26/08/2014
Xác và quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết – một số vấn đề lý luận và thực tiễn - Bài tập học kỳ Luật Dân sự 1 (9 điểm)
LỜI MỞ ĐẦU :

Nhằm tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho việc lấy ,ghép mô bộ phận cơ thể và tạo ngồn cung cấp mô,nội tạng dồi dào phục vụ cho việc nghiên cứu chữa bệnh và nghiên cứu khoa học .Nhà nước ta đã ban hành một số văn bản pháp luật điều chỉnh về việc hiến xác ,hiến bộ phận cơ thể người  mà tiêu biểu là luật hiến,lấy ghép mô bộ phận cơ thể và hiến,lấy xác năm 2006 ,trong đó có quy đó có quy định cụ thể về điều kiện hiến xác ,bộ phận cơ thể khi còn sống cũng như điều kiện hiến mô,bộ phận cơ thể khi đã chết. Tuy nhiên thực tiễn của việc lấy ,ghép mô,bộ phận cơ thể …Cho thấy pháp luật về vấn đề này còn nhiều bất cập,đặc biệt là trong các quy định về điều kiện hiến mô,bộ phận cơ thể sau khi chết. Vì vậy em quyết định chọn đề tài này để tìm hiểu và nghiên cứu: “ Xác và quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết – một số vấn đề lý luận và thực tiễn”.

Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện việc hiến, lấy ghép mô, bộ phận cơ thể cho thấy pháp luật về vấn đề này còn khá nhiều điểm bất cập, đặc biệt là trong các quy định về điều kiện hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi chết. Chính vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các quy định pháp luật về điều kiện hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi chết có cân nhắc, tiếp thu kinh nghiệm nước ngoài là một nhu cầu cấp thiết.

1. Khái quát về điều kiện hiến mô,bộ phận cơ thể sau khi chết trước khi có luật hiến,lây,ghép mô ,bộ phận cơ thể và hiến ,lấy xác năm 2006.

1.1 Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân năm 1989 và văn bản hướng dẫn

Theo số liệu của Bộ Y tế cho thấy, từ những năm đầu của thập kỷ 50, nước ta đã có những ca ghép mô, bộ phận cơ thể người đầu tiên như: ghép da, ghép giác mạc từ tử thi vô thừa nhận và đặc biệt vào đầu những năm 70, việc ghép gan và tim đã được thực hiện trên lợn do Giáo sư Tôn Thất Tùng và một số bác sĩ khác tiến hành (1). Tuy nhiên, thời kỳ này chưa có một băn bản pháp lý nào của Nhà nước quy định về điều kiện hiến, lấy ghép mô, bộ phận cơ thể người. Đến cuối thập niên 80 và những năm đầu thập niên 90 những ca lấy, ghép thử nghiệm thận, gan đã cho những kết quả đáng mừng. Và do nhu cầu của nhân dân về chăm sóc, bảo vệ sức khỏe ngày càng tăng, đồng thời để tạo hành lang pháp lý cho việc lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể có hiệu quả, năm 1989 Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân (Luật BVSKND) được Quốc hội thông qua. Để chủ động bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, trong Luật quy định rất nhiều vấn đề về phòng ngừa bệnh, khám chữa bệnh, điều dưỡng và phục hồi chức năng… trong đó lần đầu tiên có quy định về điều kiện hiến mô, bộ phận cơ thể người: “1, Thầy thuốc chỉ tiến hành lấy mô hoặc bộ phận của cơ thể người sống hay người chết dùng vào mục đích y tế sau khi đã được sự đồng ý của người cho, của thân nhân người chết hoặc người chết có di chúc để lại. 2, Việc ghép mô hoặc một bộ phận cho cơ thể người bệnh phải được sự đồng ý của người bệnh hoặc thân nhân hay người giám hộ của người bệnh chưa thành niên…” (2).

Phân tích quy định trên ta thấy, Luật này không trực tiếp quy định về quyền và điều kiện đối với người hiến mô, bộ phận cơ thể mà chỉ quy định trong những trường hợp nào “thầy thuốc” (ở đây mà cụ thể là cơ sở y tế có thẩm quyền) được tiến hành lấy mô, bộ phận cơ thể người khi còn sống hoặc sau khi chết. Và từ những quy định ở khoản 1 Điều 30, chúng ta có thể thấy Luật quy định về điều kiện hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi chết cần một trong hai điều kiện sau: thứ nhất, phải có sự sự đồng ý của thân nhân người chết, trong trường hợp người chết không có di chúc để lại; thứ hai, trường hợp người chết có di chúc để lại (khoản 2 Điều 30 BVSKND. Bên cạnh đó, Luật này cũng có quy định về điều kiện của việc ghép mô, bộ phận cơ thể (tức là điều kiện với người nhận mô, bộ phận cơ thể để chữa bệnh) là phải được sự đồng ý của người bệnh hoặc người giám hộ của người bệnh chưa thành niên (khoản 2, Điều 30).

Tuy nhiên, ở đây, Luật mới chỉ quy định rất chung về điều kiện đối với người hiến mô, bộ phận cơ thể nói chung cũng như điều kiện hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi chết nói riêng. Khoản 2 Điều 30 chủ yếu nhấn mạnh đến tính tự nguyện của người hiến hoặc gia đình họ trong việc hiến mô, bộ phận cơ thể (tức là chỉ quy định điều kiện về ý chí) mà không có một quy định nào điều kiện về độ tuổi, về sức khoẻ đối với người hiến, về năng lực nhận thức của họ… Theo chúng tôi, khoản 2 Điều 30 của Luật BVSKND chỉ là một quy định mang tính chất kỹ thuật để giúp các cơ sở y tế tiến hành việc lấy ghép mô, bộ phận cơ thể được thuận lợi hơn trong một số trường hợp cần thiết như đã nêu ở trên. Mặt khác, chúng ta cũng thấy quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người thời kỳ này chưa được thừa nhận nên chưa thể có được một quy định đầy đủ về điều kiện mô, bộ phận cơ thể người khi còn sống cũng như điều kiện đối với người hiến mô, bộ phận cơ thể, hiến xác sau khi chết.

Để đảm bảo những quy định về lấy, ghép đối với người hiến mô, bộ phận cơ thể trong Điều 30 Luật BVSKND đi vào thực tiễn cuộc sống thì vấn đề này đã được cụ thể hóa trong Nghị định ban hành kèm theo Điều lệ Khám chữa bệnh và phục hồi chức năng số 23-HĐBT ngày 24/1/1991 tại Điều 10: “Về lấy và ghép mô bộ phận cơ thể người

1- Việc lấy mô, bộ phận cơ thể người sống phải được người đó tự nguyện và viết thành văn bản.

2- Việc lấy mô hoặc một bộ phận của cơ thể người chết được tiến hành trong các trường hợp:
- Người chết có di chúc để lại đồng ý cho mô hoặc một bộ phận cơ thể của họ.
- Người chết không có di chúc nhưng được thân nhân người chết đồng ý cho bằng văn bản.
- Người chết vô thừa nhận.
4- Các thủ tục, tiến hành ghép mô hoặc một bộ phận cơ thể con người được tiến hành như các trường hợp phẫu thuật ghi trong Điều 8 của Điều lệ này
…”.

