. Quy định nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa là một sự tất yếu thể hiện xu thế của thời đại.
2. Quyền bào chữa là một trong những chế định quan trọng không thể thiếu được của pháp luật TTHS Việt Nam. Mặc dù quyền bào chữa ngày nay được quy định và thừa nhận trong pháp luật của các nước trên thế giới nhưng xung quanh khái niệm và nội dung của nó còn nhiều ý kiến khác nhau cần được xem xét và làm rõ từ góc độ lý luận và thực tiễn.
3. Quyền bào chữa thuộc về người bị tạm giữ, bị can, bị cáo - những người bị buộc tội với nội dung đưa ra những chứng cứ, tình tiết chứng minh cho sự không có tội hoặc làm giảm nhẹ tội của mình, những người khác tham gia TTHS không có quyền bào chữa.
4. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được quy định xuất phát từ việc bảo đảm thực hiện quyền con người và những quyền cơ bản của công dân. Đồng thời, việc thực hiện tốt nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo cũn giỳp cỏc cơ quan THTT xác định được sự thật khách quan của vụ án, giúp TTHS được tiến hành đúng mục đích xét xử công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
5. Quyền bào chữa ở Việt Nam có tớnh ổn định và tớnh hoàn cảnh lịch sử. Tớnh ổn định thể hiện: nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa được ghi nhận trong tất cả các bản Hiến pháp của nước ta. Tớnh hoàn cảnh lịch sử thể hiện ở những đảm bảo pháp lý và trách nhiệm của các cơ quan THTT trong việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can bị cáo được tớnh toán, cõn nhắc phù hợp với điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể của từng giai đoạn.
6. Sự phát triển của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo gắn liền với sự phát triển và dõn chủ hoá mọi mặt của đời sống xã hội nước ta.
�CHƯƠNG 2
NỘI DUNG CỦA NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ, BỊ CAN, BỊ CÁO TRONG PHÁP LUẬT TTHS VIỆT NAM
2.1. Bảo đảm quyền tự bào chữa
Quyền bào chữa trước hết là quyền tự bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự mình thực hiện các quyền mà pháp luật giành cho họ để chống lại việc buộc tội hoặc làm giảm trách nhiệm hình sự cho mình.
Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là những người hơn ai hết biết được những tình tiết liên quan tới vụ án nói chung và những tình tiết liên quan tới họ nói riêng. Vì vậy, quy định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa là một bảo đảm pháp lý hết sức cần thiết giúp cho họ có thể đưa ra những chứng cứ và lý lẽ biện minh, gỡ tội cho mình. Quyền tự bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được bảo đảm thực hiện xuyên suốt quá trình tố tụng từ giai đoạn điều tra đến khi Toà án ra bản án và bản án đó có hiệu lực pháp luật. Quyền tự bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo cũng không bị hạn chế, kể cả khi có người bào chữa bào chữa cho họ thì quyền năng này cũng vẫn được pháp luật bảo đảm. Khoản 2 Điều 217 Bộ luật TTHS đã thể hiện rõ điều này: “…nếu bị cáo có người bào chữa thì người này bào chữa cho bị cáo. Bị cáo có quyền bổ sung ý kiến bào chữa”.
2.1.1. Bảo đảm quyền tự bào chữa trong giai đoạn điều tra, truy tố
Quyền tự bào chữa được thực hiện từ giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Trong giai đoạn này, quyền bào chữa thuộc về người bị tạm giữ và bị can.
2.1.1.1. Đảm bảo quyền bào chữa của người bị tạm giữ
- Người bị tạm giữ được biết lý do mình bị tạm giữ.
Để bảo đảm cho người bị tạm giữ thực hiện quyền tự bào chữa của mình, pháp luật quy định: “Người bị tạm giữ có quyền được biết lý do mình bị tạm giữ” (điểm a, khoản 2 Điều 48), ngay từ lúc bị bắt, họ được nghe đọc biên bản bắt người và có quyền ghi ý kiến không đồng ý của mình vào biên bản và ghi ý kiến xác nhận. Lý do tạm giữ được ghi trong quyết định tạm giữ và khi có quyết định này người bị tạm giữ được giao một bản. Lý do tạm giữ này cũng được bảo đảm về tính cần thiết và có căn cứ pháp luật khi pháp luật quy định trong thời hạn 12 giờ kể từ khi ra quyết định tạm giữ, quyết định tạm giữ được gửi cho VKS cùng cấp. Nếu thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết thì VKS ra quyết định huỷ bỏ quyết định tạm giữ và người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.
- Người bị tạm giữ có quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ.
Không phải người nào khi tham gia tố tụng với tư cách người bị tạm giữ đều có những hiểu biết về pháp luật nói chung cũng như quyền và nghĩa vụ của mình trong TTHS nói riêng. Giải thích quyền và nghĩa vụ một cách cụ thể và cặn kẽ cho người bị tạm giữ biết sẽ khiến họ yên tâm hơn, tin tưởng vào pháp luật và có thể sử dụng pháp luật để bảo vệ những quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Để đảm bảo quyền này cho người bị tạm giữ, pháp luật quy định, người thi hành quyết định tạm giữ phải giải thích quyền và nghĩa vụ cho người bị tạm giữ theo quy định tại điều 48 Bộ luật TTHS.
- Người bị tạm giữ có quyền trình bày lời khai.
Trong lời khai trước CQĐT, người bị tạm giữ trình bày về những tình tiết liên quan đến việc họ bị nghi thực hiện tội phạm. Cơ quan ra quyết định tạm giữ có trách nhiệm lập biên bản ghi lời khai của người bị tạm giữ. Lời khai của người bị tạm giữ chỉ được coi là một loại nguồn chứng cứ trong TTHS khi nó được thể hiện hợp pháp với biên bản kèm theo. Biên bản ghi lời khai của người bị tạm giữ được ĐTV đọc lại cho người bị tạm giữ nghe, đồng thời ĐTV giải thích cho họ biết quyền được bổ sung và nhận xét về biên bản. Biên bản lời khai của người bị tạm giữ chỉ hợp pháp khi có chữ ký của ĐTV và chữ ký hoặc điểm chỉ của người bị tạm giữ (nếu người bị tạm giữ không biết chữ). Nếu người bị tạm giữ vì nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần hoặc vì lý do khác mà không thể ký vào biên bản thì trong biên bản phải ghi rõ lý do.
- Người bị tạm giữ có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu.
Trong thời gian bị tạm giữ, người bị tạm giữ có quyền đưa ra những tài liệu, đồ vật nhằm chứng minh họ không liờn quan đến vụ việc mà vì đó họ bị bắt giữ, họ cũng có quyền yêu cầu xác minh lại sự việc, yêu cầu CQĐT đưa ra những bằng chứng được coi là căn cứ bắt giữ họ…
- Người bị tạm giữ có quyền khiếu nại về việc tạm giữ, quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền THTT.
Nếu như Bộ luật TTHS năm 1988 quy định người bị tạm giữ chỉ có quyền khiếu nại về việc tạm giữ thì Bộ luật TTHS năm 2003 đã đưa thêm quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền THTT. Quyết định trên thể hiện sự mở rộng quyền, mở rộng tính dân chủ trong TTHS, tạo điều kiện cho người bị tạm giữ thực hiện quyền tự bào chữa của mình.
2.1.1.2. Bảo đảm quyền tự bào chữa của bị can
Khi bị khởi tố về hình sự một người sẽ tham gia tố tụng với tư cách là bị can.
- Bị can có quyền được biết mình bị khởi tố về tội gì.
Được biết mình bị khởi tố về tội gì, bị can sẽ có những chuẩn bị tốt hơn cho việc gỡ tội và minh oan cho mình. Ngay sau khi khởi tố bị can, trong thời hạn 24 giờ, CQĐT phải gửi ngay quyết định khởi tố và tài liệu liên quan tới việc khởi tố bị can cho VKS cùng cấp để phê chuẩn việc khởi tố. CQĐT cũng phải giao ngay quyết định khởi tố bị can của mình hoặc quyết định khởi tố bị can của VKS (trong trường hợp VKS ra quyết định khởi tố bị can) cho bị can. Và sau khi nhận được quyết định phê chuẩn hoặc quyết định huỷ bỏ quyết định khởi tố bị can của VKS, CQĐT phải giao ngay cho người đã bị khởi tố - đõy là một quy định mới của Bộ luật TTHS năm 2003 so với Bộ luật TTHS năm 1988 giỳp tránh được những sai sót trong việc ra quyết định khởi tố bị can, sự chặt chẽ này cũng làm cho bị can tin tưởng hơn vào tính nghiêm minh của pháp luật.
- Bị can có quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ.
Nếu như Bộ luật TTHS năm 1988 quy định gián tiếp quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ của bị can tại khoản 3 Điều 103: “Cơ quan ra quyết định khởi tố bị can phải… và giải thích quyền và nghĩa vụ cho bị can” thì Bộ luật TTHS 2003 đã quy định quyền này cho bị can một cách trực tiếp tại điểm b, khoản 2 Điều 49 đồng thời Bộ luật cũng quy định trách nhiệm cho CQĐT - những người trực tiếp tiến hành những hành vi tố tụng với bị can phải giải thích quyền và nghĩa vụ cho bị can.
- Bị can có quyền được trình bày lời khai.
Bị can được khai về những tình tiết của vụ án. Lời khai của bị can là một loại nguồn chứng cứ và chúng được kiểm tra và đỏnh giá theo những quy định chung. Theo quy định của Bộ luật TTHS, việc lấy lời khai của bị can phải do ĐTV tiến hành ngay sau khi có quyết định khởi tố bị can. Trước khi hỏi cung, ĐTV đọc phải đọc quyết định khởi tố bị can, và giải thích cho bị can biết rõ quyền và nghĩa vụ và “việc này phải được ghi vào biên bản”. Quy định mới này của Bộ luật TTHS năm 2003 giúp bị can thực hiện tốt hơn quyền tự bào chữa của mình cũng như nâng cao trách nhiệm của ĐTV trong việc đảm bảo quyền tự bào chữa của bị can trong quá trình hỏi cung.
Trong khi hỏi cung, bị can có thể thú nhận một phần hay toàn bộ tội lỗi của mình. Tuy nhiên, lời nhận tội của bị can cần phải được kiểm tra, đối chiếu với các chứng cứ khác của vụ án. Pháp luật quy định không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để kết tội (Điều 72 Bộ luật TTHS).
Mỗi lần hỏi cung đều phải lập biên bản, biên bản phải ghi đầy đủ lời trình bày của bị can, các câu hỏi và câu trả lời. Và để đảm bảo những lời khai này là được chính xác, thể hiện ý chí thật sự của bị can, pháp luật quy định nghiêm cấm ĐTV tự mình thêm, bớt hoặc sửa chữa lời khai của bị can. Sau khi hỏi cung, ĐTV đọc lại biên bản cho bị can nghe hoặc để bị can tự đọc. Trong trường hợp có bổ sung, sửa chữa biên bản thì ĐTV và bị can cùng ký xác nhận. Nếu biên bản có nhiều trang thì bị can ký vào từng trang của biên bản. Nếu việc hỏi cung được ghi âm thì sau khi hỏi cung phải phát lại để ĐTV và bị can cùng nghe. Biên bản phải ghi lại nội dung việc hỏi cung, bị can và ĐTV cùng ký xác nhận (Điều 132 Bộ luật TTHS). Để tạo điều kiện cho bị can đưa ra chứng cứ, lời khai và những lời giải thích, bị can có thể tự viết lời khai của mình (Điều 131 Bộ luật TTHS). Không được hỏi cung vào ban đêm trừ trường hợp không thể trì hoãn được nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản.
Cũng cần nhấn mạnh rằng, việc đưa ra lời khai, hay nói cách khác là trình bày về những tình tiết của vụ án là quyền của bị can chứ không phải trách nhiệm của họ. Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án tại Điều 10 Bộ luật TTHS quy định: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan THTT, bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mỡnh vụ tội”. Pháp luật không quy định trách nhiệm với bị can về hành vi từ chối khai báo hoặc khai báo gian dối, trong khi đó pháp luật nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình (Điều 6 Bộ luật TTHS) và quy định khi hỏi cung bị can, ĐTV hoặc KSV bức cung hoặc dùng nhục hình đối với bị can thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy đinh tại Điều 299 hoặc 298 của Bộ luật hình sự.
Tuy nhiên, trên thực tế, việc mớm cung và ép cung vẫn xảy ra, vi phạm nghiêm trọng tới quyền tự bào chữa của bị can. Hoàng Linh, một bị cáo trong vụ án Năm Cam khi đứng trước vành móng ngựa đã nói “Cỏo trạng và kết luận điều tra chủ yếu dựa vào 4 văn bản gồm: bản tự khai, bản cung, bản cam kết và thư cảm ơn. Bản tự khai của tôi phải khai theo chỉ dẫn của các ĐTV, nếu khai không đúng theo ý của họ, họ đều xé bỏ, bắt khai lại. Bản cung cũng vậy, và đều bị hỏi vào lúc 12h đêm, nhưng khi ký vào biên bản, công an đều ghi hỏi lúc 8h sỏng. Các ĐTV còn ộp tụi phải viết bản cam kết là lời khai của tôi không phải do bị ép cung, hù dọa… Sau đó cũn ộp tụi viết thư cảm ơn đến các cơ quan THTT”. Hoàng Linh diễn tả: “Trong phòng hỏi cung, một cán bộ điều tra đã nói với tôi: ông từng viết bài bênh vực cho con nhỏ bán vé số và đánh công an Tiền Giang. Nay ụng đó lọt vào tay chúng tôi, nếu không khai đúng ý, chúng tôi sẽ treo ụng lờn. Anh ta diễn tả việc treo lên rất ghê rợn và nói lại đến 6-7 lần, tôi không thể tả nổi tại đõy”.(�)
- Bị can có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu.
Bị can có quyền cung cấp những tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ án, CQĐT khi nhận được các tài liệu, đồ vật do bị can cung cấp phải tiến hành kiểm tra, đỏnh giá một cách khách quan để xác định các tài liệu, đồ vật đó có phải là chứng cứ trong vụ án hay không? Bị can cũng có quyền đưa ra những yêu cầu như: yêu cầu thông báo về nội dung kết luận giám định; được trình bày những ý kiến của mình về kết luận giám định; được yêu cầu giám định bổ sung, giám định lại. Trong trường hợp CQĐT, VKS không chấp nhận yêu cầu của bị can thì phải nêu rõ lý do và phải thông báo cho họ biết (Điều 158); Nếu việc điều tra bị đình chỉ theo quy định tại điểm 5 và điểm 6 Điều 107 Bộ luật TTHS mà bị can không đồng ý và yêu cầu điều tra lại thì CQĐT hoặc VKS ra quyết định phục hồi điều tra (Điều 165)…
- Bị can có quyền đề nghị thay đổi người THTT, người giám định, người phiên dịch.