Trong Điều lệ này đã có những quy định cụ thể hơn về cơ sở y tế khi tiến hành lấy mô, bộ phận cơ thể sau khi chết (khoản 1 Điều 10), ngoài hai trường hợp Luật đã quy định là trường hợp người chết có di chúc để lại và trường hợp không có di chúc, nhưng được thân nhân người chết đồng ý thì Điều lệ này có quy định cụ thể hơn, trong trường hợp người chết không có di chúc để lại thì thân nhân người chết có quyền đồng ý hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi chết, nhưng phải thể hiện bằng văn bản (khoản 2 Điều 10). Mặt khác, Điều lệ cũng quy định cơ sở y tế có thẩm quyền cũng được sử dụng xác, bộ phận cơ thể người chết vô thừa nhận để phục vụ cho mục đích chữa bệnh hoặc nghiên cứu khoa học mà thực tế trong những năm vừa qua là việc sử dụng mô (giác mạc, kết mạc) để chữa trị cho người bệnh; sử dụng bộ phận cơ thể, xác tử thi vô thừa nhận phục vụ cho việc giảng dạy tại các Trường y. Tuy nhiên, cả Luật BVSKND cũng như Điều lệ Khám chữa bệnh và phục hồi chức năng đều chưa có quy định cụ thể về điều kiện đối với người hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi chết như: chưa quy định về vấn đề hiến xác, liệu có cần quy định về độ tuổi với người hiến để lại di chúc hay không? Điều kiện về sức khoẻ, điều kiện về năng lực nhận thức hay liệu có bắt buộc cần phải có sự đồng ý của gia đình trong trường hợp người hiến để lại di chúc sau khi chết, nếu cần có sự đồng ý của gia đình thì sự đồng ý này chỉ cần đồng ý bằng lời nói hay phải bằng văn bản, trong trường hợp người hiến xác, bộ phận cơ thể cho giảng dạy hoặc nghiên cứu khoa học thì trình tự thủ tục thế nào… Do đó, thực tế các cơ sở y tế vẫn còn nhiều khó khăn trong việc nhận mô, bộ phận cơ thể người đối với trường hợp người hiến sau khi chết. Mặt khác, các văn bản trên cũng mới chỉ quy định về việc hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi chết nhằm mục đích chữa bệnh, chứ chưa có một quy định nào về hiến mô, bộ phận cơ thể, hiến xác sau khi chết nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, nên vấn đề này thực tế xảy ra các cơ sở y tế rất khó giải quyết. Ví dụ, một người làm đơn đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể của mình sau khi chết phục vụ cho mục đích cứu chữa người bệnh, tuy nhiên lúc anh ta chết, cơ sở y tế có thẩm quyền mới phát hiện ra anh ta bị HIV… thì cơ sở y tế có được nhận mô, bộ phận cơ thể đó cho mục đích khoa học không?

1.2 Bộ luật Dân sự năm 2005

Phải nói rằng, việc thừa nhận và quy định quyền hiến mô, bộ phận cơ thể, gắn liền với việc thừa nhận và quy định các điều kiện hiến mô, bộ phận cơ thể. Quyền hiến mô, bộ phận cơ thể được thừa nhận là cơ sở cũng như căn cứ để các nhà làm luật quy định một cách cụ thể và chặt chẽ về các điều kiện hiến mô, bộ phận cơ thể người, trong đó có các điều kiện hiến mô, bộ phận cơ thể người sau khi chết. Mặt khác, việc quy định chặt chẽ, cụ thể các điều kiện hiến mô, bộ phận cơ thể người sẽ giúp mọi người thực hiện tốt hơn quyền được hiến của mình.

Điều 34 của Bộ luật Dân sự năm 2005 (BLDS 2005) quy định: “Cá nhân có quyền hiến bộ phận cơ thể của mình hoặc hiến xác sau khi chết vì mục đích chữa bệnh hoặc nghiên cứu khoa học…”. Tuy nhiên, quy định tại Điều 34 của BLDS 2005 về cá nhân được hiến trước khi có Luật Hiến, lấy ghép mô, bộ phận cơ thể và hiến, lấy xác 2006, thì còn có nhiều cách hiểu khác nhau. Có cách hiểu cho rằng, cá nhân ở đây có thể là bất kỳ ai không phân biệt họ bao nhiêu tuổi, miễn là họ không bị nhược điểm về thể chất, tâm thần và tự nguyện, quan điểm khác lại cho rằng cá nhân hiến bộ phận cơ thể ở đây phải là người đã thành niên – mới có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Sở dĩ có các cách hiểu khác nhau như vậy bởi vì trong Bộ luật chưa quy định điều kiện cụ thể với cá nhân ở đây là gì về độ tuổi, về năng nhận thức, về sức khoẻ… Như vậy, chúng ta thấy Bộ luật quy định cũng rất chung chung về việc cá nhân có quyền hiến xác, bộ phận cơ thể khi còn sống hoặc sau khi chết mà không quy định cụ thể về độ tuổi, sức khoẻ đối với người hiến.

2. Điều kiện hiến mô,bộ phận cơ thể sau khi chết.

2.1 Điều kiện về năng lực chủ thể

Quyền hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi chết là một quyền nhân thân quan trọng, mặc dù là quyền nhưng không phải cá nhân nào muốn thực hiện cũng được mà cá nhân đó phải đạt được những điều kiện nhất định, trong đó một điều kiện không thể không nói đến đó là điều kiện về độ tuổi và điều kiện về khả năng nhận thức cũng như điều khiển hành vi.

Như chúng ta đã biết, điều kiện về độ tuổi là một dấu hiệu định lượng quan trọng để xem xét cá nhân đó có đủ khả năng thực hiện quyền hiến mô, bộ phận cơ thể hay không. Do nhiều nguyên nhân khác nhau mà ở các nước trên thế giới có sự quy định khác nhau về độ tuổi đối với người hiến bộ phận cơ thể khi còn sống, đặc biệt là hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết. ở Pháp, đủ 13 tuổi trở lên mới có quyền đăng ký từ chối hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết (tức là sau khi một người bị chết đi, cơ sở y tế có thẩm quyền sẽ kiểm tra xem người đó có thẻ từ đăng ký từ chối hiến xác không, nếu không có thì cơ sở y tế có thẩm quyền gián tiếp suy luận là người đó đã đồng ý hiến)(3). ở nước ta, Điều 5 của Luật Hiến, lấy ghép mô bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác năm 2006 quy định: “Người từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể của mình khi còn sống, sau khi chết và hiến xác”.

Phân tích quy định trên ta thấy, cá nhân phải từ đủ 18 tuổi trở lên mới có quyền hiến bộ phận cơ thể, hiến xác sau khi chết. Sở dĩ có quy định như vậy bởi các nhà làm luật nước ta quan niệm rằng ở tuổi đó, người hiến mới phát triển đầy đủ về tâm, sinh lý cũng như về mặt pháp lý họ là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự có thể bằng hành vi của mình tham gia xác lập các quyền và nghĩa vụ nhất định theo quy định của pháp luật. Nếu độ tuổi là một dấu hiệu định lượng, là điều kiện cần để hiến mô, bộ phận cơ thể thì khả năng nhận thức và điều khiển hành vi là dấu hiệu định tính để xác định xem cá nhân đã hoàn thiện về mặt tâm lý, về khả năng nhận thức hay chưa.

Tuy nhiên, đối với trường hợp hiến, nhận tế bào mà cụ thể là hiến nhận tinh trùng thì Luật lại quy định khác, tuỳ thuộc vào người hiến là nam hay nữ mà Luật có quy định khác nhau, nếu chủ thể hiến là nam giới phải đạt độ tuổi từ đủ 20 tuổi trở lên và phải không bị nhược điểm về thể chất tinh thần có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi: “Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có quyền hiến, nhận tinh trùng, noãn, phôi trong thụ tinh nhân tạo theo quy định của pháp luật” (4).

Qua khoản 1 Điều 6 của Luật, một câu hỏi đặt ra là: tại sao người hiến mô, bộ phận cơ thể chỉ cần đủ 18 tuổi trở lên là được quyền hiến còn đối với hiến tinh trùng nếu người hiến là nam giới bắt buộc phải từ đủ 20 tuổi trở lên, trong khi đó nữ chỉ cần đủ 18 tuổi trở lên đã có quyền nhận tinh trùng, hiến, nhận noãn, phôi, mà như chúng ta đã biết, người từ đủ 18 tuổi trở lên là người đã có đầy đủ năng lực pháp luật. Mặt khác, theo chúng tôi, việc Luật quy định có năng lực hành vi dân sự đầy đủ đã bao hàm trong đó cả yếu tố độ tuổi, một người được coi là có năng lực hành vi dân sự đầy đủ cũng đồng nghĩa với việc người đó đã đủ 18 tuổi trở nên. Sở dĩ, Luật quy định như trên có nhiều lý do, nhưng theo chúng tôi thì có một số lý do sau:

- Về mặt sinh học cũng như tâm lý học: ở nữ giới thường phát triển sớm hơn nam giới, theo nghiên cứu của các nhà y học cho thấy ở nữ giới thường phát triển nhanh hơn nam giới từ 2-4 tuổi và cùng với sự phát triển nhanh chóng về mặt sinh học thì về tâm lý ở nữ giới cũng hoàn thiện sớm hơn.

- Về mặt kỹ thuật lập pháp: việc quy định nam giới từ đủ 20 tuổi trở nên mới được hiến tinh trùng là một động tác kỹ thuật nhằm tạo nên sự thống nhất về vấn đề này trong Luật Hiến, lấy ghép mô; bộ phận cơ thể và hiến, lấy xác năm 2006 với các Luật trước đó như những quy định về điều kiện kết hôn, điều kiện nhận nuôi con nuôi trong pháp luật hôn nhân gia đình.

- Mặt khác, căn cứ vào thể trạng của người Việt Nam, đặc biệt là nam giới thì từ đủ 20 tuổi trở lên mới phát triển đầy đủ về mặt sinh lý. Khi đó tinh trùng hiến mới đảm bảo cho việc thụ tinh có hiệu quả và quy định như vậy cũng phù hợp với những quy định pháp luật trước đó.

2.2 Điều kiện về trình tự

Những người có đủ điều kiện quy định tại Điều 5 của Luật có quyền bày tỏ nguyện vọng hiến mô, bộ phận cơ thể của mình với cơ sở y tế, khi nhận được thông tin của người hiến mô, bộ phận cơ thể, cơ sở y tế có trách nhiệm thông báo cho Trung tâm điều phối quốc gia về ghép bộ phận cơ thể người. Sau khi nhận được thông báo về trường hợp hiến xác, bộ phận cơ thể người, Trung tâm điều phối quốc gia về bộ phận cơ thể có trách nhiệm thông báo cho cơ sở y tế (5) có đủ điều kiện về trang thiết bị, về đội ngũ cán bộ y tế để tiến hành các thủ tục đăng ký cho người hiến. Khi nhận được thông báo của Trung tâm điều phối quốc gia về ghép bộ phận cơ thể người, cơ sở y tế quy định tại Điều 16 của Luật này có trách nhiệm trực tiếp gặp người hiến để tư vấn thông tin có liên quan đến hiến, lấy mô, bộ phận cơ thể và hướng dẫn việc đăng ký hiến theo mẫu đơn; thực hiện việc kiểm tra sức khoẻ cho người hiến (6). Đến đây, người hiến mô, bộ phận cơ thể người để được hiến phải đảm bảo được điều kiện về sức khoẻ. Còn trường hợp hiến xác sau khi chết thực hiện theo quy định điều 19 của Luật.

Một vấn đề đặt ra là liệu điều kiện hiến xác, bộ phận cơ thể người sau khi chết vào mục đích nghiên cứu khoa học có khác gì với điều kiện hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết vì mục đích chữa bệnh không? ở đây, chúng ta có thể dễ dàng trả lời được là giữa chúng có sự khác nhau bởi mục đích của chúng là khác nhau. Vì vậy, có thể thấy có nhiều trường hợp không đủ điều kiện để hiến mô, bộ phận cơ thể vì mục đích chữa bệnh, nhưng vẫn có thể hiến và được sử dụng và mục đích nghiên cứu khoa học.

2.3 Điều kiện về sức khỏe

Việc hiến mô, bộ phận cơ thể nói chung cũng như việc hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết nói riêng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc mang lại hay kéo dài sự sống cho người bệnh. Thực tế trên thế giới và ở Việt Nam cũng đã xảy ra những trường hợp việc lấy, ghép nhầm mô, bộ phận cơ thể của người hiến bị bệnh (nan y) cho người bệnh đã gây ra những cái chết rất thương tâm hoặc trường hợp bác sĩ lấy nhầm bộ phận cơ thể của người hiến dẫn tới tính mạng của người hiến bị đe dọa nghiêm trọng. Do đó, để bảo đảm tính mạng, sức khoẻ cũng như tinh thần cho người hiến, Luật đã đưa ra những quy định về hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết phải được kiểm tra sức khoẻ, tuy nhiên lại chưa quy định cụ thể người hiến cần phải đáp ứng được điều kiện gì về sức khoẻ. Nhưng theo quy định tại Quyết định số 43/2007/QĐ-BYT của Bộ Y tế về việc thực hiện kỹ thuật cấy ghép thận, gan… cho người bệnh thì trong Quyết định này có chỉ rõ là người hiến về sức khoẻ không bị mắc các bệnh nan y như: viêm gan B, nhiễm HIV,…

Bên cạnh các quy định về điều kiện hiến mô, bộ phận cơ thể, hiến xác sau khi chết, cơ sở y tế có thẩm quyền để có thể lấy được xác, bộ phận cơ thể người hiến sau khi chết, Luật cũng xác định thêm một số điều kiện khác như: điều kiện xác định chết não, liệu có cần sự đồng ý của gia đình người hiến không trong trường hợp người thân của họ muốn hiến xác, bộ phân cơ thể? Trong Luật quy định người từ đủ 18 tuổi trở lên mà tự nguyện làm đơn hiến xác, hiến bộ phận cơ thể sau khi chết thì không cần sự đồng ý của gia đình. Tuy nhiên, trên thực tế xảy ra trường hợp người hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết nhưng khi họ chết rồi cơ sở y tế có thẩm quyền đến lấy thì gia đình người hiến không đồng ý, trường hợp này cơ sở y tế có được quyền cưỡng chế lấy không? Vấn đề này (7), ở Pháp đã áp dụng cơ chế suy đoán sự đồng ý, tức là khi phát hiện một người bị chết, cơ sở y tế có thẩm quyền kiểm tra trên hệ thống thông tin điện tử xem người đó có đăng ký từ chối hiến không, nếu người đó không đăng ký thì suy đoán rằng người đó đã đồng ý hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết. Tuy nhiên, trong trường hợp này nếu gia đình người hiến không đồng ý hiến thì cơ sở y tế cũng không lấy xác, bộ phận cơ thể của người đó.

Điều 5 của Luật quy định người hiến mô, bộ phận cơ thể khi còn sống cũng như sau khi chết đều là người phải từ đủ 18 tuổi trở lên tự nguyện làm đơn đăng ký hiến. Tuy nhiên, Luật cũng quy định trong trường hợp người chết không có đơn đăng ký hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết nhưng nếu gia đình người hiến đồng ý thì cơ sở y tế có thẩm quyền vẫn đựợc nhận (8).