Trong quá trình điều tra, bị can có quyền đề nghị thay đổi những người THTT, người giám định, người phiên dịch nếu có căn cứ rõ ràng cho rằng họ có thể khụng vụ tư trong khi làm nhiệm vụ; việc họ tiến hành hoặc tham gia tố tụng có thể làm cho vụ án được giải quyết theo hướng không có lợi cho bị can. Các cơ quan THTT phải xem xét, giải quyết yêu cầu của bị can nếu đề nghị của bị can là có căn cứ. Đồng thời với việc quy định quyền đề nghị thay đổi người THTT, người giám định, người phiên dịch cho bị can, Bộ luật TTHS cũng quy định những trường hợp những người THTT phải từ chối THTT hoặc bị thay đổi (Điều 42 Bộ luật TTHS) và người giám định, người phiên dịch phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi (Điều 62, 61 Bộ luật TTHS).
- Bị can có quyền được nhận quyết định khởi tố; quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn; bản kết luận điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; bản cáo trạng; quyết định truy tố; các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật TTHS.
Quy định cho bị can có quyền nhận được tất cả các quyết định tố tụng theo quy định của Bộ luật TTHS là một việc hết sức quan trọng giúp cho bị can thực hiện tốt quyền bào chữa của mỡnh. Có đọc và nắm được tất cả những tài liệu và tình tiết của vụ án liên quan đến bản thân và liên quan đến những bị cáo khác (nếu có) thì bị can mới có được khả năng chuẩn bị ý kiến để bào chữa cho mình. Phù hợp với quy định này, khoản 2 Điều 160 Bộ luật TTHS quy định CQĐT ra quyết định tạm đình chỉ điều tra phải gửi quyết định này cho bị can; khoản 4 Điều 162 quy định trong thời hạn 2 ngày kể từ ngày ra bản kết luận điều tra, CQĐT phải gửi bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc quyết định đình chỉ điều tra cho bị can; khoản 1 Điều 166 quy định trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày ra một trong những quyết: truy tố bị can trước toà bằng bản cáo trạng; trả hồ sơ để điều tra bổ sung; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án; VKS phải thông báo cho bị can, giao bản cáo trạng, quyết định đình chỉ vụ án hoặc tạm đình chỉ vụ án cho bị can.
�- Bị can có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền THTT.
Như đã phân tích ở trên, bị can có quyền tiếp xúc với tất cả các quyết định tố tụng theo quy định của Bộ luật TTHS, từ đó pháp luật cũng quy định các cơ quan THTT phải tạo điều kiện cho bị can thực hiện các quyền này. Khi đã nắm được toàn bộ những quyết định, những kết luận tố tụng, những tài liệu về vụ án, bị can có thể khiếu nại đối với những quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền THTT.
Ngày 08/09/2006, TAND Thành phố Hà Nội mở phiên toà xét xử vụ án nhận hối lộ, trong đó bị cáo Trần Lê Sơn bị VKS Thành phố Hà Nội truy tố về hành vi môi giới hối lộ. Trước vành móng ngựa, Sơn trình bày rành rẽ : “VKS tống đạt cáo trạng tới bị cáo, nhưng hôm sau lại thay bằng một bản khác. Cáo trạng đọc tại toà hôm nay là bản cũ”. Theo Sơn cáo trạng còn trích dẫn không chính xác nhiều lời khai cũng như thời gian xảy ra vụ án và thời điểm bắt các bị cỏo…Bị bất ngờ trước việc này, Thẩm phán chủ toạ phiên toà đã cho đối chất giữa đại diện VKS và bị cáo. Và khi được luật sư cung cấp cả hai bản cáo trạng và so sánh thì Toà án thấy rằng hai bản cáo trạng được tống đạt cho bị cáo Sơn là không giống nhau. Ngày 11/09/2006, sau 3 ngày xét xử, TAND Thành phố Hà Nội tuyờn trả hồ sơ về VKSND Thành phố Hà Nội để tống đạt lại cho các bị cáo theo đúng thủ tục tố tụng.(�)
- Bị can có quyền tham gia một số hoạt động điều tra.
Để tạo điều kiện cho bị can thực hiện quyền bào chữa, Bộ luật TTHS quy định, khi khám nghiệm hiện trường và khi tiến hành thực nghiệm điều tra trong trường hợp cần thiết bị can cũng có thể tham gia (Điều 150, 153 Bộ luật TTHS).
2.1.2. Đảm bảo quyền tự bào chữa trong giai đoạn xét xử
Sau khi Toà án quyết định đưa vụ án ra xét xử, bị can trở thành bị cáo và quyền bào chữa của họ tiếp tục được bảo đảm bằng các quy định của Bộ luật TTHS.
- Bị cáo có quyền được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng, thay đổi, hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn; quyết định đình chỉ vụ án; bản án, quyết định của Toà án; các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật TTHS.
Các quyết định, các văn bản kể trên liên quan trực tiếp tới quyền lợi và nghĩa vụ của bị cáo nói chung và quyền bào chữa của bị cáo nói riêng. Nhận được đầy đủ các quyết định này nhằm tạo điều kiện cho bị cáo có thể thực hiện tốt quyền bào chữa cũng như các quyền và nghĩa vụ tố tụng khác của mình. Đồng thời quy định này cũng đòi hỏi các cơ quan THTT phải giải quyết vụ án theo đúng thủ pháp luật, các văn bản, các quyết định được ban hành phải có căn cứ và hợp pháp.
Quyền được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử là quyền quan trọng của bị cáo. Theo quy định tại khoản 1 Điều 182 Bộ luật TTHS, quyết định đưa vụ án ra xét xử phải được giao cho bị cáo chậm nhất là 10 ngày trước khi mở phiên toà. Quyết định đưa vụ án ra xét xử có những nội dung rất cần thiết cho bị cáo trong việc chuẩn bị bào chữa: tội danh và điều khoản của Bộ luật Hình sự mà VKS áp dụng đối với hành vi của bị cáo; ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm mở phiên toà; họ tên Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Toà án, KSV, người bào chữa, người phiên dịch nếu có; họ tên người được triệu tập tới phiên toà để xét hỏi; vật chứng cần đưa ra xem xét tại phiên toà… (Điều 178 Bộ luật TTHS). Cùng với những điều đã biết về kết luận điều tra, các tình tiết và tài liệu vụ án nêu trong bản cáo trạng, việc nghiên cứu quyết định đưa vụ án ra xét xử cũng là cơ sở để bị cáo có thể thực hiện được các quyền của mình như quyền tham gia phiên toà, quyền đề nghị thay đổi người THTT, quyền yêu cầu xem xét thêm vật chứng mới… Quyết định đưa vụ án ra xét xử là một quyết định rất quan trọng với bị cáo nên trong trường hợp bị cáo chưa được giao nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử trong thời hạn 10 ngày trước khi mở phiên toà và bị cáo có yêu cầu thì HĐXX phải hoón phiờn toà (Điều 201). Pháp luật cũng quy định đảm cho bị cáo được nhận các quyết định khác của Toà án theo Điều 182 Bộ luật TTHS.
- Bị cáo có quyền tham gia phiên toà.
Trong TTHS, giai đoạn xét xử là giai đoạn quan trọng nhất, trong giai đoạn này tội trạng của bị cáo sẽ được xác định một cách công khai trước phiên toà với sự tham gia của cỏc bờn tố tụng. Thay mặt Nhà nước, HĐXX sẽ quyết định những vấn đề quan trọng nhất của TTHS là xác định tội danh và quyết định hình phạt đối với bị cáo dựa trên những chứng cứ đã thu thập được tại phiên toà. Tại phiên toà, bị cáo bình đẳng với KSV và những người tham gia tố tụng khác trong việc đưa ra các chứng cứ, đồ vật, tài liệu, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ tại phiên toà… Như vậy, thực hiện quyền bào chữa tại phiên toà có thể coi là hành vi tố tụng quan trọng nhất trong các hành vi tố tụng của bị cáo. Và để bị cáo có thể thực hiện được hành vi đó pháp luật quy định tham gia phiờn toà là quyền của bị cáo và Toà án chỉ được phép xét xử vắng mặt bị cáo trong những trường hợp được quy định tại khoản 2 Điều 187 Bộ luật TTHS còn các trường hợp khác nếu bị cáo vắng mặt đều phải hoón phiờn toà. Tham gia phiên toà cũng là nghĩa vụ của bị cáo, nếu bị cáo vắng mặt tại phiên toà mà không có lý do chính đỏng thì sẽ bị áp giải.
�- Bị cáo có quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ.
Đõy là quyền của bị cáo được ghi nhận trực tiếp tại điểm a, khoản 2 Điều 50 Bộ luật TTHS. Trong phần thủ tục bắt đầu phiên toà, chủ toạ phiên toà sẽ thay mặt HĐXX giải thích quyền và nghĩa vụ cho bị cáo. Biết mình có những quyền gì và phải thực hiện những nghĩa vụ gì sẽ giúp cho bị cáo chủ động, hoà nhập tốt hơn vào diễn biến phiên toà.
- Bị cáo có quyền đề nghị thay đổi người THTT, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật TTHS.
Bị cáo là đối tượng bị đưa ra xét xử, là đối tượng bị buộc tội trong vụ án hình sự, việc xét xử như thế nào ảnh hưởng trực tiếp tới quyền và nghĩa vụ của bị cáo, vì vậy, bị cáo có quyền được đề nghị thay đổi người THTT, người giám định, người phiên dịch khi có căn cứ rõ ràng để cho rằng họ khụng vụ tư trong khi làm nhiệm vụ. Bị cáo có thể thực hiện quyền này trước hoặc tại phiên toà khi HĐXX hỏi. Trước khi mở phiên toà, trong thời gian chuẩn bị xét xử, nếu bị cáo yêu cầu thay đổi KSV, thành viên HĐXX, Thư ký Toà án thì Viện trưởng VKS và Chánh án Toà án xem xét giải quyết yêu cầu của bị cáo (Điều 60, 61 Bộ luật TTHS). Tại phiên toà, khi bị cáo có yêu cầu thay đổi người THTT, người giám định, người phiên dịch thì HĐXX phải xem xét quyết định.
- Bị cáo có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu.
Bị cáo có quyền đưa ra các tài liệu, đồ vật tại phiên toà xét xử. Những tài liệu, đồ vật mà bị cáo đưa ra thông thường có ý nghĩa gỡ tội cho bị cáo, chứng minh bị cáo không phạm tội hoặc chứng minh những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cỏo… HĐXX phải kiểm tra, xác minh và đỏnh giỏ các đồ vật, tài liệu đó có phải là chứng cứ trong vụ án không và giá trị của nó trong việc xác định sự thật của vụ án.
Bị cáo có thể đưa ra những yêu cầu: yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng; yêu cầu đưa thêm vật chứng và tài liệu ra xem xét; yêu cầu hoón phiờn toà (Điều 205); yêu cầu xem biên bản phiên toà và yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên toà và ký xác nhận (Điều 200). HĐXX xem xét và giải quyết yêu cầu của bị cáo.
Hai ngày trước khi mở phiên phúc thẩm lần 2 vụ tai nạn giao thông thảm khốc trên đường cao tốc Láng - Hoà Lạc vào ngày 25/2, TAND tối cao đã ra quyết định hoãn phiên xử. Một trong những lý do quan trọng là toà chưa gửi giấy triệu tập được hết tới hơn 20 người làm chứng như yêu cầu của gia đình 2 nạn nhân.(�)
- Bị cáo có quyền trình bày ý kiến tranh luận tại phiên toà.
Đõy là một điểm mới, một quyền mà Bộ luật TTHS năm 2003 quy định trực tiếp cho bị cáo (tại điểm g, khoản 2 Điều 50 Bộ luật TTHS) giúp bị cáo phát huy cao nhất quyền tự bào chữa của mình tại phiên toà. Bị cáo có quyền trình bày ý kiến về luận tội của KSV và đưa ra đề nghị của mình. Khi trình bày ý kiến tranh luận tại phiên toà, bị cáo bình đẳng với KSV và những người tham gia tranh luận khác. Theo nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án - Điều 19 Bộ luật TTHS và theo quy định tại Điều 218 Bộ luật TTHS thì Toà án, chủ toạ phiên toà có trách nhiệm tạo điều kiện cho bị cáo tranh luận, trình bày hết ý kiến nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
- Bị cáo có quyền nói lời sau cùng trước khi nghị án.
Sau khi HĐXX kết thúc xét hỏi và tranh luận, bị cáo được nói lời sau cùng trước khi nghị án. Pháp luật quy định quyền này là để tạo điều kiện cho bị cáo có cơ hội được trình bày thái độ, nguyện vọng của mình trước khi HĐXX đưa ra những quyết định đối với vụ án. Trong khi nói lời sau cùng, bị cáo có quyền trình bày mọi vấn đề liên quan tới vụ án, tỏ thái độ của mình đối với việc buộc tội…
Khi được nói lời sau cùng trước khi HĐXX nghị án, nguyên thứ trưởng Bộ Thương Mại Mai Văn Dâu nghẹn ngào nhắc lại khoảng thời gian 2 năm 4 tháng sống trong trại giam. Đó là những lúc "tưởng như không sống nổi" khi bệnh tật dày vò nhưng vẫn "mong chờ đến ngày ra tòa để được trình bày đúng sự thật". Đó là những lúc phải khai đại theo yêu cầu của cán bộ điều tra để mong được tại ngoại. Trong lời phát biểu của mỡnh ụng Dõu cũn nhắc đến những ngày gắn bó với Bộ Thương mại. Ông nghẹn ngào: "Tụi đó cú những đóng góp nhất định đối với sự phát triển của Bộ. Bộ vừa được tặng Huân chương sao vàng và tôi tự hào là có phần đóng góp của mình trong đó. Sau những việc đã xảy ra, tôi thấy mình có lỗi. Xin toàn thể cán bộ nhân viên hãy tha lỗi cho tôi. Phải đứng trước vành móng ngựa vì những sai sót của bản thân là tụi đó mắc tội lỗi lớn. Tôi xin nhận lỗi với các bậc cha chú, anh em, con cháu..."(1)
HĐXX phải chú ý và tôn trọng quyền nói lời nói sau cùng của bị cáo trước khi nghị án. Nhiều trường hợp, khi nói lời sau cùng, bị cáo lại đưa ra những tình tiết có ý
nghĩa quan trọng với vụ án, khi đó HĐXX phải quyết định trở lại việc xét hỏi.
- Bị cáo có quyền kháng cáo bản án, quyết định của Toà án.
Khi không đồng ý với toàn bộ hoặc một phần bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án, pháp luật quy định cho bị cáo có quyền kháng cáo bản án, quyết định này để Toà án cấp phúc thẩm xét xử lại. Bị cáo có quyền kháng cáo về tất cả các vấn đề mà bản án sơ thẩm đề cập tới như: tội danh, loại hình phạt chính, hình phạt bổ sung, mức hình phạt chính, hình phạt bổ sung… Bị cáo cũng có quyền kháng cáo quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án. Khi kháng cáo của bị cáo là hợp lệ, Toà án cấp phúc thẩm phải xem xét và giải quyết yêu cầu kháng cáo của bị cáo. Để bị cáo có thể yên tâm thực hiện quyền kháng cáo của mình, luật TTHS quy định nếu chỉ có kháng cáo của bị cáo mà không có kháng cáo, kháng nghị theo hướng tăng nặng nào khỏc thỡ Toà án cấp phúc thẩm không có quyền sửa án theo hướng bất lợi cho bị cáo.
- Bị cáo có quyền khiếu nại quyết định, hành vi của cơ quan, người có thẩm quyền THTT.
Bị cáo có quyền khiếu nại quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền THTT. Những quyết định này không thuộc đối tượng kháng cáo như quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, quyết định hoón phiờn toà… Bị cáo cũng có quyền khiếu nại hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền THTT nếu các hành vi đó là trái pháp luật.
2.2. Đảm bảo quyền nhờ người khác bào chữa
Như đã phõn tích ở trên, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thể sử dụng các biện pháp do luật định để tự bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình và pháp luật cũng quy định các cơ chế bảo đảm cho họ thực hiện quyền tự bào chữa. Nhưng trên thực tế do hạn chế về hiểu biết pháp luật hay do bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng: tạm giữ, tạm giam nên người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không thể thực hiện được đầy đủ và có hiệu quả quyền tự bào chữa của mình. Chớnh vì vậy sự tham gia của người bào chữa trong TTHS là rất cần thiết trong việc thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; tạo điều kiện để TTHS đạt được mục đích đặt ra trong đó có mục đích bảo vệ hiệu quả các quyền và lợi ích hợp pháp của công dõn.
Tuy Bộ luật TTHS không nêu khái niệm thế nào là người bào chữa nhưng căn cứ vào quy định tại các Điều 56, 57 và 58 Bộ luật TTHS thì người bào chữa là người được cơ quan THTT cấp giấy chứng nhận bào chữa tham gia vào quá trình TTHS để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, góp phần làm sáng tỏ các tình tiết gỡ tội hay làm giảm nhẹ tội cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đồng thời giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo những vấn đề pháp lý cần thiết.
Hiện nay do trình độ dân trí và ý thức pháp luật của nhân dân ta còn hạn chế nên khi nói đến người bào chữa người ta chỉ nghĩ đến luật sư còn những người khác không phải luật sư thì không phải là người bào chữa. Tuy nhiên, luật sư là khái niệm nghề nghiệp còn người bào chữa là khái niệm tố tụng. Theo điều 56 Bộ luật TTHS, người bào chữa có thể là luật sư, bào chữa viên nhân dân, người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Luật sư là những người có đủ điều kiện hành nghề theo quy định của luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan tổ chức (sau đõy gọi chung là khách hàng) (Điều 2 Luật Luật sư). Tiêu chuẩn luật sư: là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ nghiêm Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khoẻ bảo đảm hành nghề thì có thể trở thành luật sư. (Điều 10 Luật Luật sư). Điều kiện hành nghề luật sư: người có đủ tiêu chuẩn quy định tại điều 10 của luật này muốn hành nghề luật sư thì phải có chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập một Đoàn luật sư. Khoản 1 Điều 22 của Luật Luật sư quy định luật sư có thể tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là cha mẹ, anh chị em ruột, người giám hộ của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Bào chữa viên nhõn dõn là người được tổ chức, đoàn thể xã hội cử ra để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Khi tham gia TTHS, bằng những hiểu biết pháp luật, bằng kỹ năng nghề nghiệp của mình, người bào chữa giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện tốt hơn quyền bào chữa của họ theo quy định của pháp luật đồng thời giúp cho cơ quan THTT giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, tránh thiên về buộc tội và xem xét một chiều. Khi tham gia TTHS, người bào chữa không chỉ bảo vệ quyền lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo cũn cú nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ pháp chế XHCN. Hai nhiệm vụ này có mối quan hệ mật thiết với nhau. Muốn bảo vệ tốt quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thì phải tôn trọng sự thật, tôn trọng pháp luật, ngược lại, muốn góp phần vào việc bảo vệ pháp chế XHCN thì phải làm tốt nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong vụ án trên cơ sở của pháp luật. Khi tham gia tố tụng, người bào chữa luôn phải chú ý cả hai nhiệm vụ trên. Nếu chỉ chú trọng nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thì dễ dẫn đến tình trạng nguỵ biện. Ngược lại, nếu chỉ chú ý đến việc bảo vệ pháp luật, pháp chế thì có thể biến mình thành “cụng tố” buộc tội tại phiên toà. Như vậy, đặc trưng cơ bản trong vai trò của người bào chữa khi tham gia tố tụng bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo với việc bảo vệ chân lý và tôn trọng pháp luật, pháp chế.
2.2.1. Đảm bảo quyền nhờ người khác bào chữa trong giai đoạn điều tra, truy tố
- Người bào chữa có quyền tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can, trong trường hợp bắt người theo quy định tại Điều 81 và Điều 82 Bộ luật TTHS thì người bào chữa tham gia từ khi có quyết định tạm giữ.
Việc quy định người bào chữa có quyền tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ, khi khởi tố bị can là cần thiết để đảm bảo cho việc tạm giữ và khởi tố bị can là có căn cứ và hợp pháp, đồng thời cũng đảm bảo việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế là cần thiết, tránh tình trạng tạm giữ, tạm giam bừa bãi và không đúng mục đích. Đồng thời, quy định thời điểm tham gia tố tụng từ rất sớm của người bào chữa nhằm đảm bảo cho người bào chữa có thể tiếp cận vụ án từ giai đoạn đầu và có cái nhìn toàn diện hơn về vụ án, quy định này cũng nhằm bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ. Tuy nhiên, không phải lúc nào người bào chữa cũng được tham gia tố tụng sớm như vậy, trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng VKS quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.
- Người bào chữa có quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu ĐTV đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác.
Được có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can, người bào chữa có cơ hội được trực tiếp nghe người bị tạm giữ, bị can trình bày về những tình tiết của vụ án. Trong quá trình xét hỏi, người bào chữa có thể phát hiện ra những tình tiết có ý nghĩa có lợi cho người bị tạm giữ, bị can. Khi được ĐTV cho phép, người bào chữa có thể dùng những câu hỏi khéo léo của mình làm sáng tỏ những tình tiết minh oan cho người bị tạm giữ, minh oan hoặc làm giảm nhẹ tội cho bị can. Mặt khác, sự có mặt của người bào chữa trong khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, trong khi hỏi cung bị can sẽ làm cho người bị tạm giữ, bị can ổn định hơn về mặt tâm lý, yên tâm khai báo chính xác sự việc. Đồng thời, sự có mặt của người bào chữa cũng ngăn ngừa những vi phạm pháp luật từ phía ĐTV, tránh tình trạng ĐTV dụ cung, mớm cung, dùng nhục hình, ép cung đối với người bị tạm giữ, bị can. Khi phát hiện ĐTV vi phạm pháp luật trong quá trình lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can thì người bào chữa có quyền khiếu nại tới cơ quan có thẩm quyền để xử lý.
Người bào chữa được có mặt trong những hoạt động điều tra khác, đó là các hoạt động điều tra quy định tại các chương XI, XII, XIII của Bộ luật TTHS khi được ĐTV đồng ý. Khi tham gia các hoạt động này người bào chữa có điều kiện thu thập thêm một số tình tiết có ý nghĩa trong việc gỡ tội hoặc làm giảm trách nhiệm hình sự của bị can.
- Người bào chữa có quyền được xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định có liên quan tới người mà mình bào chữa.
Các biên bản mà người bào chữa được xem như biên bản lấy lời khai của người bị tạm giữ, biên bản hỏi cung bị can, … Khi kết thúc điều tra, người bào chữa được gửi bản kết luận điều tra và đề nghị truy tố hoặc bản kết luận điều tra và quyết định đình chỉ điều tra... Được xem các biên bản, các quyết định đó sẽ giúp cho người bào chữa thực hiện tốt hơn nghĩa vụ bào chữa của mình đồng thời khi xem các biên bản, quyết định tố tụng nếu phát hiện ta những vi phạm pháp luật người bào chữa có thể khiếu nại tới cơ quan có thẩm quyền
- Người bào chữa có quyền đề nghị CQĐT thông báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can.
Đõy là một quy định mới của Bộ luật TTHS 2003 so với Bộ luật TTHS năm 1988. Như đã phân tích ở trên, sự tham gia của người bào chữa vào quá trình hỏi cung bị can có ý nghĩa không chỉ đối với người bào chữa, với bị can mà cũn có ý nghĩa trong việc đảm bảo sự thật khách quan của vụ án. Vì vậy, để đảm bảo cho việc tham gia của người bào chữa vào quá trình hỏi cung bị can, pháp luật quy định người bào chữa có quyền đề nghị CQĐT thông báo thời gian, địa điểm hỏi cung bị can. Quy định này cũng nhằm ràng buộc trách nhiệm của CQĐT trong việc đảm bảo cho người bào chữa tham gia hỏi cung bị can.
- Người bào chữa có quyền đề nghị thay đổi người THTT, người giám định, người phiên dịch.
Xuất phát từ nguyên tắc đảm bảo sự vô tư của những người THTT hoặc người tham gia tố tụng (Điều 14 Bộ luật TTHS) và đảm bảo quyền lợi cho người bị tạm giữ, bị can trong giai đoạn điều tra, khi có căn cứ thay đổi người THTT quy định tại Điều 42, người giám định tại khoản 4 Điều 60, người phiên dịch tại khoản 4 Điều 61, người bào chữa có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền thay đổi những người nói trên.
- Người bào chữa có quyền đưa ra đồ vật, tài liệu, yêu cầu.
Trong quá trình làm nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, người bào chữa có thể phát hiện ra những đồ vật, tài liệu mà các cơ quan THTT chưa phát hiện ra được. Trong trường hợp này, người bào chữa có quyền đưa ra những đồ vật, tài liệu đó để cơ quan THTT xem xét nhưng chỉ khi những đồ vật, tài liệu đó có lợi cho người bị tạm giữ, bị can và không làm xấu đi tình trạng hiện thời của họ, như: những đồ vật, tài liệu chứng minh sự vô tội của bị can, chứng minh sự không liên quan của người bị tạm giữ đến những căn cứ là lý do bắt giữ họ…
Trong giai đoạn điều tra, truy tố, người bào chữa có quyền đưa ra những yêu cầu: yêu cầu trưng cầu giám định,… cơ quan THTT phải tôn trọng quyền đưa ra yêu cầu của người bào chữa, nếu không đồng ý với những yêu cầu đó thì phải nêu rõ lý do.
- Người bào chữa có quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can nếu không thuộc bí mật Nhà nước, bí mật công tác.
Đõy là một quy định mới của Bộ luật TTHS 2003 so với Bộ luật TTHS năm 1988 nhằm tăng quyền cho người bào chữa khi thực hiện nhiệm vụ bào chữa. Trong quá trình tiếp xúc giữa người bị tạm giữ, bị can, người thân thích của người bị tạm giữ, bị can với người bào chữa, những người này có thể tin tưởng giao cho người bào chữa những tài liệu, đồ vật hoặc nói với người bào chữa những tình tiết mà vì một lý do nào đó họ không giao cho hoặc nói cho CQĐT, VKS. Hoặc người bị tạm giữ, bị can vì lý do bị tạm giữ, tạm giam… không thể thu thập được đồ vật, tài liệu thì có thể yêu cầu người bào chữa thu thập giỳp mỡnh. Những tình tiết, đồ vật, tài liệu này có thể được dùng làm căn cứ chứng minh cho sự vô tội của người bị tạm giữ, bị can hoặc làm giảm nhẹ tội cho bị can. Tuỳ theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được đồ vật, tài liệu liên quan tới vụ án thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho CQĐT, VKS. Việc giao nhận các tài liệu đó phải được lập biên bản theo quy định tại Điều 95 Bộ luật TTHS.
- Người bào chữa có quyền gặp người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam.
Việc bào chữa của người bào chữa sẽ trở thành hình thức nếu người bào chữa không hiểu rõ thái độ tâm lý, tâm tư của người bị tạm giữ, bị can. Khi gặp người bị tạm giữ, bị can, qua trao đổi, người bào chữa sẽ giúp cho người bị tạm giữ, bị can nhận thức đúng đắn việc bào chữa là nhằm bảo vệ những lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can trên cơ sở những quy định của pháp luật và tôn trọng sự thật khách quan của vụ án; giải thích những vấn đề pháp luật liên quan, cần thiết mà người bị tạm giữ, bị can chưa hiểu hoặc chưa biết cách trình bày trước các cơ quan THTT nhằm minh oan hoặc làm giảm nhẹ tội cho mình; phân tích cho người bị tạm giữ, bị can hiểu phải khai báo thành khẩn để người bào chữa có căn cứ rõ ràng bảo vệ người bị tạm giữ, bị can.
- Người bào chữa có quyền đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án có liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật.