Một vấn đề đặt ra là, những người sau khi chết không có thẻ đăng ký hiến xác, sau khi chết mà gia đình người đó đồng ý hiến bằng văn bản thì có bắt buộc người chết đó phải từ đủ 18 tuổi trở lên không? Trong trường hợp người chết 17 tuổi không có thẻ đăng ký hiến mà gia đình họ đồng ý hiến cho y học bằng văn bản thì giải quyết vấn đề này thế nào, Luật cũng chưa có quy định.

3. Một số kiến nghị.

3.1 Về trình tự, thủ tục đối với người hiến xác, bộ phận cơ thế sau khi chết

- Cần phải sớm có quy định pháp luật về trình tự thủ tục đối với việc hiến mô, bộ phận cơ thể người cho mục đích nghiên cứu khoa học cũng như quy định về điều kiện đối với các tổ chức nhận xác, bộ phận cơ thể người để nghiên cứu khoa học. Quy định này rất quan trọng bởi, hiến xác, bộ phận cơ thể người vì mục đích chữa bệnh là biện pháp ngăn chặn hậu quả, thì nghiên cứu khoa học lại giúp phát hiện và phòng ngừa bệnh tật.

- Về thủ tục đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể người sống; thủ tục đăng ký hiến bộ phận cơ thể người hiến xác sau khi chết, theo chúng tôi, ở khoản 4 Điều 12 cũng như khoản 4, Điều 18 của Luật về trách nhiệm của cơ sở y tế là trực tiếp gặp người hiến để tư vấn về các thông tin có liên quan là không khả thi, vì người dân sẽ hiểu theo nghĩa các cơ sở y tế phải có trách nhiệm cử cán bộ tới nhà gặp trực tiếp người hiến để tư vấn, mà cơ sở y tế thì không đủ người để có thể làm được điều đó. Vì vậy, chúng tôi đề nghị sửa đổi khoản 4, Điều 12, Điều 18 theo hướng sau: “Cơ sở y tế có trách nhiệm mời người hiến đến cơ sở y tế để trực tiếp cung cấp đầy đủ các thông tin có liên quan cho người hiến biết”.

3.2 Về năng lực chủ thể của người hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết

- Về độ tuổi của người hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi chết theo Điều 22 của Luật, trường hợp người chết mà không có thẻ đăng ký hiến xác, hiến bộ phận cơ thể người sau khi chết, theo chúng tôi, Luật không nên giới hạn độ tuổi là đủ 18 tuổi trở lên mà người dưới 18 tuổi cũng có thể được chấp nhận nếu được gia đình hoặc người giám hộ hợp pháp của người đó đồng ý. Bởi vì:

Thứ nhất, Luật hiện hành cho phép cơ sở y tế có quyền nhận mô, bộ phận cơ thể từ người chết trong trường hợp người đó không có thẻ đăng ký hiến sau khi chết, nhưng gia đình, cụ thể là người thân thích theo quy định của pháp luật của họ có đơn muốn hiến.

Thứ hai, trường hợp người đó hiến khi còn sống thì điều kiện về năng lực chủ thể tức khả năng nhận thức và điều khiển hành vi còn đặt ra, còn trường hợp người đó đã chết thì theo quan điểm của chúng tôi, nếu trên cơ sở quy định pháp luật đã được gia đình đồng ý thì người hiến đó không cần thiết phải là đủ 18 tuổi trở lên theo quy định của Luật mà có thể thấp hơn 18 tuổi.

Có ý kiến cho rằng, nên giới hạn độ tuổi người hiến bộ phận cơ thể từ 18 tuổi đến 60 tuổi. Theo chúng tôi, điều này là không cần thiết bởi nhiều người tuy tuổi cao, song về mặt sinh học, bộ phận cơ thể của họ vẫn tốt mà họ tự nguyện hiến thì vẫn có thể lấy được. Mặt khác, việc hiến bộ phận cơ thể ở người sống ngoài việc phục vụ chữa bệnh còn nhằm mục đích nghiên cứu khoa học và giảng dạy. Do đó, không nên giới hạn độ tuổi hiến mô, bộ phận cơ thể người khi còn sống.

- Về năng lực chủ thể của người hiến là cần thiết trong trường hợp người đó hiến mô, bộ phận cơ thể của mình khi còn sống hoặc đăng ký hiến sau khi chết. Tuy nhiên, trường hợp mà người chết không để lại di chúc mà gia đình họ làm đơn hiến mô, bộ phận cơ thể của con mình nhằm mục đích cứu chữa người bệnh thì vấn đề năng lực nhận thức của người đó – theo quan điểm của chúng tôi – lại không nên đặt ra, bởi cho dù người đó có thể bị rơi vào trường hợp bị tâm thần hoặc mất năng lực hành vi đi chăng nữa thì cũng không có nghĩa là bộ phận cơ thể nào của họ cũng bị ảnh hưởng hoặc không sử dụng được để cứu chữa người bệnh. Do đó, chúng ta không nên đặt ra vấn đề khả năng nhận thức cũng như năng lực hành vi của người hiến trong những trường hợp như trên.

3.3 Về sức khỏe đối với người hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết

Sức khỏe là điều kiện vô cùng quan trọng đối với người hiến trong quá trình hiến mô, bộ phận cơ thể người nhằm cứu chữa người bệnh. Do vậy có thể dễ dàng nhận thấy sức khỏe là điều kiện tiên quyết và quan trọng đối với mục đích cứu chữa bệnh, bởi nó không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe của người hiến mà nó còn ảnh hưởng đến sức khỏe của người nhận ghép. Tuy vậy, nếu sử dụng xác, bộ phận cơ thể vào mục đích nghiên cứu khoa học thì không nhất thiết phải bắt buộc điều kiện về sức khỏe của người hiến, bởi vì đích cuối cùng của nghiên cứu khoa học là nhằm tìm nguyên nhân và cách thức phòng ngừa bệnh tật để cứu chữa người bệnh.

Vì vậy, dù là người có bệnh hay không có bệnh mà hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết nhằm mục đích giảng dạy và nghiên cứu khoa học thì đều có thể nhận được.

3.4 Một số kiến nghị liên quan khác

Bên cạnh những kiến nghị trên để hoàn thiện pháp luật về điều kiện hiến xác, bộ phận cơ thể người sau khi chết, chúng ta cần phải quan tâm đến những vấn đề sau:

- Nên nghiên cứu quy định về điều kiện và trình tự, thủ tục cho phép người bị tuyên tử hình có quyền hiến xác, bộ phận cơ thể của mình sau khi chết, đây là một việc làm rất nhân văn và mang tính nhân đạo sâu sắc. Vì thế nên có quy định về điều kiện hiến xác, bộ phận cơ thể đối với tử tù trong trường hợp họ muốn hiến, ngoài những điều kiện chung về độ tuổi, năng lực nhận thức, sức khỏe… thì cần phải có những quy định đầy đủ hơn nữa về vấn đề này. Ví dụ, cần phải bãi bỏ quy định là không cho mang xác tù nhân ra khỏi pháp trường (tức là xác phải chôn trong pháp trường)(9) … đây là một vấn đề nhạy cảm nên cần phải có sự cân nhắc thận trọng giữa việc đảm bảo an ninh, an toàn và vấn đề nhân đạo, sức khỏe nhân dân.

- Luật cũng nên quy định về điều kiện hiến, nhận, sử dụng mô, bộ phận cơ thể sau khi chết để nghiên cứu khoa học một cách chặt chẽ bởi: thứ nhất, hiến xác, bộ phận cơ thể là một trong hai mục đích quan trọng được ghi nhận trong BLDS 2005 (đó là mục đích chữa bệnh và nghiên cứu khoa học); thứ hai, quy định đầy đủ về vấn đề này nhằm tránh việc các tổ chức, cá nhân lợi dụng để bí mật bán mô, tạng vì mục đích thương mại. Đồng thời theo chúng tôi, cũng nên quy định những trường hợp mà người hiến xác, bộ phận cơ thể người vì mục đích chữa bệnh, nghiên cứu khoa học nhưng mục đích đó không được thực hiện, thì gia đình người hiến có thể được lấy lại xác để mai táng theo nghi lễ truyền thống hoặc hoả thiêu. Các văn bản dưới Luật cũng cần phải quy định rõ vấn đề này.