Quyền này được thực hiện sẽ giúp người bào chữa nắm vững được các tình tiết của vụ án. Có đọc hồ sơ, người bào chữa mới biết bị can bị buộc tội gì, theo điều khoản nào của luật TTHS, mới nắm được bị can bị buộc tội trên cơ sở nào từ đó mới tìm ra chứng cứ gỡ tội cho bị can. Thực tiễn cho thấy nếu người bào chữa chỉ có mặt khi hỏi cung bị can hoặc tham dự các hoạt động điều tra khỏc thỡ không thể nắm được nội dung vụ án một cách đầy đủ. Do vậy quyền đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án có liên quan đến việc bào chữa sẽ giúp người bào chữa có cái nhìn toàn diện và đầy đủ hơn về vụ án từ giai đoạn khởi tố vụ án đến khi kết thúc điều tra, không chỉ với bị can mình bảo vệ mà còn đối với bị can khác của vụ án (nếu có) tạo điều kiện để người bào chữa đỏnh giá đúng vai trò của bị can trong vụ án để chuẩn bị bào chữa.
Nếu như Bộ luật TTHS năm 1988 chỉ quy định cho người bào chữa có quyền “đọc, ghi chép hồ sơ vụ án và ghi chép những điều cần thiết sau khi kết thúc điều tra thì Bộ luật TTHS năm 2003 đã quy định cho người bào chữa có quyền sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa. Đõy thực sự là một điểm mới, tiến bộ giúp cho người bào chữa có thể thực hiện quyền bào chữa của mình tốt hơn nhất là trong những vụ án mà hồ sơ vụ án rất dài, nhiều bút lục.
2.2.2. Đảm bảo quyền nhờ người khác bào chữa trong giai đoạn xét xử
- Người bào chữa có quyền gặp bị cáo đang bị tạm giam, có quyền tiếp xúc với bị cáo tại phiên toà khi chủ toạ phiên toà cho phép.
Sau khi đã nghiên cứu hồ sơ vụ án, người bào chữa gặp bị cáo để nắm vững diễn biến hành vi phạm tội, động cơ, mục đích, nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Nếu bị cáo không phạm tội thì việc gặp bị cáo giúp người bào chữa nắm vững chứng cứ gỡ tội, thấy được oan sai trong quá trình THTT, từ đó củng cố niềm tin nội tâm của mình khi bào chữa. Pháp luật quy định người bào chữa phải tôn trọng sự thật không được xúi giục bị cáo khai báo gian dối.
- Người bào chữa có quyền đề nghị thay đổi người THTT, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật TTHS.
- Người bào chữa có quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết có liên quan tới việc bào chữa từ bị cáo, người thân thích của bị cáo hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác.
- Người bào chữa có quyền đưa ra đồ vật, tài liệu, yêu cầu.
Trong giai đoạn xét xử người bào chữa có quyền đưa ra những yêu cầu: yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng, yêu cầu đưa thêm vật chứng, tài liệu ra xem xét, yêu cầu hoón phiờn toà khi có người vắng mặt tại phiên toà, yêu cầu tiếp tục việc xét hỏi nếu còn những điểm chưa rừ…Quyền đưa ra đồ vật, tài liệu, yêu cầu của người bào chữa có ý nghĩa quan trong với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo đồng thời giúp HĐXX đỏnh giá vụ án một cách khách quan.
- Người bào chữa có quyền tham gia xét hỏi, tranh luận tại phiên toà.
Khi xét hỏi tại phiên toà, Toà án sẽ trực tiếp xác định những tình tiết của vụ án bằng cách hỏi và nghe ý kiến của những người tham gia tố tụng, xem xét vật chứng, nghe ý kiến của KSV, người bào chữa… Bản án chỉ được căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét tại phiên toà. Vì vậy tại phiên toà xét xử, vai trò của người bào chữa được thể hiện rõ nét nhất. Người bào chữa có quyền hỏi bị cáo và những người khác về những vấn đề của vụ án để có được câu trả lời theo hướng có lợi cho bị cáo. Khi cần thiết người bào chữa có thể cùng HĐXX xem xét vật chứng không thể mang tới hiện trường hoặc xem xét tại chỗ để tìm ra những tình tiết gỡ tội cho bị cáo.
Sau khi kết thúc việc xét hỏi, người bào chữa tham gia tranh luận tại phiên toà, được phân tích, lập luận, đưa ra những lý lẽ và bày tỏ quan điểm để bảo vệ bị cáo. Khi tham gia tranh luận, người bào chữa có quyền bình đẳng với những người tham gia tranh luận. Người bào chữa có quyền trình bày ý kiến về luận tội của KSV và đưa ra ý kiến của mình. KSV phải đưa ra lập luận của mình đối với từng ý kiến. Chủ toạ phiên toà có quyền đề nghị KSV phải đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ án của người bào chữa mà những ý kiến đó chưa được KSV tranh luận.
- Người bào chữa có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền THTT.
- Người bào chữa có quyền kháng cáo bản án, quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 57 của Bộ luật TTHS.
Đõy là quyền độc lập của người bào chữa, trong trường hợp này người bào chữa có quyền kháng cáo không phụ thuộc vào ý chí của bị cáo cũng như người đại diện hợp pháp của bị cáo, tuy nhiên kháng cáo của người bào chữa phải theo hướng có lợi cho bị cáo.
- Người bào chữa có quyền tham gia phiên toà phúc thẩm.
- Tại phiên toà giỏm đốc thẩm hoặc tái thẩm, nếu thấy cần thiết thì Toà án phải triệu tập người bào chữa.
2.2.3. Nghĩa vụ của người bào chữa khi tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ớch hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
Ngoài những quyền trên, pháp luật cũn quy định người bào chữa có các nghĩa vụ tại khoản 3 Điều 58 Bộ luật TTHS: người bào chữa có nghĩa vụ:
Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
Tuỳ theo mỗi giai đoạn tố tụng khi thu thập được những tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ án, thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho CQĐT, VKS, Toà án. Việc giao nhận các tài liệu, đồ vật đó giữa người bào chữa và cơ quan THTT phải được lập biên bản theo quy định tại Điều 95 Bộ luật TTHS;
Giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ;
Không được từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà mình đã đảm nhận bào chữa, nếu không có lý do chớnh đáng;
Tôn trọng sự thật và pháp luật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật;
Có mặt theo giấy triệu tập của Toà án;
Không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bào chữa không được sử dụng các tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án với mục đích xâm phạm tới lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Người bào chữa làm trái pháp luật thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị thu hồi giấy chứng nhận bào chữa, xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Cùng với các quy định về quyền, các quy định về nghĩa vụ của người bào chữa sẽ giúp cho người bào chữa thực hiện nhiệm vụ tốt hơn, bảo vệ quyền và lợi ích của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đồng thời bảo vệ pháp chế XHCN.
2.3. Đảm bảo quyền có người bào chữa trong những trường hợp pháp luật quy định
Theo khoản 2, Điều 57 Bộ luật TTHS: “Trong những trường hợp sau đõy, nếu bị can, bị cáo, hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì CQĐT, VKS hoặc Toà án phải yêu cầu Đoàn luật sư phõn công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình:
a) Bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình được quy định tại Bộ luật hình sự.
b) Bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
Đầu tiên phải khẳng định rằng bị can, bị cáo thuộc các trường hợp trên vẫn có quyền tự bào chữa và quyền nhờ người khác bào chữa, những quyền này được bảo đảm bằng những quy định của pháp luật, nhưng khi họ không mời người bào chữa thì họ sẽ được các cơ quan có thẩm quyền chỉ định người bào chữa cho. Vậy tại sao họ lại có quyền được chỉ định người bào chữa? Chúng ta sẽ đi tìm hiểu từng trường hợp.
Trường hợp thứ nhất: bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình.
Trong hệ thống hình phạt, tử hình là hình phạt nghiêm khác nhất bởi vì hình phạt này tước đoạt đi quyền sống của người phạm tội. Khi biết mình phạm tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình, có thể bị tuyên án tử hình, bị can, bị cáo thường có những biểu hiện tõm lý bất thường, chán nản, thần kinh suy nhược. Đặc biệt là tại phiên toà, do tớnh chất nghiêm trọng của vụ án, không khí xét xử căng thẳng, một số trường hợp bị cáo trong vụ án bị xét xử theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình đã không giữ được bình tĩnh, hoảng loạn, có trường hợp ngất tại phiên toà. Vì vậy, bị can, bị cáo trong trường hợp này rất cần có người bào chữa, những người sẽ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, là chỗ dựa về mặt tinh thần cho bị can, bị cáo. Mặt khác, sự có mặt của người bào chữa sẽ giúp cho vụ án có tớnh chất đặc biệt nghiêm trọng được nhìn từ nhiều góc độ, được tiến hành một cách khách quan, có sự cọ sát giữa buộc tội và gỡ tội, để các quyết định và hành vi tố tụng của các cơ quan THTT được chớnh xác hơn, tránh được các quyết định sai lầm đặc biệt là việc tuyên một bản án tử hình thiếu chớnh xác bởi khi bản án ấy được thi hành thì sẽ không bao giờ có thể sửa sai được nữa.
Trường hợp thứ hai: bị can, bị cáo là người chưa thành niên.
Bị can, bị cáo là người chưa thành niên theo pháp luật TTHS nước ta là những bị can, bị cáo từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi. Do đặc điểm lứa tuổi đõy là những người chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tõm thần; tõm, sinh lý chưa ổn định, nhiều suy nghĩ và hành động cũn bột phát, chưa có đầy đủ năng lực để kiểm soát hành vi của mình. Chớnh vì vậy, có thể nói “trong TTHS, người chưa thành niên được hưởng một sự bảo vệ kép. Lớp bảo vệ thứ nhất là lớp bảo vệ mà pháp luật TTHS giành cho tất cả những công dõn tham gia TTHS, lớp bảo vệ thứ hai là lớp bảo vệ đặc biệt giành riêng cho người chưa thành niên”(�). Bộ luật TTHS nước ta đã dành hẳn 1 chương (Chương XXIII thuộc phần thứ bảy thủ tục đặc biệt) để quy định thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên. Về quyền bào chữa cũng vậy, người chưa thành niên do chưa phát triển đầy đủ, chưa có kinh nghiệm sống nên họ không thể thực hiện quyền tự bào chữa của mình một cách tốt nhất, thế nên pháp luật TTHS quy định ngoài quyền tự bào chữa, nếu họ hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì sẽ được các cơ quan THTT chỉ định người bào chữa cho.
Trường hợp thứ ba: người có nhược điểm về tõm thần hoặc thể chất.
Là những người bị câm, khiếm thị, khiếm thính hoặc bị những khuyết tật về tâm, sinh lý. Do những nhược điểm này họ khó có thể thực hiện tốt quyền tự bào chữa của mình.
Như Vừ Thanh Xuyên, bị cáo bị cõm điếc và mù chữ bị TAND tỉnh Hậu Giang đưa ra xét xử về tội giết người. Trong phiên toà ngày 09/02/2004, mặc dù đứng trước vành móng ngựa nhưng bị cáo không thể hiểu HĐXX hỏi gì, không thể trình bày ý kiến trước toà (Xuyên chưa được học giao tiếp bằng cách ra hiệu). HĐXX chủ yếu hỏi luật sư và cha mẹ bị cáo đồng thời dựa vào các chứng cứ khác của vụ án để xét xử.(1)
Như vậy có thể thấy rằng sự tham gia của người bào chữa trong các vụ án có những người quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 57 Bộ luật TTHS là hết sức cần thiết. Pháp luật không quy định rừ thời điểm tham gia tố tụng của người bào chữa trong những trường hợp này, tuy nhiên, theo quy định của pháp luật thì người bào chữa chỉ được chỉ định cho bị can, bị cáo. Đối với người bị tạm giữ (là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tõm thần hoặc thể chất) không có quy định về việc được chỉ định người bào chữa. Vậy có thể hiểu rằng người bào chữa được tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can.
Quyền được chỉ định người bào chữa của bị can, bị cáo trong các trường hợp này được thực hiện ở tất cả các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm. Các cơ quan THTT phải đảm bảo quyền được cử người bào chữa cho họ nếu không sẽ vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Trừ trường hợp khi phạm tội, người phạm tội là người chưa thành niên nhưng khi khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử họ đã đủ 18 tuổi thì không thuộc trường hợp quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 57 Bộ luật TTHS.
Bị can, bị cáo trong các trường hợp này có quyền được chỉ định người bào chữa nhưng họ và người đại diện hợp pháp của họ vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa. Không ai được phép ép buộc họ nhận người bào chữa mà họ không đồng ý. Tuy nhiên, cũng có khi họ không chấp nhận người bào chữa do họ không hiểu pháp luật (như lo không có tiền trả thù lao, sợ rằng có người bào chữa sẽ bị coi là ngoan cố và tội sẽ nặng hơn). Do đó cơ quan THTT phải xem xét kỹ và giải thích cho bị can, bị cáo rõ.
Đảm bảo quyền có người bào chữa cho những người được quy định tại điểm a, b, khoản 2 Điều 57 là một trong những quy định thể hiện rừ nhất nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa đồng thời thể hiện tớnh dõn chủ và nhõn đạo của pháp luật TTHS nước ta.
CHƯƠNG 3
THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ, BỊ CAN, BỊ CÁO VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT, NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ, BỊ CAN, BỊ CÁO
3.1. Thực trạng bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
3.1.1. Những kết quả đạt được trong việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
3.1.1.1. Những kết quả đạt được trong việc bảo đảm quyền tự bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
Quyền tự bào chữa là một nội dung quan trọng trong quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và vì nhiều lý do khác nhau mà người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thường tự bào chữa cho mình. Theo một nghiên cứu gần đây thỡ cú khoảng 90% số vụ án bị can, bị cáo tự bào chữa cho mình mà không nhờ người bào chữa.(�)Bà Tạ Thị Minh Lý, Cục trưởng cục trợ giúp pháp lý Bộ Tư pháp cũng cho biết “Chỉ có 30% số vụ án (Hình sự và Dân sự) trong cả nước có luật sư tham gia (2).
Theo báo cáo tổng kết công tác năm 2006 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2007 của ngành TAND thì: Năm 2006, các TAND và Toà án Quân sự các cấp đã giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc thẩm được 74.455 vụ án hình sự với 122.225 bị cáo. Trong đó các Toà án cấp sơ thẩm đã giải quyết 60.703 vụ với 100.415 bị cáo, các Toà án cấp phúc thẩm đã giải quyết 13.511 vụ với 21.483 bị cáo. Các hội đồng giám đốc thẩm và tái thẩm đã giải quyết 241 vụ.