4. Những bất cập của luật hiến,lấy,ghép mô ,bộ phận cơ thể và hiến ,lấy xác .

Ngày 01/7/2007, Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác (gọi tắt là Luật) có hiệu lực. Tuy nhiên, áp dụng, chúng ta đã thấy Luật bộc lộ những bất cập:

- Điều 1 (phạm vi điều chỉnh của Luật) có quy định về việc cho, nhận mô, bộ phận cơ thể người nhưng lại không quy định vấn đề cho, nhận tế bào vào phạm vi điều chỉnh của Luật, bởi các nhà làm luật quan niệm tế bào là một trong những bộ phận cấu thành mô. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng: nếu theo cách giải thích ở Khoản 1, Điều 3 của Luật về mô thì không phải trong mọi trường hợp tế bào đều đồng nghĩa với mô, ví dụ: tế bào gốc hay một tế bào đơn lẻ.

- Luật quy định rất cụ thể về việc lấy, ghép bộ phận cơ thể người nhằm mục đích chữa bệnh song hầu như chưa có quy phạm cụ thể nào điều chỉnh việc hiến, lấy mô, bộ phận cơ thể người nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy. Trong khi đó, thực tế nhu cầu về vấn đề này hiện nay là khá lớn. Ví dụ, trường hợp xác tử thi vô thừa nhận được sử dụng để giảng dạy hoặc nghiên cứu khoa học tại các Trung tâm y học, các Trường đại học .

- Nhu cầu về cấy, ghép mô, tạng ở nước ta ngày càng lớn nên pháp luật đã điều chỉnh nhằm tạo hành lang pháp lý cho việc cấy, ghép mô, tạng và tăng nguồn hiến mô, tạng trong nhân dân. Tuy nhiên, Luật vẫn chưa đề cập đến vấn đề hiến bộ phận cơ thể, hiến xác của tử tù nhằm phục vụ cho chữa bệnh và nghiên cứu khoa học nên rất khó khăn cho các cơ sở y tế có thể nhận xác trong trường hợp người có án tử hình muốn hiến xác của họ cho y học. Vừa qua, ngày 25/10/2007, tử tù Nguyễn Phước Đỉnh, ngụ tại xã Tân Phước, huyện Gò Công Đông (Tiền Giang) đã gửi đơn lên Toà án nhân dân tối cao xin được hiến xác cho y học sau khi thi hành án tử hình[1]. Điều này thực sự đã làm Toà án nhân dân tối cao bối rối trong việc đưa ra quyết định là có đồng ý hay không đồng ý cho tử tù được hiến xác. Trong khi đó, theo Chỉ thị số 138/KC1 năm 1974 của Bộ Nội vụ thì xác tử tội phải chôn ở pháp trường, thân nhân không được đem về an táng. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 không có quy định nào về việc cho phép thân nhân nhận lại xác; đến nay, Chỉ thị trên vẫn còn hiệu lực và cản trở quyền được hiến xác của tử tù. Vì vậy, việc Toà án nhân dân tối cao bối rối là đương nhiên. 

- Điều 11 của Luật đề cập đến các hành vi bị pháp luật cấm trong lĩnh vực này như: cấm mua, bán, lấy trộm mô, tạng; cấm sử dụng mô, tạng vì mục đích thương mại… Tuy nhiên, Luật lại chưa đưa ra chế tài áp dụng khi vi phạm một trong những hành vi trên. Trong khi đó, Bộ luật Hình sự cũng chưa có điều khoản nào điều chỉnh về loại tội phạm này. Đây là một khó khăn cho quá trình áp dụng và ngăn chặn những loại tội phạm đó trên thực tế.

- Thực tế những năm vừa qua cho thấy, việc dùng tử thi vô thừa nhận đã góp phần cứu chữa được nhiều người bệnh, đặc biệt là những người mắc bệnh về mắt (ghép giác mạc, kết mạc)[2].. Tuy nhiên, Luật cũng chưa định nghĩa thế nào là tử thi vô thừa nhận; tử thi vô thừa nhận khác gì với tử thi không hoặc chưa xác định được người thân thích là ai. Nếu một người đến nơi khác làm ăn nhưng lại chết ở đó mà Uỷ ban nhân dân xã không xác định được người thân thích của họ là ai hoặc không xác định được nơi thường trú của họ, liệu Uỷ ban nhân dân xã có quyền hiến cho cơ sở y tế không? Luật không có câu trả lời cụ thể.

- Vai trò của gia đình trong hiến mô, bộ phận cơ thể người, hiến xác sau khi chết là rất quan trọng. Theo Luật, người hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi chết phải có đơn tự nguyện hiến, còn nếu chết mà không có đơn tự nguyện hiến cần phải có sự đồng ý của cha, mẹ… Có thể gián tiếp hiểu rằng: những người đủ điều kiện Luật định, có đơn tự nguyện hiến thì không cần có sự đồng ý của gia đình. Vậy, trường hợp người chết có đơn tự nguyện hiến, nhưng sau khi họ chết gia đình họ không đồng ý hiến, liệu cơ sở y tế có quyền cưỡng chế hiến không? Vấn đề này trên thực tế xảy ra rất khó giải quyết.

- Điều17, Điều 25 của Luật nêu rất cụ thể về quyền lợi cũng như tôn vinh những người hiến mô, bộ phận cơ thể người hoặc hiến xác sau khi chết. Tuy nhiên, Luật lại không có điều nào tôn vinh về mặt tinh thần cho gia đình người hiến xác, hiến bộ phận cơ thể sau khi chết. Theo chúng tôi, đây là một thiếu sót của Luật. Vì thực tế, để lấy được xác, bộ phận cơ thể của người chết cũng phải có sự ủng hộ rất lớn của gia đình họ. Hơn nữa, trong trường hợp người chết không có đơn tự nguyện hiến nhưng gia đình họ đồng ý hiến bằng văn bản thì vẫn đựợc lấy[3], trờng hợp đó lại càng cần phải tôn vinh. Ngoài ra, khi một người bị mất đi, nỗi đau sẽ thuộc về những người còn sống.

- Thực tế trong quá trình lấy hoặc cấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người bệnh có xảy ra tình trạng bác sĩ chẩn đoán có thể đúng, song khi phẫu thuật lại lấy nhầm bộ phận khác của cơ thể. Bộ phận bị bệnh không cắt bỏ lại cắt bỏ bộ phận bình thường hoặc chẩn đoán sai ở ng-ười hiến dẫn tới việc đưa bộ phận cơ thể bị bệnh sang cho người ghép, nên nếu không ghép, người đó có thể sống thêm một khoảng thời gian nhưng ghép vào làm cho người ghép bị chấm dứt sự sống sớm hơn. Vấn đề này đã xảy ra trên thực tế, gây nên những cái chết rất thương tâm cho người bệnh. Luật cũng chưa đưa ra chế tài áp dụng nên rất khó giải quyết.

- Ở nước ta hiện nay, người bị tử vong mà không rõ lý do thì phải được tiến hành khám nghiệm có thể không cần sự đồng ý của gia đình người đó nhằm tìm ra nguyên nhân của cái chết. Nhưng riêng lấy bộ phận cơ thể của người chết để chữa bệnh hoặc nghiên cứu khoa học mà người chết không có đơn tự nguyện hiến thì bắt buộc phải có sự đồng ý bằng văn bản của gia đình người chết. Liệu vấn đề hiến bộ phận cơ thể người và khám nghiệm tử thi có gì liên quan đến nhau không, trong trường hợp cán bộ pháp y lợi dụng việc khám nghiệm tử thi để lấy bộ phận cơ thể của người đó thì giải quyết như thế nào?

- Luật cấm việc sử dụng bộ phận cơ thể người vì mục đích thương mại. Điều đó là hợp lý. Tuy nhiên, nếu trên thực tế người bán và người mua ngầm thoả thuận là bán cho nhau bộ phận cơ thể, nhưng lại biểu hiện là tự nguyện hiến thì sẽ kiểm soát như thế nào?.

- Theo Luật, hầu hết trường hợp hiến mô, bộ phận cơ thể người sau khi chết người hiến phải có đơn tự nguyện hiến, trừ một số trường hợp pháp luật có quy định khác (Điều 21, 22). Đương nhiên, người có đơn tình nguyện hiến phải đủ điều kiện về độ tuổi. Trong trường hợp người chết không có thẻ đăng ký hiến xác thì phải được sự đồng ý bằng văn bản của cha mẹ hoặc người giám hộ của người đó hoặc vợ, chồng hoặc đại diện các con đã thành niên của người đó (điểm b, Khoản 2 Điều 22). Nếu người chết ở đây không có thẻ đăng ký hiến thì bắt buộc phải có sự đồng ý của cha, mẹ hoặc gia đình họ, nhưng người chết có bắt buộc phải từ 18 tuổi trở lên không?

- Về thẩm quyền xác định chết não được quy định tại Điều 27, theo chúng tôi, nên xem xét hoàn cảnh thực tế cũng như đảm bảo sự chính xác trong việc xác định chết não để có những quy định bác sĩ thuộc chuyên môn nào có thể được cử vào hội đồng xác định chết não. Vì vậy, Luật có nên quy định có sự tham gia của giám định pháp y trong hội đồng xác định chết não không?

- Ngoài ra, một số vấn đề trong Luật cần được quy định cụ thể hơn như: thủ tục đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể người sống; thủ tục đăng ký hiến bộ phận cơ thể người hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết; tổ chức tang lễ và mai táng di hài cho người hiến xác tại điểm b, Khoản 1, Điều 24 của Luật; có nên cho phép ngân hàng mô tư nhân được phép hoạt động hay không.

5. Hướng dẫn hoàn thiện về luật hiến xác, cơ thể người.

Từ những bất cập nêu trên, theo chúng tôi, để pháp luật về hiến, lấy ghép mô, bộ phận cơ thể, hiến và lấy xác được thực hiện có hiệu quả, cần thiết phải:

- Đề nghị bổ sung việc cho, nhận tế bào vào phạm vi điều chỉnh của Luật ở Điều 1 vì Điều 6 của Luật có quy định về quyền hiến, nhận tinh trùng, noãn, mô trong thụ thai nhân tạo, đồng nghĩa với việc tế bào thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật. Như chúng ta đã biết noãn, tinh trùng, phôi… đang là những nội dung quan trọng và cần thiết phải quy định chặt chẽ. Hơn nữa, với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật, vấn đề điều trị bằng tế bào gốc sẽ ngày càng phổ biến hơn, ví dụ: vừa qua tại TP.Hồ Chí Minh một bệnh nhân 30 tuổi bị hỏng mắt đã được các bác sĩ chữa trị thành công bằng tế bào gốc[4]. Do đó, cần phải có những quy định pháp luật cụ thể, chặt chẽ hơn về vấn đề này, vì việc hiến nhận tế bào còn có thể tạo ra một cơ thể hay một chủ thể pháp luật mới. Vì vậy, nên bổ sung vào Điều 3 của Luật khái niệm tế bào: “Tế bào là các đơn vị cấu trúc, chức năng cơ bản của mọi sinh vật đa bào”. Hơn nữa, cần bổ sung thêm quyền lợi cho người tự nguyện hiến tế bào bên cạnh người hiến mô, bộ phận cơ thể vì việc hiến tế bào cũng ảnh hưởng đến sức khoẻ của người hiến. Người hiến tế bào càng nên được hưởng quyền lợi khi Nhà nước ta đang cố gắng khuyến khích nhiều người hiến để tạo nguồn mô, tế bào, bộ phận cơ thể cứu chữa người bệnh và phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy.

- Cần sớm có quy định về trình tự, thủ tục đối với việc hiến xác, hiến bộ phận cơ thể người cho mục đích nghiên cứu khoa học cũng như điều kiện đối với các tổ chức nhận xác, bộ phận cơ thể người để nghiên cứu khoa học.

- Về độ tuổi của người hiến mô, bộ phận cơ thể người còn sống, chúng tôi đồng ý với Điều 5 của Luật là từ đủ 18 tuổi trở lên mới được hiến mô, bộ phận cơ thể. Tuy nhiên, đối với trường hợp người chết mà không có thẻ đăng ký hiến xác, hiến bộ phận cơ thể sau khi chết (Điều 22), thì Luật không nên giới hạn độ tuổi là đủ 18 tuổi trở lên, mà người dưới 18 tuổi cũng có thể được chấp nhận nếu được gia đình hoặc người giám hộ hợp pháp của họ đồng ý. Bởi lẽ, mô, bộ phận cơ thể của người dưới 18 tuổi vẫn có thể dùng để cấy, ghép cho người bệnh được và khi những người thân thích của người chết muốn hiến thì không có lý do gì mà cơ sở y tế lại không được nhận. Mặt khác, việc hiến bộ phận cơ thể, hiến xác ngoài việc phục vụ chữa bệnh còn nhằm mục đích nghiên cứu khoa học và giảng dạy.

- Về thẩm quyền xác định chết não, theo chúng tôi, Luật không cần thiết phải bắt buộc phải có sự tham gia của giám định pháp y trong việc xác định chết não vì thực tế cho thấy ở nước ta, số lượng chuyên gia pháp y là không nhiều, đặc biệt là ở một số bệnh viện, cơ sở y tế trung bình. Nếu quy định như điểm c, khoản 2, Điều 27 của Luật sẽ có nhiều trường hợp phải chờ sự có mặt của các chuyên gia pháp y. Do đó, sẽ kéo dài thời gian vàng cho phép lấy những bộ phận tạng được hiến ở điều kiện tốt nhất, chỉ bảo quản được trong thời gian ngắn. Ví dụ như tim chỉ được ghép tối ưu nhất trong vòng 24h kể từ khi lấy ra khỏi lồng ngực của người hiến, còn thận thì tuy bảo quản để ghép được có dài thời gian hơn, nhưng cũng không quá 72h. Việc xác định chết não nên giao cho một hội đồng độc lập gồm các chuyên gia thuộc chuyên khoa hồi sức, hồi sức tích cực nội – ngoại thần kinh đánh giá dựa trên dấu hiệu lâm sàng và cận lâm sàng của khoa học kỹ thuật y học hiện đại. Sau khi hội đồng có kết luận thống nhất thì thủ trưởng sẽ ra quyết định cuối cùng.

- Luật nên nêu rõ chế tài áp dụng với từng hành vi cụ thể hoặc bổ sung vào Bộ luật Hình sự những điều khoản để xử lý loại tội phạm liên quan đến các hành vi bị cấm tại Điều 11.