Tỷ lệ các bản án, quyết định giải quyết các vụ án hình sự bị huỷ là 0,6%, sửa là 4,1%. So với năm 2005, tỷ lệ bản án, quyết định bị huỷ giảm 0,1%, sửa giảm 0,1% (trong đó, tỷ lệ bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm huỷ để giải quyết lại chiếm 0,68%, sửa chiếm 5%; tỷ lệ bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm bị huỷ chiếm 0,33%. Các Toà ỏn đó áp dụng hình phạt không phải là hình phạt tù hoặc áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo đối với 24.771 bị cáo (chiếm 28%)
Trong báo cáo trên cũng cho biết: “Trong quá trình giải quyết, xét xử các vụ án, các Toà ỏn đó đảm bảo cho những người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của họ. Các phán quyết của Toà án căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà và trên cơ sở xem xét một cách khách quan, toàn diện các chứng cứ của vụ án nờn đó đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, đỳng phỏp luật”. So với các năm trước, việc yêu cầu bồi thường thiệt hại do bị oan đã giảm nhiều. Trong năm 2006 không có trường hợp nào Toà án kết án oan người không có tội và phải bồi thường theo Nghị quyết số 388 ngày 17/03/2003 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội(1).
Như vậy, báo cáo trờn đó gián tiếp cho chúng ta thấy rằng quyền bào chữa trong đó có quyền tự bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đã phần nào được bảo đảm. Tuy nhiên, tỷ lệ các bản án bị huỷ và bị sửa vẫn còn khá cao. Điều này một phần là do sự tham gia của người bào chữa trong các vụ án hình sự cũn quỏ ớt. Nếu người bào chữa tham gia nhiều hơn vào các vụ án thì tỷ lệ các bản án bị sửa và bị huỷ chắc chắn sẽ không còn cao như vậy.
3.1.1.2. Những kết quả đạt được trong việc bảo đảm quyền nhờ người khác bào chữa và quyền có người bào chữa trong các trường hợp do pháp luật quy định của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
Tuy tỷ lệ các vụ án hình sự có người bào chữa tham gia cũn khỏ khiêm tốn, chỉ chiếm khoảng 10% nhưng những năm gần đây, người bào chữa đã tham gia ngày càng nhiều hơn vào hoạt động TTHS và sự tham gia của người bào chữa đã góp phần nâng cao chất lượng xét xử các vụ án hình sự.
Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ của 49/62 Đoàn luật sư, trong 4 năm (từ khi Pháp lệnh luật sư có hiệu lực thi hành đến hết tháng 05/2005) các luật sư đã tham gia tố tụng 28.270 vụ án hình sự. Trong việc tham gia TTHS, tỷ lệ số việc bào chữa do công dân mời đang có chiều hướng tăng so với việc bào chữa do các cơ quan THTT chỉ định theo quy định của pháp luật (có 16.357/28.270 vụ việc luật sư bào chữa theo hợp đồng với khách hàng)(2).
Việc người bào chữa tham gia tranh tụng đó giỳp cho hoạt động THTT đảm bảo tính dân chủ hơn và tình trạng oan sai từng bước được khắc phục. Nhờ sự tham gia bào chữa của luật sư, nhiều người đã được minh oan, trong đó phải kể đến ông Nguyễn An Trung (Việt Kiều Nhật Bản) được tuyên không phạm tội trong vụ án 118 ô tô tay lái nghịch xảy ra tại Công ty liên doanh Sài Gòn ô tô; các bị cáo được tuyên không phạm tội và trả tự do sau phiên phúc thẩm như Trịnh Ngọc Tương (Long An) sau mức án 5 năm tù, Bùi Văn Mãnh (Tiền Giang) sau mức án 18 năm tù (ông Mãnh là người đầu tiên khởi kiện đòi bồi thường oan sai và mới được chính thức xin lỗi công khai vào ngày 25/02/2005); được tuyên không phạm tội sau phiên toà giám đốc thẩm của Toà hình sự TAND tối cao như Vũ Hùng Lượng (Khánh Hoà) sau bản án hai cấp tuyên phạt 10 năm tù... (1) Trong nhiều phiên toà, HĐXX đã chấp nhận quan điểm bào chữa của người bào chữa, nhiều bị cáo được giảm khung hình phạt, nhiều bị cáo được Toà ỏn tuyờn hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo...
Thực tế cho thấy, người bào chữa tham gia tố tụng hình sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chủ yếu là luật sư, những người bào chữa khác là bào chữa viên nhân dân và người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chiếm số lượng rất ít. Và do thiếu hiểu biết pháp luật, thiếu kỹ năng hành nghề nên chất lượng bào chữa trong các vụ án có người bào chữa là bào chữa viên nhân dân, người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thường không cao.
Thời gian vừa qua, các cơ quan THTT đã đảm bảo chỉ định người bào chữa cho bị cáo trong những trường hợp pháp luật quy định bắt buộc phải có người bào chữa.
Theo số liệu thu thập được từ các Toà án cho thấy người bào chữa chủ yếu tham gia tại các TAND cấp tỉnh, các Toà án cấp huyện rất ít vụ án có người bào chữa, nếu có thì cũng chỉ là các trường hợp bào chữa do chỉ định.
Theo số liệu của TAND tỉnh Nam Định:
Năm
Số án HSST đã xét xử
Số vụ án có NBC tham gia
Tỷ lệ %
2004
242
47
19,4
2005
264
60
22,8
2006
164
42
25,6
(Nguồn: Toà Hình sự TAND tỉnh Nam Định)
Số liệu của TAND tỉnh Bắc Giang.
Năm
Số án HSST đã xét xử
Số vụ án có NBC tham gia
Tỷ lệ %
2005
174
34
19,5
2006
198
39
19,7
(Nguồn: Toà Hình sự TAND tỉnh Bắc Giang)
Theo số liệu của TAND huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương (TAND này đã được tăng thẩm quyền xét xử) thì từ năm 2004 đến năm 2006 Toà ỏn đó giải quyết được tất cả 55 vụ án hình sự nhưng chỉ có 2 vụ án có người bào chữa tham gia thuộc trường hợp bào chữa do chỉ định.(Nguồn: TAND huyện Ninh Giang, Tỉnh Hải Dương).
Theo số liệu của TAND huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá (TAND này chưa được tăng thẩm quyền xét xử) thì trong 4 năm từ năm 2003 đến năm 2006 Toà ỏn đó giải quyết tất cả 65 vụ án hình sự nhưng trong đó không có vụ án nào có sự tham gia của người bào chữa. (Nguồn: TAND huyện Nga Sơn, Tỉnh Thanh Hoá)
Tại các Thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, số lượng người bào chữa tham gia trong các vụ án hình sự khá cao. Theo số liệu từ Đoàn luật sư Thành phố Hà Nội thì: từ tháng 10/2002 đến tháng 11/2004, theo số liệu thống kê, báo cáo chưa đầy đủ của các Văn phòng luật sư gửi về Đoàn luật sư, luật sư Hà Nội đã tham gia tố tụng hình sự 2.898 vụ theo yêu cầu của bị cáo hoặc gia đình họ và bào chữa theo chỉ định của Toà ỏn cỏc cấp là 509 vụ(1).
Tuy pháp luật đã quy định người bị tạm giữ có quyền nhờ người khác bào chữa nhưng trên thực tế do nhiều nguyên nhân, rất hiếm gặp trường hợp người bị tạm giữ có người bào chữa. Như theo số liệu của VKS nhân dân tỉnh Nam Định, trong 4 năm 2003, 2004, 2005, 2006 CQĐT Công an tỉnh Nam Định đã tạm giữ 495 người, CQĐT Công an các huyện đã tạm giữ 2286 người nhưng trong đó không có trường hợp người bị tạm giữ nào có người bào chữa.( Nguồn: VKS nhân dân tỉnh Nam Định).
3.1.2. Những hạn chế, vướng mắc trong việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
Như vậy, theo các số liệu và đánh giá ở trên chúng ta có thể thấy rằng việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong thời gian qua đã đạt được một số kết quả rất đáng ghi nhận. Tuy nhiên, bên cạnh đó việc thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vẫn còn những hạn chế vướng mắc từ cả ba phía: cơ quan THTT, người bào chữa, và người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
3.1.2.1. Những hạn chế, vướng mắc từ phía cơ quan THTT
Thứ nhất, trong việc giải thích quyền và nghĩa vụ cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đã được Bộ luật TTHS 2003 ghi nhận rất rõ ràng, Bộ luật cũng quy định các cơ quan THTT có nghĩa vụ giải thích cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo biết quyền và nghĩa vụ của họ. Tuy nhiên, trên thực tế các cơ quan THTT vẫn vi phạm quyền này của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Nhiều trường hợp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không biết mình có quyền bào chữa, quyền nhờ người khác bào chữa cho mình, nhất là đối với các bị can phạm những tội đặc biệt nghiêm trọng bị cách ly, không được gặp người thõn, khụng được tiếp xúc với văn bản pháp luật nếu không được giải thích về quyền và nghĩa vụ thì việc biết có thể mời người bào chữa và việc có người bào chữa là vô cùng khó khăn.
Thứ hai, tình trạng mớm cung, bức cung.
Lời khai là một loại nguồn chứng cứ quan trọng, nó giỳp cơ quan THTT xác định đúng sự thật khách quan của vụ án đồng thời nó cũng là phương tiện giúp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thể chứng minh sự vô tội hoặc gỡ tội cho mình. Lời khai của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chỉ trở thành một loại nguồn chứng cứ khi đảm bảo được tính khách quan và tính hợp pháp, nó phải thể hiện ý chí đích thực của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Bức cung, mớm cung dưới mọi hình thức đều gây ảnh hưởng đến tính hợp pháp của lời khai, vi phạm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và đều bị pháp luật nghiêm cấm. Thế nhưng, tình trạng mớm cung, bức cung vẫn xảy ra ở cả giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử. Ở giai đoạn điều tra, mớm cung và bức cung khá phổ biến, có trường hợp để có được lời khai như ý mình ĐTV đó dựng nhục hình với bị can (như trường hợp của Hoàng Linh đã dẫn ở trang 23 của khóa luận này) dẫn đến tình trạng tại phiên toà các bị cáo đồng loạt phản cung, không công nhận lời khai của mình tại CQĐT (như vụ án Vườn Điều khi đưa ra xét xử các bị cáo đều đồng loạt phản cung). Giai đoạn xét xử, ở một số Toà ỏn, các Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân vẫn sử dụng các câu hỏi mang tính chất mớm cung như các câu hỏi có đuôi “phải khụng”, cỏc câu hỏi có liên từ “hay là”…Cú trường hợp các thành viên của HĐXX và KSV còn quát nạt bị cáo trước toà.
Phiên toà ngày 29/03/2007 tại TAND quận Liên Chiểu Thành phố Đà Nẵng xét xử bị cáo Nguyễn Thanh Châu về tội cố ý gây thương tích, bị cáo Chõu đó nhiều lần kêu oan vì kết luận khác nhau giữa bản kết luận điều tra của CQĐT và bản cáo trạng của VKS. Trong khi xét hỏi, KSV Đinh Thanh Dũng đã nhiều lần lớn tiếng, dùng những lời lẽ uy hiếp bị cáo Châu. Rồi khi đến cao trào, vị KSV này đùng đùng đứng dậy chỉ tay vào mặt bị cáo thì bị cáo đó rỳt từ trong túi quần chai thuốc sâu hiệu Dibamerin uống cạn. Phiên toà tạm hoãn và bị cáo Châu phải nhập viện. Rất may, bị cáo đã không nguy hiểm đến tính mạng và hiện nay đã dần hồi phục.(�)
Thứ ba, thủ tục cấp giấy chứng nhận bào chữa cho người bào chữa.
Gần đây, Đoàn luật sư Thành phố Hà Nội đã gửi kiến nghị lên đồng chí Trương Vĩnh Trọng - Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Phó thủ tướng kiêm trưởng ban nội chính Trung ương về việc các thành viên của đoàn bị cơ quan THTT gây khó khăn, cản trở khi tham gia hoạt động bào chữa trong các vụ án hình sự, một trong những vấn đề mà đoàn đề cập đến là khó khăn trong việc được cấp giấy chứng nhận bào chữa. Pháp luật quy định, ngay từ giai đoạn điều tra, người bào chữa được phép tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Trong thời hạn 3 ngày từ khi nhận được đề nghị của người bào chữa kèm theo các giấy tờ liên quan đến việc bào chữa, CQĐT, VKS, Toà án phải xem xét cấp giấy chứng nhận bào chữa để họ thực hiện nhiệm vụ bào chữa (trong trường hợp bị tạm giữ thời hạn này là 24 giờ). Nhưng theo ông Phạm Hồng Hải, chủ nhiệm Đoàn luật sư Thành phố Hà Nội thì “hiếm có luật sư nào được cấp giấy chứng nhận bào chữa đúng thời hạn 3 ngày”. Nhiều lý do được CQĐT đưa ra nhưng thường gặp nhất là bị can từ chối luật sư. Ông Hải cho biết: “Đơn cử tại vụ án Lương Quốc Dũng, ngày thứ bảy vợ ông ta tới mời tôi. Ngay trong ngày thứ hai khi tới làm thủ tục tôi nhận được câu trả lời là nguyên phó chủ nhiệm Uỷ ban Thể dục thể thao này không có ý định mời luật sư. CQĐT cho biết, việc mời luật sư đã được thông báo với ông Dũng vào sáng thứ bảy. Trong khi đó, buổi chiều vợ ông ta mới tới văn phòng của tôi. Đến nay, vụ án đã khép lại nhưng tôi vẫn chưa thể hiểu được việc này. Hay có người, một ngày trước khi bị bắt đến tỡm tụi mời tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của anh ta. Nhưng khi tôi đến làm thủ tục cấp giấy chứng nhận bào chữa thì được CQĐT thông báo là anh ta từ chối có luật sư”(1). Có trường hợp bị can bị tạm giam, thân nhân mời luật sư nhưng khi luật sư cầm giấy giới thiệu đến thì CQĐT núi “ễng cú được chính bị can mời đâu mà đòi gặp bị can?”(2).
Thứ tư, trong việc tiếp xúc giữa người bào chữa và bị can, bị cáo bị tạm giam.
Xin được giấy chứng nhận bào chữa đó khó nhưng trong trường hợp nhận được giấy chứng nhận bào chữa thì việc tiếp cận thân chủ cũng chưa hẳn sẽ thuận buồm xuôi gió. "Có những vụ án dự đó được cấp giấy chứng nhận bào chữa nhưng luật sư vẫn không được vào trại tạm giam để gặp bị can vì người THTT (đặc biệt là ĐTV)
luụn tìm mọi lý do để né tránh không đi cùng. Mà trong thời gian điều tra, nếu không có ĐTV đi cùng, Ban giám thị trại tạm giam không cho phép luật sư vào gặp”, Chủ nhiệm Đoàn luật sư Hà Nội trình bày với Phó thủ tướng Trương Vĩnh Trọng.(3) Hay như luật sư Nguyễn Đức Chi – Đoàn luật sư Hà Nội, sau 1 năm chờ đợi để được cấp giấy chứng nhận bào chữa, luật sư vào gặp thân chủ nhưng lại bị yêu cầu phải nộp trước các câu hỏi(4). Khi người bào chữa tiếp xúc với bị can, bị cáo bị tạm giam thời gian gặp rất hạn chế là 1 tiếng đồng hồ mỗi lần gặp, nhiều trường hợp ĐTV, cán bộ trại giam lại có mặt cùng ở đó làm cho việc tác nghiệp, trao đổi giữa người bào chữa và bị can, bị cáo rất khó khăn.
Thứ năm, trong việc tạo điều kiện để người bào chữa có mặt trong các cuộc hỏi cung bị can.
Khi hỏi cung, các CQĐT thường hẹn tới hẹn lui khiến luật sư không thể theo được. Theo lời một trưởng phòng Cảnh sát điều tra thì khi hỏi cung, chỉ luật sư tin cậy mới được chấp nhận tham dự vì ngại bị tiết lộ bí mật vụ án. Luật sư Đào Ngọc cho biết: “Cú lần, tôi làm thủ tục đi cùng một ĐTV vào trại tạm giam, có mặt tại buổi lấy lời khai thân chủ của mình. Anh ta hẹn tôi 8h sáng có mặt tại cửa phòng làm việc. 7h30 tụi đó tới, nhưng tìm khắp nơi không thấy ĐTV này. Vào đến trại, tôi mới phát hiện ĐTV đú đó tiến hành lấy lời khai bị can”(1).
Thứ sáu, trong việc tạo điều kiện cho người bào chữa tiếp xúc với tài liệu của vụ án.
Hồ sơ, tài liệu của vụ án là một trong những nguồn quan trọng nhất giúp người bào chữa có thể thu thập chứng cứ để bào chữa cho bị can, bị cáo. Pháp luật quy định cho người bào chữa có quyền đọc, ghi chép, sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án có liên quan đến việc bào chữa. Nhưng trên thực tế quyền này của người bào chữa vẫn chưa được các cơ quan THTT bảo đảm thực hiện tốt. Luật sư Nguyễn Hoàng Hải, tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo Mai Văn Dâu kể, sau nhiều thời gian chờ để có được luụn tìm mọi lý do để né tránh không đi, nhưng khi tới VKS đề nghị được tiếp cận hồ sơ, ụng đó bị từ chối với lý do "KSV đang đọc”...Cú trường hợp, luật sư không được tiếp cận tài liệu của vụ án vì cơ quan THTT đưa ra lý do “khụng cú văn bản nào quy định giao hồ sơ cho luật sư mà chỉ cho đọc và ghi chộp”(2).
Thứ bảy, đối với các trường hợp phải chỉ định người bào chữa theo quy định tại khoản 2, Điều 57 Bộ luật TTHS.
Quy định tại khoản 2, Điều 57 Bộ luật TTHS là một quy định mang tính chất nguyên tắc nhằm đảm bảo quyền có người bào chữa cho những bị can, bị cáo thuộc
loại đặc biệt. Tuy nhiên, trong thực tế các cơ quan THTT thường không chủ động yêu cầu Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ mà bỏ mặc cho bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ mời người bào chữa. Chỉ đến khi Toà ỏn cú quyết định đưa vụ án ra xét xử mà bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa, lúc này, vì luật định, Toà án mới yêu cầu Đoàn luật sư chỉ định luật sư cho họ. Trong trường hợp này, quyền có người bào chữa của bị can theo quy định của khoản 2 Điều 57 sẽ không còn được thực hiện trên thực tế bởi lúc này tư cách pháp lý của họ đã thay đổi từ bị can sang bị cáo.
�Thứ tám, trong việc đảm bảo tranh tụng.
Theo một kết quả nghiên cứu, thời lượng dành cho giai đoạn tranh luận tại phiên toà hình sự sơ thẩm thường chỉ chiếm không quá 10% thời gian xét xử của toàn bộ phiên toà(1). Nhiều quan điểm pháp lý bảo vệ quyền và lợi hợp pháp cho bị cáo của người bào chữa không đựợc ghi nhận trong bản án hoặc bị bác bỏ mà không đưa ra các cơ sở pháp lý vững chắc. Sau một thời gian tranh luận nảy lửa tại phiên toà, người bào chữa thường vẫn nhận được một câu mang tính chất truyền thống của KSV “Tụi vẫn giữ nguyên quan điểm buộc tội của VKS”.
3.1.2.2. Những hạn chế, vướng mắc từ phía người bào chữa
Người bào chữa, luật sư than phiền về việc các cơ quan THTT không tạo điều kiện cho người bào chữa, cho luật sư tác nghiệp, nhưng những hạn chế vướng mắc từ phía người bào chữa không phải là không có và điều này cũng gây những ảnh hưởng nhất định đến việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Có thể kể đến như:
Thứ nhất, trong việc tôn trọng sự thật của vụ án.
Theo phản ánh của các cơ quan THTT thì nhiều luật sư tìm mọi cách kể cả bất hợp pháp để làm nhẹ tội cho thân chủ của mình. “Lẽ ra luật sư phải giải thích cho thân chủ của mình những quy định của tố tụng, động viên thân chủ làm rõ sự thật của vụ án, thế nhưng nhiều người lại lợi dụng việc tham gia hỏi cung để “phớm” bị can khai né tội. ĐTV có mặt ở đó để quan sát nhưng cũng không thể bắt bẻ gỡ vỡ luật sư có nói toạc ra đõu” - một cán bộ điều tra nói. Không chỉ vậy, luật sư cũn dựng quyền của mình để chuyển thư mớm cung, phản cung. Nhiều trường hợp, bị can đã nhận tội, đến khi gặp luật sư lại khai ngược lại, kêu là bị bức cung. Hay còn có chuyện luật sư bắt cá hai tay, mang danh là bảo vệ cho bị can A nhưng cứ vẽ ra để A nhận tội nhằm gỡ tội cho bị can B – đồng phạm trong vụ án(2).
Thứ hai, trong việc thực hiện nhiệm vụ bào chữa.
Thực tế cho thấy, vẫn còn những trường hợp người bào chữa thực hiện nhiệm vụ của mình một cách qua loa, đại khái, nhất là trong các trường hợp bào chữa chỉ định.
Các luật sư luôn than phiền rằng không được dự cung và gặp bị can trước khi hỏi cung nhưng cỏc phiờn hỏi cung không có mặt luật sư không phải chỉ do lỗi của CQĐT. Thực tế có luật sư chỉ đến CQĐT khi đó cú kết luận chính thức để đọc hồ sơ. Có người thậm chí chỉ tạt ngang, hỏi qua tình tiết của vụ án rồi không thấy quay lại nữa, dù việc lấy cung chưa xong và CQĐT chưa có thông báo về giờ giấc lấy cung(3).
Khi bị can, bị cáo thuộc trường hợp quy định tại điểm a, b, khoản 2 Điều 57 Bộ luật TTHS cơ quan THTT có trách nhiệm chỉ định người bào chữa cho họ. Tuy nhiên, theo ông Vũ Phi Long, Phú chỏnh Tòa hình sự TAND Thành phố Hồ Chí Minh rất nhiều luật sư khụng “tõm huyết”, thậm chí chỉ gửi bài bào chữa rồi vắng mặt. Với những bài bào chữa sơ sài, mở đầu bằng điệp khúc “đồng ý với quan điểm truy tố của VKS” rồi loanh quanh nờu cỏc tình tiết xin giảm nhẹ…(1)
Có những người bào chữa do nhận quá nhiều vụ án nên buộc phải chạy sô hay phải chọn một trong những vụ án cùng ngày cùng giờ, vì thế mới xảy ra trường hợp bị cáo thuê luật sư nhưng đến khi ra toà thì là người khác bào chữa, bị cáo thắc mắc thì được giải thích là: “Hụm nay luật sư bận nờn tụi đi thay”(2).
Có trường hợp người bào chữa không tham gia tố tụng tại phiên toà, không trực tiếp thẩm vấn, tranh tụng mà chỉ gửi bài bào chữa của mình đến toà, đưa ra quan điểm của mình dựa trên những tài liệu có trong hồ sơ. Chính vì vậy lời bào chữa của luật sư trong trường hợp này nhiều khi không chính xác chứ chưa nói gì đến việc thuyết phục HĐXX. Chưa kể có tình huống ngoài dự kiến như bị cáo bị luật sư phía đối phương hay đại diện VKS thẩm vấn có tính chất "gài bẫy", gây bất lợi... mà luật sư không có mặt thì không thể ra tay ứng cứu kịp thời cho thân chủ.
Tại phiên toà, người bào chữa còn bộc lộ những yếu kém về khả năng tranh tụng, bà Trần Ngọc Tuyết, đại diện VKS Thành phố Hồ Chí Minh cho biết, “cú những luật sư chỉ chú ý bắt lỗi dùng từ của KSV hoặc mất bình tĩnh từ đó có những phát biểu mang tính xúc phạm, bôi xấu lẫn nhau...”. Có luật sư lại không nhất quán về quan điểm bào chữa, vừa đề nghị tuyên bị cáo không phạm tội, nhưng sau đó lại “nếu nhận định bị cáo có tội thì giảm nhẹ hình phạt”(3).
Thứ ba, một số luật sư còn coi trọng vấn đề thù lao mà quên đi đạo đức nghề nghiệp, chuyện luật sư lợi dụng sự không hiểu biết của thân chủ để vòi tiền vẫn còn tồn tại. Một người thân của bị cáo trình bày: con bà uống rượu và đâm chết người, bà đi thuê luật sư bào chữa với "thù lao ban đầu" 2 triệu đồng. Nhận xong tiền, vị này "lặn" luôn chẳng làm gì cả. Bà đi tìm luật sư khỏc, đúng khoản tiền đầu tiên 2 triệu đồng. Mấy ngày sau, luật sư lại gọi điện bảo đúng thờm tiền vì "con bà án nặng lắm". 10 triệu đồng nữa được nộp cho luật sư... Thấy cứ phải đóng tiền nhiều lần, bà yêu cầu viết giấy biên nhận, luật sư bèn giãy nảy: "Bà không tin tôi thì thôi" nên bà không dám đề cập nữa. Gặp nhau trước giờ xét xử, luật sư nói với thân chủ: "Con bà có thể bị kết án chung thân, đến tử hình đó, bây giờ bà phải chi thêm 5 triệu nữa"(1)
3.1.2.3. Những hạn chế, vướng mắc từ phía người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
Thứ nhất, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thiếu tính chủ động trong việc bào chữa và nhờ người khác bào chữa. Khi bị rơi vào vòng pháp luật họ phó mặc cho các cơ quan THTT quyết định số phận của mình. Họ cũng thường có tâm lý lo sợ, không dám tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa vì cho rằng như thế sẽ bị coi là ngoan cố, và sẽ bị khép tội nặng hơn. Có những trường hợp muốn tìm người bào chữa cho mình nhưng vì hoàn cảnh khó khăn, tiền phớ thuờ luật sư lại cao nên lực bất tòng tâm.
Thứ hai, chất lượng tự bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thường là không cao do thiếu hiểu biết pháp luật. Khi tự bào chữa trước toà, bị cáo chủ yếu xin HĐXX xem xét giảm nhẹ tội cho mình hoặc viện hoàn cảnh gia đình, thái độ thành khẩn khai báo xin Toà án cho hưởng án treo.
Thứ ba, nếu không có sự giúp đỡ từ phớa cỏc cơ quan THTT hoặc từ phía người bào chữa, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo khó có thể tự mình thu thập được các tài liệu, đồ vật là chứng cứ của vụ án.
3.2. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc trong việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
3.2.1. Nguyên nhân về pháp luật
Thứ nhất, Bộ luật TTHS được ban hành và có hiệu lực pháp luật từ 01/07/2004 nhưng một thời gian khỏ lõu sau những văn bản hướng dẫn thi hành bộ luật, đặc biệt là các văn bản hướng dẫn việc thực hiện các quy định về đảm bảo quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mới được ban hành.
Thứ hai, một số quy định của Bộ luật TTHS và các văn bản liên quan về bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo còn bộc lộ nhiều thiếu sót.
Từ khi Bộ luật TTHS 2003 có hiệu lực thi hành đến khi Luật Luật sư có hiệu lực thi hành, trong 3 năm, pháp luật TTHS không có quy định hướng dẫn cụ thể về “cỏc giấy tờ cần thiết liên quan đến việc bào chữa” (quy định tại đoạn 1, khoản 4 Điều 56 Bộ luật TTHS). Hiện nay pháp luật cũng chưa có những quy định cụ thể về trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận bào chữa cho người bào chữa. Điều này gây khó khăn, không thống nhất trong việc cấp giấy chứng nhận bào chữa.
Khi tham gia tố tụng thì người bào chữa phải có đơn của người bị tạm giữ, bị can. Trên thực tế khi những đối tượng này bị tạm giữ, tạm giam, họ nhờ người bào chữa bằng con đường nào? Qua thông báo của cơ quan THTT hay do gia đình nhờ. Trường hợp gia đình nhờ người bào chữa thì cơ quan THTT có phải thông báo với bị can, thời gian thông báo trong bao lâu? Chưa có quy định cụ thể.
Theo quy định của pháp luật, “người bị tạm giữ, tạm giam có thể được gặp thân nhân, luật sư hoặc người bào chữa khác và do cơ quan đang thụ lý vụ án quyết định. Trưởng nhà tạm giữ, giám thị trại tạm giam quyết định thời gian gặp nhưng không quá một giờ mỗi lần gặp”. Điều bất hợp lý là ở chỗ, từ quyền Hiến định được bào chữa và nhờ người khác bào chữa, pháp luật đã biến thành “cơ chế xin- cho” thông qua việc phải được sự chấp thuận của cơ quan thụ lý vụ án và giới hạn thời gian làm việc “khụng quỏ một giờ”
Mặt khác, điểm e, khoản 2 Điều 58 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định người bào chữa được “gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam” nhưng không quy định cụ thể được gặp riêng hay không? Bởi hiện nay, khi người bào chữa trao đổi với người bị tạm giữ, bị can gặp rất nhiều ảnh hưởng khi ĐTV có mặt.