- Về thủ tục đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể người sống; thủ tục đăng ký hiến bộ phận cơ thể người hiến xác sau khi chết ở khoản 4 Điều 12 cũng như khoản 4, Điều 18 của Luật có nêu: trách nhiệm của cơ sở y tế là trực tiếp gặp người hiến để tư vấn về các thông tin có liên quan là không khả thi. Bởi quy định này dẫn đến trường hợp người dân sẽ hiểu rằng: các cơ sở y tế phải có trách nhiệm cử cán bộ tới nhà gặp trực tiếp người hiến để tư vấn mà cơ sở y tế thì không đủ người để có thể làm được điều đó. Vì vậy, đề nghị sửa đổi khoản 4, Điều 12, Điều 18 theo hướng sau: “Cơ sở y tế có trách nhiệm mời ng-ười hiến đến cơ sở y tế để trực tiếp cung cấp đầy đủ các thông tin có liên quan cho người hiến biết”.

- Mặt khác, điểm a, khoản 2, Điều17 của Luật cần làm rõ hơn về quy định khám sức khoẻ định kỳ bởi quy định này quá chung chung và khó thực hiện trên thực tiễn. Ví dụ: nếu có bệnh liên quan đến việc hiến mô, bộ phận cơ thể người như suy quả thận còn lại sau khi đã hiến đi một quả thì có được miễn phí trong việc điều trị hay không? Nếu phải chạy thận nhân tạo hay thay thận thì giải quyết như thế nào. Do đó, đề nghị sửa điểm a, Khoản 2, Điều 17 của Luật hoặc quy định giải thích ở một văn bản dưới luật như sau: “Được chăm sóc, phục hồi sức khoẻ miễn phí ngay sau khi hiến bộ phận cơ thể tại cơ sở y tế, đ-ược khám định kỳ miễn phí và được điều trị miễn phí với những bệnh lý trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra từ việc hiến mô, bộ, phận cơ thể ng-ười”. Việc này phải được thực hiện một cách nghiêm túc trên thực tiễn, bởi nếu thực hiện không tốt nó sẽ tác động xấu đến những người đang có ý định hiến mô, bộ phận cơ thể khi còn sống để cứu chữa người bệnh và góp phần đảm bảo quyền lợi cho người hiến. Nó cũng thể hiện được sự quan tâm cũng như chính sách của Nhà nước là tôn vinh những người hiến.

- Về quyền lợi của người hiến xác, hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi chết (Điều 25): như đã nói, một người chết đi thì nỗi đau tinh thần th-ường thuộc về những người còn sống mà trực tiếp là gia đình người hiến xác, hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi chết. Những người thân thích đó đóng vai trò rất quan trọng trong việc người thân của mình có thể hiến xác, hiến mô, bộ phận cơ thể người. Gia đình người hiến cũng đáng đượctôn vinh về mặt tinh thần để động viên họ. Do vậy, Điều 25 của Luật nên sửa đổi như sau: “Bản thân người hiến và gia đình người đã hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết được Bộ y tế truy tặng đối với bản thân và tặng đối với gia đình Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp bảo vệ sức khoẻ nhân dân”.

- Về điều kiện đối với việc lấy xác người không có địa chỉ cư trú cuối cùng (Điểm 6, K1, Điều 22), theo chúng tôi, đây là vấn đề rất nhạy cảm và không hề đơn giản. Chúng ta cần có sự phân biệt giữa tử thi vô thừa nhận và tử thi chưa xác định được người thân thích. Nếu trường hợp là tử thi vô thừa nhận không có người thân thích thì cần thời gian lưu xác để xác định chính xác điều đó trước khi lấy mô, bộ phận cơ thể hoặc lấy xác của họ. Còn nếu trường hợp tử thi mà chưa xác định đợc người thân thích là ai thì theo quan điểm của TS. Phùng Trung Tập, Uỷ ban nhân dân xã nơi người đó chết không có quyền đ-ược hiến cho cơ sở y tế, vì nó có thể dẫn đến nhiều sự phức tạp như sự lạm dụng, che giấu tội phạm, thậm chí là mua bán mô tạng bất hợp pháp…, do đó, cơ quan có thẩm quyền rất khó kiểm soát tình hình. Chúng tôi cũng đồng ý với quan điểm này.

- Về vấn đề tử tù tự nguyện hiến, thì theo chúng tôi, vẫn được chấp nhận nếu người hiến đó đạt đủ điều kiện về độ tuổi từ 18 tuổi trở nên và có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Điều này cũng phù hợp với tinh thần chung của Luật. Mặt khác, quyền hiến bộ phận cơ thể, hiến xác sau khi chết nó không chỉ là quyền công dân mà nó còn là một bộ phận của quyền con người.

- Điểm b, khoản 1, Điều 24 của Luật quy định cơ sở y tế phối hợp với gia đình người hiến để tổ chức lễ truy điệu. Thực tế cho thấy, nhiều trường hợp gia đình có người hiến ở xa, phương tiện đi lại rất khó khăn khi cơ sở y tế đến tiếp nhận thì gia đình đã tổ chức Lễ truy điệu hoặc đã thực hiện các nghi thức theo phong tục tập quán địa phương. Do đó, nên chăng chỉ cần quy định cơ sở y tế, cơ sở nghiên cứu, đào tạo y học có trách nhiệm đến viếng, đọc thư tri ân trước khi tiếp nhận di hài sẽ hợp lý hơn.
- Về điều kiện đối với người được ghép mô, bộ phận cơ thể người, theo chúng tôi, khoản 1, Điều 30 của Luật không nên quy định chung chung về người có quyền chỉ định ghép mà nên xác định cụ thể người có quyền chỉ định ghép là người đứng đầu cơ sở y tế có thẩm quyền, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Như vậy sẽ đảm bảo được sự nhanh nhạy trong việc quyết định cấy, ghép, mặt khác nó còn đảm bảo tính trách nhiệm với từng người cụ thể.

- Về chế độ bảo hiểm y tế và viện phí đối với người ghép: Vì quan hệ cấy, ghép mô là quan hệ dân sự nên chi phí cho cấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người là do người được cấy, ghép phải trả. Chi phí cho việc cấy, ghép rất lớn nên nó cần được sự hỗ trợ từ cơ quan bảo hiểm. Tuy nhiên, nếu quy định như trong Luật thì vấn đề này sẽ rất khó được giải quyết triệt để vì thực tế, Quỹ bảo hiểm y tế hiện không đủ nguồn để đáp ứng cho nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân và có nguy cơ vỡ quỹ bảo hiểm[5]. Do đó, để giảm gánh nặng cho Nhà nước, chúng ta nên ban hành văn bản pháp luật cho phép các loại hình bảo hiểm mới chuyên về lĩnh vực này hoạt động, dựa trên cơ sở liên doanh với nước ngoài hoặc 100% vốn nước ngoài để phục vụ chăm sóc, phục hồi sức khoẻ cho người ghép.

- Về sức khoẻ người hiến mô, bộ phận cơ thể cần phải không mắc bệnh nan y như viêm gan B, nhiễm HIV… còn một người bị hỏng một bộ phận cơ thể do nhiễm bệnh hoặc do nguyên nhân khác họ vẫn có thể hiến bộ phận cơ thể đó của họ nhưng không phải vì mục đích chữa bệnh mà là mục đích nghiên cứu khoa học hoặc giảng dạy.

6. Hiến xác để tri ân cuộc đời

Ngày nay, việc hiến xác cho y học nghiên cứu là chuyện không còn hiếm. Người tình nguyện làm đơn hiến thân mình cho khoa học sau khi đã trở về với cát bụi ngày càng nhiều. Đây là việc làm có ý nghĩa xã hội sâu sắc, đóng góp cho sự phát triển của y khoa, phục vụ cuộc sống tốt đẹp hơn. Thế nhưng để thực hiện nguyện vọng đó nhiều khi người hiến phải vượt qua rào cản của gia đình và người thân.