Khoản 2, Điều 57 Bộ luật TTHS chưa quy định rõ CQĐT, VKS, Toà án cơ quan nào có trách nhiệm chỉ định người bào chữa cho bị can cáo thuộc điểm a, b khoản này trong từng giai đoạn tố tụng mà chỉ quy định một cách chung chung dẫn đến khó xác định trách nhiệm của các cơ quan này.
Pháp luật TTHS còn thiếu các chế tài xử lý các trường hợp vi phạm trong việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo: như trường hợp chậm
cấp giấy chứng nhận bào chữa, ...
3.2.2. Nguyờn nhân thuộc về mặt nhận thức
Thứ nhất, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thiếu những hiểu biết về pháp luật nói chung và pháp luật TTHS nói riêng.
Khi tiến hành khảo sát trình độ học vấn của người phạm tội ở một số tội, kết quả thu được cho thấy, số người phạm tội không biết chữ còn chiếm tỷ lệ khá cao. Ví dụ, khảo sát 205 bị cáo phạm tội giết người, kết quả là số bị cáo không biết chữ chiếm tỷ lệ 17,56%, trong khi số bị cáo có trình độ cao đẳng, đại học chỉ chiếm 0,98%(1). Trình độ học vấn thấp, thiếu những kênh thông tin cần thiết về pháp luật nhất là pháp luật TTHS phần lớn người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đã không thể thực hiện hoặc thực hiện không hiệu quả quyền bào chữa của mình.
Thứ hai, những người THTT vẫn chưa quen với việc có mặt của người bào chữa, chưa có ý thức trong việc bảo đảm quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, đồng thời người bị tạm giữ, bị can, bị cáo cũng chưa có ý thức tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa bào chữa cho mình. Điều này là do trong một thời gian dài hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm ở nước ta tuân theo một ý thức hệ cũ, “di sản lịch sử tư pháp để lại là một hệ thống TTHS chú ý nhiều đến việc trừng trị kẻ phạm tội, hướng tới việc giải quyết nhanh chóng và kịp thời các vụ án hình sự mà vô hình chung đã quên đi việc đảm bảo tính công bằng để bảo vệ quyền lợi của công dân bị tình nghi phạm tội”(1).
3.2.3. Nguyên nhân về tổ chức
Thứ nhất, đội ngũ những người THTT thiếu về số lượng, yếu về chất lượng.
Theo một số liệu thống kê gần đõy, có 45,2% tổng số ĐTV, cán bộ điều tra có trình độ trung học nghiệp vụ (chủ yếu ở các tỉnh phớa nam, các tỉnh miền núi và cấp huyện); có 38,9% cán bộ điều tra, ĐTV cấp huyện có độ tuổi trên 40 và có xu hướng tăng, số cán bộ này không trong độ tuổi để đào tạo đại học (2).
Theo báo cáo của Cục Chính trị Tổng cục Cảnh sát nhân dân thì ở những quận huyện thuộc các thành phố lớn, một ĐTV phải thụ lý trung bình 10 vụ/thỏng, cỏ biệt có nơi lên đến 20 đến 30 vụ/thỏng như ở các quận Tõn Bỡnh, Bỡnh Thạnh (Thành phố Hồ Chí Minh). Như vậy, bình quân mỗi ĐTV có chưa tới 3 ngày để giải quyết 1 vụ, thậm chí có nơi 1 ngày 1 vụ(3).
Báo cáo của Chánh án TAND Tối cao cũng cho biết hiện nay toàn ngành toà án đang thiếu hơn 900 Thẩm phán, số Thẩm phán đương nhiệm cũng chưa đáp ứng được
về chất lượng và yêu cầu công việc(4).
Chính đội ngũ những người THTT vừa thiếu vừa yếu như vây đã làm cho chất
lượng giải quyết các vụ án không cao, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không được đảm bảo.
Thứ hai, đội ngũ luật sư chưa đáp ứng được yêu cầu của cải cách tư pháp.
Tính đến ngày 25/03/2006, tổng số luật sư nước ta là 3.918 luật sư và luật sư tập sự, trong đó có 2.035 luật sư có chứng chỉ hành nghề luật sư (chiếm 51,94%) và 1.883 luật sư tập sự (chiếm 48,06%). Như vậy có thể nói so với trước khi thi hành Pháp lệnh Luật sư 2001, đội ngũ luật sư nước ta đã tăng nhanh về số lượng. Tuy nhiên, số lượng luật sư phát triển không cân đối giữa các khu vực, ở các thành phố lớn đặc biệt là Hà Nội (chiếm 26,11% luật sư cả nước), Thành phố Hồ Chí Minh (chiếm 31,24%) trong khi ở một số nơi không có luật sư để thành lập Đoàn luật sư theo quy định của pháp luật như Điện Biên, Lai Châu(1).
Số lượng luật sư hiện có so với số dân cả nước còn rất thấp. Tỷ lệ luật sư nước ta là 1/21.215 người dân trong khi đó ở Thái Lan là 1/1.526, ở Singapore là 1/1.000, ở Mỹ là 1/250. Số lượng luật sư không đủ để đáp ứng nhu cầu về dịch vụ pháp lý của nhân dân ngay cả việc thực hiện bào chữa trong các vụ án bắt buộc phải có sự tham gia của người bào chữa(2).
Theo số liệu thống kê tháng 5/2005 thỡ cú 1.726 luật sư có dưới 5 năm kinh nghiệm hành nghề (chiếm 50,4%), và phần lớn các luật sư đã được cấp chứng chỉ hành nghề chưa qua đào tạo một cách cơ bản về kỹ năng hành nghề (do pháp luật trước đõy khụng quy định việc đào tạo nghề luật sư đối với những người muốn hành nghề luật sư); Tính chuyên môn hoá của luật sư nước ta cũng chưa cao, ở nước ta đa số các luật sư hành nghề trong tất cả các lĩnh vực như tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật và các dịch vụ pháp lý khác(3). Chính những điều này đã làm cho chất lượng luật sư ở nước ta không cao.
Thứ ba, về tổ chức của hệ thống các cơ quan THTT
VKS hiện nay có hai chức năng: chức năng thực hành quyền công tố và chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp. Chức năng thực hành quyền công tố Nhà nước là thay mặt Nhà nước buộc tội bị cáo, chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp là để bảo đảm quyền công dân (tuy nhiên, VKS không trực tiếp bảo vệ quyền lợi cho công dân mà chỉ thực hiện gián tiếp thông qua kiểm sát các hoạt động tố tụng). Về mặt tư duy có thể phân chia ra thành hai chức năng như trên nhưng khi đã giao cho KSV cả hai chức năng và cùng được thực thi song song với nhau thì khó có thể tách biệt được chúng. Việc thực hiện cựng lỳc cả hai chức năng này đối với VKS hiện nay là rất hạn chế. Để rõ hơn về vấn đề này xin trích dẫn lời của một chuyên gia pháp luật: “Vai trò của VKS còn rất hạn chế, còn hình thức, chưa bảo đảm được mức độ hiệu quả cần thiết. Đây là một thực tế. Đâu là nguyên nhân của tình trạng này? Tôi lấy ví dụ, người ta chú ý nhiều đến việc trừng trị kẻ phạm tội. Nhưng để chấp hành các thủ tục về bắt giam, nếu có sai sót chút ít , thì người ta vẫn chưa đặt vấn đề lớn đối với chuyện đó. Thành ra những sai sót nhỏ, những cái sai về thủ tục, người ta chưa đặt vấn đề đầy đủ để đảm bảo tránh sai sót. Người ta chỉ chú ý xác nhận cho đúng kẻ phạm pháp. Chính tư tưởng như vậy, tôi nghĩ rằng nếu CQĐT có sai thì VKS cũng không nghiêm khắc với những vấn đề đó, không chú ý đến những vấn đề đú”(1).
Và lâu nay cũng chính do không xác định rõ ranh giới giữa hai chức năng này,
thực hành quyền công tố đan xen cả kiểm sát tư pháp nên trong phiên toà, vị thế của KSV dường như cao hơn hẳn luật sư và những người tham gia tố tụng khỏc gõy ảnh hưởng đến việc tranh luận dân chủ tại toà.
Cũng phải nói thêm rằng, mô hình phiên toà nước ta vẫn chưa được đổi mới nhiều theo cải cách tư pháp, HĐXX có nhiệm vụ tìm kiếm sự thật, tìm kiếm cả chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội, sau cùng kết luận phán xử chứ chưa đóng vai trò là những người trọng tài phân xử khách quan, điều này cũng ảnh hưởng đến việc tranh tụng tại phiên toà.
3.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
3.3.1. Về hoàn thiện pháp luật
Có thể nói, nâng cao hiệu quả của việc thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, những giải pháp lâu dài và tổng thể đã được thể hiện trong Nghị quyết Bộ Chính trị số 08 về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp, Nghị quyết 48 và 49 về chiến lược cải cách tư pháp. Sau đây, chúng tôi xin đưa ra một số giải pháp cụ thể:
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung đoạn 1, Điều 11 Bộ luậtTTHS bảo đảm quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo quy định: “Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa”. Do kỹ thuật lập pháp, liên từ
“hoặc” được dùng không chính xác, bởi vì từ hoặc mang tính chất lựa chọn, mà quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo lại bao gồm cả hai loại quyền. Vì vậy nên sửa đổi lại là:
Điều 11. Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa.
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ luật này.
Thứ hai, pháp luật TTHS cần bổ sung quy định về thủ tục mời người bào chữa của người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam: khi người bị tạm giữ đang bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam thì họ có thể mời người bào chữa qua hai con đường: qua người thân hoặc qua các cơ quan THTT. Trong trường hợp gia đình nhờ người bào chữa thì cơ quan THTT phải thông báo với người bị tạm giữ, bị can. Cần bổ sung khoản 1 Điều 57 như sau:
Điều 57. Lựa chọn và thay đổi người bào chữa.
1. Người bào chữa do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ lựa chọn.
Người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam có thể nhờ người bào chữa thông qua các cơ quan tiến hành tố tụng hoặc thân nhân của những người này có thể mời người bào chữa cho họ. Trong trường hợp thân nhân của người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam mời người bào chữa cho họ thì cơ quan tiến hành tố tụng phải thông báo cho người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam biết trước khi cấp giấy chứng nhận bào chữa cho người bào chữa.
2. ... (giữ nguyên)
3. ... (giữ nguyên)
Thứ ba, quy định cụ thể về trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận bào chữa cho người bào chữa (quy định cụ thể một bộ phận nào đó của cơ quan THTT có nhiệm vụ xem xét các điều kiện cấp giấy chứng nhận bào chữa cho người bào chữa để kịp thời đề xuất lên người có thẩm quyền quyết định ví dụ bộ phận trực ban của CQĐT)
Thứ tư, quy định về chế độ tạm giữ, tạm giam hiện hành đã lạc hậu, không còn phù hợp, nên ban hành một văn bản mới quy định về chế độ tạm giữ, tạm giam. Trong văn bản này có quy định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam được tạo cơ hội, thời gian, phương tiện (phòng gặp) để người bào chữa đến gặp và cuộc gặp này mang tính chất riêng biệt. Những cuộc gặp như vậy có thể được tiến hành trong tầm nhìn nhưng không trong tầm nghe của những người THTT.
Thứ năm, quy định cụ thể trách nhiệm chỉ định người bào chữa cho bị can, bị cáo thuộc trường hợp quy định tại điểm a, b, khoản 2 Điều 57 Bộ luật TTHS trong từng giai đoạn tố tụng cho các cơ quan THTT. Vì vậy đề nghị sửa đổi bổ sung khoản 2 Điều 57 Bộ luật TTHS như sau:
Điều 57. Lựa chọn và thay đổi người bào chữa.
1. ... (giữ nguyên như đề xuất thay đổi)
2. Trong những trường hợp sau đây, nếu bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì tuỳ theo từng giai đoạn tố tụng Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình:
a) ... (giữ nguyên)
b) ... (giữ nguyên)
3. ... (giữ nguyên)
Thứ sáu, quy định CQĐT có trách nhiệm tạo điều kiện cho người bào chữa tham gia hỏi cung bị can: cần sửa đổi bổ sung khoản 1 Điều 131 Bộ luật TTHS:
Điều 131. Hỏi cung bị can.
1. Việc hỏi cung bị can phải do ĐTV tiến hành ngay sau khi có quyết định khởi tố bị can. Có thể hỏi cung bị can tại nơi tiến hành điều tra hoặc tại nơi ở của người đó.
Khi có đề nghị của người bào chữa của bị can, điều tra viên phải thông báo về thời gian, địa điểm tiến hành cuộc hỏi cung cho người bào chữa và tạo điều kiện cho người bào chữa của bị can tham gia cuộc hỏi cung.
Trước khi hỏi cung... (giữ nguyên)
Nếu vụ án... (giữ nguyên)
2. ... (giữ nguyên)
3. ... (giữ nguyên)
4. ... (giữ nguyên)
Thứ bảy, quy định VKS có trách nhiệm tạo điều kiện cho người bào chữa đọc, ghi chép, sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa. Bổ sung khoản 5 vào Điều 162 Bộ luật TTHS như sau:
Điều 162. Kết thúc điều tra.
1. ... (giữ nguyên)
2. ... (giữ nguyên)
3. ... (giữ nguyên)
4. ... (giữ nguyên)
5. Sau khi Viện kiểm sát nhận được những văn bản quy định tại khoản 4 Điều này và người bào chữa có yêu cầu, Viện kiểm sát tạo điều kiện cho người bào chữa đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án có liên quan đến việc bào chữa.
Thứ tám, quy định những biện pháp chế tài đối với các cơ quan THTT, người THTT có hành vi cản trở việc thực hiện quyền tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo như hành vi chậm cấp giấy chứng nhận bào chữa. Cần sửa đổi bổ sung Điều 62 Bộ luật TTHS như sau:
Điều 62. Trách nhiệm giải thích và bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng.
Tuỳ theo từng giai đoạn tố tụng, cơ quan, người tiến hành tố tụng có trách nhiệm giải thích và đảm bảo thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng theo quy định của Bộ luật này. Việc giải thích phải được ghi vào biên bản. Người tiến hành tố tụng có hành vi gây cản trở tới việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng tuỳ theo mức độ sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.
3.3.2. Về tổ chức
Thứ nhất, cần nhanh chóng bổ sung đủ số lượng đồng thời nâng cao chất lượng ĐTV, KSV, Thẩm phán đáp ứng đòi hỏi yêu cầu của công tác giải quyết các vụ án hình sự. Hiện nay có một thực tế là số lượng sinh viên có bằng cử nhân luật tốt nghiệp ra trường không có việc làm hàng năm rất nhiều nhưng số lượng cán bộ làm công tác tư pháp nói chung và công tác TTHS nói riêng lại đang rất thiếu. Đây là một sự bất hợp lý và lãng phí nguồn nhân lực. Vì vậy, chúng ta phải có kế hoạch sử dụng nguồn nhân lực này, bổ sung vào hệ thống các cơ quan THTT, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp.
Thứ hai, cần có chế độ đãi ngộ, thưởng phạt hợp lý đối với những người làm công tác THTT. Hiện nay, lương chính cộng với những khoản phụ cấp ngoài lương của những người THTT như KSV, Thẩm phán, Thư ký Toà án... còn thấp, chưa đủ đáp ứng được cuộc sống vật chất cũng như tinh thần hàng ngày, cũng như chưa tương xứng với tính chất nghề nghiệp của những đối tượng này. Có chế độ đãi ngộ, thưởng phạt hợp lý sẽ làm cho những người THTT nhiệt tình với công việc và quan trọng hơn nữa là tránh được những cám dỗ vật chất, yên tâm công tác tốt.
Thứ ba, về chức năng, nhiệm vụ của VKS cần từng bước chuyển đổi theo tinh thần của cải cách tư pháp.
3.3.3. Về nhận thức
Thứ nhất, nâng cao nhận thức pháp luật cho nhân dân, tăng cường công tác giáo dục và phổ biến pháp luật: đưa pháp luật vào giáo dục sớm hơn trong nhà trường từ cấp tiểu học, giáo dục pháp luật thường xuyờn trờn những phương tiện thông tin đại chúng, tăng cường hơn nữa số lượng cỏc phiờn toà xét xử lưu động, tích cực xây dựng các tủ sách pháp luật phổ thông...
Thứ hai, song song với việc nâng cao năng lực chuyên môn nờn giỏo dục thường xuyên về mặt nhận thức cho những người THTT: tôn trọng quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong đó có quyền và nghĩa vụ của những người tham gia TTHS; đồng thời tạo cho những người THTT quen dần với sự có mặt của người bào chữa trong các hoạt động TTHS vì đây là xu thế tất yếu của cải cách tư pháp.
KẾT LUẬN
Quyền bào chữa phát sinh trên cơ sở sự buộc tội của các cơ quan THTT đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và là quyền năng cơ bản, đặc thù chỉ thuộc về người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thể sử dụng mọi biện pháp pháp luật quy định nhằm phủ nhận một phần hay toàn bộ sự buộc tội của các cơ quan THTT, làm giảm nhẹ hay loại trừ trách nhiệm hình sự của mình trong vụ án hình sự. Các cơ quan THTT có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được quy định trên cơ sở quyền con người và thực tiễn THTT. Nguyên tắc này được ghi nhận trong tất cả các bản Hiến pháp đã ban hành đồng thời nó cũng là một nguyên tắc đặc thù của luật TTHS Việt Nam. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội và sự mở rộng dân chủ ở nước ta, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo ngày càng phát triển và hoàn thiện hơn. Đặc biệt, Bộ luật TTHS 2003 cùng những văn bản có liên quan đó cú những quy định rất đáng ghi nhận về mở rộng quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can bị cáo.
Tuy nhiên, thực tiễn TTHS cho thấy, việc đảm bảo quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vẫn còn những hạn chế, vướng mắc do thiếu sót của pháp luật; do nhận thức chưa đầy đủ của những người THTT, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; do tổ chức hệ thống các cơ quan THTT còn nhiều bất cập... Vì vậy, việc nâng cao nhận thức pháp luật cho nhân dân nói chung và những người THTT, tham gia tố tụng nói riêng; việc sửa đổi bổ sung, hoàn thiện pháp luật đồng thời kiện toàn tổ chức của những cơ quan THTT là hết sức cần thiết để nâng cao hiệu quả của việc thực hiện nguyên tắc này.
Đất nước ta đang trên đà phát triển về mọi mặt, hy vọng rằng trong lĩnh vực pháp lý nói chung và trong lĩnh vực TTHS nói riêng sẽ có những bước phát triển tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được thực hiện có hiệu quả hơn nữa trên thực tế.
�
Danh mục tài liệu tham khảo
Báo Thanh Niên, Số ra thứ tư ngày 26/12/2001, “Hơn 70% phiên toà không có Luật sư”.
Bộ Công an, Tổng cục Cảnh sát, Báo cáo sơ kết một năm thực hiện Pháp lệnh Điều tra hình sự trong lực lượng cảnh sát nhân dân, H. 2006.
Bộ Tư pháp - Viện khoa học pháp lý, Từ điển luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa - Nxb Tư pháp, H. 2006.
Bộ Tư pháp, Báo cáo tổng kết thi hành Pháp lệnh Luật sư 2001.
Bộ Tư phỏp-Vụ pháp luật hình sự-hành chính, Bảo vệ quyền của người chưa thành niên trong pháp luật hình sự và tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Tư pháp, H. 2006.
Chức năng bào chữa trong TTHS Xô Viết, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Số 1/1978.
Đỗ Đức Hồng Hà, Một số đặc điểm tội phạm học của tội giết người, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số 6/2004, tr. 72.
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (sửa đổi), Nxb. Chính trị Quốc gia, H. 2004.
Hoàng Thị Sơn, Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ luật học, H. 2003.
Hoàng Thị Sơn, Thực trạng thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, Tạp chí Luật học, Số 4/2002.
http:// www.luatsuhanoi.org.vn/tinhoatdong/kyniem20namthanhlap.asp
http:// www.vnexpress.net/Vietnam/Phap-luat/2003/05/3B9C7CCE/
http://hanoitv.org.vn/tintuc/vn/detail.asp?CatID=27&NewsID=16308/
http://vietnamnet.vn/xahoi/phapluat/2005/03/387390/
http://vnexpress.net/ Vietnam/Phap-luat/2006/08/3B9ECFBB/
http://vnexpress.net/Vietnam/Phap-luat/2001/10/3B9B5227/
17.http://vnexpress.net/Vietnam/Phap-luat/2004/11/3B9D8877/
18.http://vnexpress.net/Vietnam/Phap-luat/2006/08/3B9ECDE4/
19.http://vnexpress.net/Vietnam/Phap-luat/2006/09/3B9EE1FA/
20.http://vnexpress.net/Vietnam/Phap-luat/2006/10/3B9EF150/
21.http://vnexpress.net/Vietnam/Phap-luat/2007/03/3B9F483F/
22.http://www.luatvietnam.com.vn/
23.http://www.vietnamhumanrights.net/, Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền (1948).
24.Một số vấn đề về cơ sở bảo đảm dân chủ trong tranh luận tại phiên toà hình sự, tạp chí Kiểm sát, VKS nhân dân tối cao, Số 3/2002.
25.Nguyễn Hà Thanh, Vai trò hạn chế của luật sư trong giai đoạn Điều tra vụ án hình sự - nguyên nhân và giải pháp, Tạp chí TAND Số 3/2007, tr. 2.
26.Nhà Pháp luật Việt-Phỏp, Hội thảo Pháp luật về tổ chức Điều tra hình sự, H. 2002.
27.Phạm Hồng Hải, Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, Nxb. Công an nhân dân, H.1999.
28.Phan Trung Hoài, Hoàn thiện pháp luật về Luật sư ở Việt Nam, Nxb. Tư pháp, H. 2006.
29.Quốc triều Hình luật (Luật Hình triều Lê), Nxb. Pháp lý, H.1991
30.TAND Tối cao, Báo cáo tổng kết công tác năm 2006 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2007 của ngành TAND, H. 2007.
31.Tổng cục cảnh sát nhân dân, Cục chính trị, Báo cáo tổng kết
32.Trần Ngọc Đường, Bàn về quyền con người quyền công dân, Nxb. Chính trị Quốc gia, H. 2004.
33.Vụ bổ trợ tư pháp, Nội dung cơ bản của dự án Luật về luật sư so sánh với pháp luật của một số nước, Nxb. Tư pháp, H.2006.
(1) Bộ Tư pháp-Viện khoa học pháp lý, Từ điển luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa-Nxb. Tư pháp, H.2006, tr. 33.
(2) Chức năng bào chữa trong TTHS Xô Viết, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Số 1/1978, tr.89.
(1) Phạm Hồng Hải, Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, Nxb. Công an nhân dân, H.1999, tr.29, 30.
(2) VKSNDTC-Viện khoa học Kiểm sát, Dự án VIE/95/018, Bộ luật TTHS Liên bang Nga 1999 (Bản dịch Tiếng Việt).
(3) VKSNDTC-Viện khoa học Kiểm sát, Dự án VIE/95/018, Bộ luật TTHS Nhật Bản (Bản dịch Tiếng Việt).
(1) Phạm Hồng Hải, Sđd, tr.23.
(2) Phạm Hồng Hải, Sđd, tr.26.
(3) M.X.Xtrôgôvich, Giáo trình luật TTHS Xô Viết, Nxb. Khoa học, M. 1968, t. 1, tr.196.
(�)Trần Ngọc Đường, Bàn về quyền con người quyền công dân, Nxb. Chính trị Quốc gia, H. 2004.
(2) http://www.vietnamhumanrights.net/, Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền (1948).
(1)http://vietnamnet.vn/xahoi/phapluat/2005/03/387390/
(1)Nguyễn Văn Tuân, Luật sư và hành nghề Luật sư, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, H. 2001, tr. 5, 6.
(2) Vũ Đức Khiển, Phạm Xuân Chiến, Họ vẫn chưa bị coi là có tội, Nxb. Pháp lý, H.1989, tr. 50.
(1)Đinh Gia Trinh, Sơ thảo lịch sử Nhà nước và pháp quyền Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, H.1968, t.1, tr.36; Phan Đăng Thanh – Trương Thị Hoà, Lịch sử các chế định chính trị và pháp quyền Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1997, t.1, tr.32
(2) Quốc triều Hình luật (Luật Hình triều Lê), Nxb. Pháp lý, H.1991
(1)http:// www.vnexpress.net/Vietnam/Phap-luat/2003/05/3B9C7CCE/
(1)http://vnexpress.net/Vietnam/Phap-luat/2006/09/3B9EE1FA/
(1) http://vnexpress.net/Vietnam/Phap-luat/2005/02/3B9DBAF4/
(1) http://vnexpress.net/Vietnam/Phap-luat/2007/03/3B9F44A8/
(1)Bộ Tư pháp-Vụ pháp luật hình sự-hành chính, Bảo vệ quyền của người chưa thành niên trong pháp luật hình sự và tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Tư pháp, H. 2006, tr. 81.
(1) http://vnexpress.net/Vietnam/Phap-luat/2004/02/3B9CFB14/
(1)Hoàng Thị Sơn, Thực trạng thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, Tạp chí Luật học, Số 4/2002.
(2) Báo Thanh Niên, Số ra thứ tư ngày 26/12/2001, “Hơn 70% phiên toà không có Luật sư”.
(1) TAND Tối cao, Báo cáo tổng kết công tác năm 2006 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2007 của ngành TAND, H. 2007
(2) Bộ Tư pháp, Báo cáo tổng kết thi hành Pháp lệnh Luật sư 2001, tr. 7.
(1) Phan Trung Hoài, Hoàn thiện pháp luật về Luật sư ở Việt Nam, Nxb. Tư pháp, H. 2006, tr. 141, 142.
(1) http:// www.luatsuhanoi.org.vn/tinhoatdong/kyniem20namthanhlap.asp
(1)http://vnexpress.net/Vietnam/Phap-luat/2007/03/3B9F483F/
(1) http://vnexpress.net/ Vietnam/Phap-luat/2006/08/3B9ECFBB/
(2) http://vnexpress.net/Vietnam/Phap-luat/2001/10/3B9B5227/
(3) http://vnexpress.net/Vietnam/Phap-luat/2006/08/3B9ECDE4/
(4) http://vnexpress.net/ Vietnam/Phap-luat/2006/08/3B9ECFBB/
(1) http://vnexpress.net/Vietnam/Phap-luat/2006/08/3B9ECDE4/
(2) http://vnexpress.net/Vietnam/Phap-luat/2001/10/3B9B5227/
(1) Một số vấn đề về cơ sở bảo đảm dân chủ trong tranh luận tại phiên toà hình sự, tạp chí Kiểm sát, VKS nhân dân tối cao, Số 3/2002, tr. 14.
(2) (3) http://vnexpress.net/Vietnam/Phap-luat/2001/10/3B9B5227
(1) http://vnexpress.net/Vietnam/Phap-luat/2006/10/3B9EF150/
(2) http://vnexpress.net/Vietnam/Phap-luat/2004/11/3B9D8877/
(3) http://vnexpress.net/Vietnam/Phap-luat/2006/10/3B9EF150/
(1) http://vnexpress.net/Vietnam/Phap-luat/2004/11/3B9D8877/
(1) Đỗ Đức Hồng Hà, Một số đặc điểm tội phạm học của tội giết người, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số 6/2004, tr. 72
(1) Nguyễn Hà Thanh, Vai trò hạn chế của luật sư trong giai đoạn Điều tra vụ án hình sự-nguyên nhân và giải pháp, Tạp chí TAND Số 3/2007, tr. 2
(2) Bộ Công an, Tổng cục Cảnh sát, Báo cáo sơ kết một năm thực hiện Pháp lệnh Điều tra hình sự trong lực lượng cảnh sát nhân dân, H. 2006, tr. 5.
(3) Tổng cục cảnh sát nhân dân, Cục chính trị, Báo cáo tổng kết
(4) http://hanoitv.org.vn/tintuc/vn/detail.asp?CatID=27&NewsID=16308/
(1) (2) Vụ bổ trợ tư pháp, Nội dung cơ bản của dự án Luật về luật sư so sánh với pháp luật của một số nước, Nxb. Tư pháp, H.2006, tr. 11, 12, 13.
(3) Vụ bổ trợ tư pháp, sđd, tr.16, 17.
(1) Nhà Pháp luật Việt-Pháp, Hội thảo Pháp luật về tổ chức Điều tra hình sự, H. 2002.
No comments:
Post a Comment