Một nghĩa cử cao đẹp:

“Muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình để các bác sĩ cứu người khi mình không còn trên cõi đời này nữa” là lý do của hầu hết những người quyết định hiến xác cho y học nghiên cứu.

Ông Vũ Đình Quý và cháu nội. Ông quyết định hiến xác theo lý lẽ thật nhẹ nhõm: “Tre già cho măng mọc”

Tuy còn rất trẻ nhưng Thanh Lê (sinh viên Đại học văn hóa TPHCM) đã có ý định hiến xác mình cho y học khi qua đời. Lê nhận thức rằng: “Người ta nói chết là hết. Mình không muốn vậy. Chết đi, mình vẫn muốn được đóng góp cho sự phát triển của xã hội”. Bạn thân của Lê cũng là một sinh viên y khoa nên Lê hiểu việc thực hành trên cơ thể người là rất cần thiết cho việc nâng cao trình độ của các bác sĩ tương lai.

Không còn trẻ như Thanh Lê, ông bà Vũ Đình Quý (ngụ Q3) đã bước qua tuổi 50. Vẫn còn rất khỏe mạnh nhưng vợ chồng, mẹ ông và anh trai đều tình nguyện hiến xác cho y học. Vốn đã từng học y khoa lúc đi bộ đội nên ông Quý hiểu sự khó khăn của sinh viên y khoa khi không có điều kiện thực hành. “Ngày xưa đi bộ đội, tôi được học y tá. Lúc đó chiến tranh nên điều kiện vô cùng thiếu thốn. Chúng tôi phải thực hành chích thuốc vào cây chuối. Tôi hiểu việc hiến xác của mình rất cần thiết với y học nên khi được một người bạn vận động, hai vợ chồng tôi đồng ý và động viên người trong nhà cùng hiến xác”.

Khoa giải phẫu học, trường Đại học Y Dược TPHCM là một trong hai đơn vị tiếp nhận xác hiến tại TPHCM. Sinh viên cũng như thầy cô giảng dạy ở đây đều coi những thi thể là một phần không thể thiếu trong công tác giảng dạy và học tập. Bác sĩ Phan Bảo Khánh (chuyên khoa 2 - khoa giải phẫu học, Đại học Y Dược TPHCM) cho biết: “Việc thực hành trên thi thể người có tầm quan trong rất lớn đối với việc học tập của sinh viên y khoa và sự phát triển của nghiên cứu y học. Nó sẽ giúp rút ngắn thời gian đào tạo, thí nghiệm nhiều kỹ thuật mới để áp dụng vào việc chữa bệnh. Những thi thể của người hiến có ý nghĩa rất lớn đối với thầy trò chúng tôi”.

Nỗi niềm người trong cuộc

Khi biết ý định của Thanh Lê, bạn bè ai cũng cho rằng cô này “hâm” vì đang trẻ trung khỏe mạnh tự dưng lại xin hiến xác như sắp chết đến nơi! Nhưng điều đó không làm Lê bận tâm bằng việc thuyết phục người thân đồng ý bởi Lê biết bố mẹ cô rất mê tín. “Không phải mình đang chán đời muốn chết mà mình đang sống hết mình đấy chứ. Việc hiến xác khi qua đời là ý nguyện hướng về cuộc sống có ích cho xã hội. Nguyện vọng của mình là được tiếp tục đóng góp cho xã hội kể cả khi đã chết đi rồi”, cô cười thật tươi lý giải. Mặc dù chưa dám mở lời để nói chuyện với bố mẹ nhưng Lê khẳng định: “Sẽ lựa lời thuyết phục để bố mẹ không sốc”. Trong quy định, chỉ cần người trên 18 tuổi là có thể tự mình quyết định việc hiến xác cho y học. Nhưng trên thực tế có không ít trường hợp khi người đăng ký hiến xác đã quá cố, gia đình họ nhất quyết không cho. “Dù có muốn thực hiện ý nguyện hiến xác của người quá cố cũng đành chịu. Chúng tôi phải tôn trọng gia đình của họ”, bác sĩ Khánh cho biết.

Lúc đăng ký hiến xác, mẹ ông Vũ Đình Quý đang sống ở nước ngoài. “Lúc đầu gia đình phản đối dữ lắm, các anh chị ở nước ngoài điện về liên tục không cho hiến xác. Sau đó, chính mẹ tôi đã ủng hộ và đồng tình hiến xác cùng tôi nên đã thuyết phục được mọi người trong gia đình”, ông Quý tâm sự. Không chỉ vận động gia đình, ông còn giải thích, động viên những người xung quanh hiến xác cho y học. “Lúc đầu nhiều người cho rằng vợ chồng tôi thiếu tiền phải bán xác, rồi gặp “cò” để lấy tiền trước. Cũng buồn, khi ý định tốt đẹp của mình bị mọi người hiểu lầm. Nhưng dần dần mọi người cũng hiểu nên ủng hộ, một vài người bạn còn đăng ký hiến xác luôn”, ông nói thêm.

Ngồi trong phòng làm việc đầy những sọ, xương người, bác sĩ Khánh xúc động bày tỏ: “Hiến xác cho y học là một việc làm cao cả. Chúng tôi vô cùng biết ơn những người tình nguyện này, họ đã cho thầy trò chúng tôi được giảng dạy, học tập và nghiên cứu tốt hơn để phục vụ cho cuộc đời này. Đó là một việc làm hoàn toàn tự nguyện, không hề có bất cứ một khoản bồi dưỡng cũng như quyền lợi nào cho người hiến xác”.

Những thi hài của người quá cố đang gieo mầm cho sự sống tiếp tục phát triển. Cuộc sống vẫn tiếp diễn song song với những nghĩa cử cao đẹp...

Tại thành phố Hồ Chí Minh, muốn đăng ký hiến xác có thể liên hệ trực tiếp hai cơ sở có quyền tiếp nhận xác hiến là: Trường Đại học Y Dược và Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch; hoặc có thể đến trung tâm y tế gần nhất sẽ được hướng dẫn hồ sơ cụ thể. Sau khi chết 12 giờ, thi thể sẽ được các bác sĩ mang về và xử lý. Xác có thể bảo quản được có khi lên tới hàng chục năm. Khi đã đưa ra giảng dạy thì sẽ được phục vụ việc học tập trong 1 đến 2 năm. Sau đó, nếu gia đình có yêu cầu sẽ hỏa thiêu. Hằng năm, nhà trường đều tổ chức lễ tri ân người đã hiến thi hài cho khoa học, thường là vào khoảng 23 tháng chạp.

TƯ LIỆU THAM KHẢO:

- Hiến xác để tri ân cuộc đời – báo mới.com
- QUI ĐỊNH VỀ ĐIỀU KIỆN HIẾN XÁC, BỘ PHÂN CƠ THỂ NGƯỜI SAU KHI CHẾT của  BÙI ĐỨC HIỂN - Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp Luật
- HOÀN THIỆN HƠN NỮA LUẬT HIẾN, LẤY GHÉP MÔ, BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI VÀ HIẾN, LẤY XÁC của BÙI ĐỨC HIỂN

- - -
Chú thích trong bài :
(1) Xem Toạ đàm về Pháp lệnh hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể và khám nghiệm tử thi 2004. Nhà Pháp luật Việt – Pháp, Hà Nội 2004.
(2) Điều 30 Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân năm 1989.
(3) Theo bà Annbel Dunbavand, bác sĩ Trung tâm cấy, ghép Quốc gia Cộng hoà Pháp: Đối với trẻ em dưới 13 tuổi bố mẹ là người quyết định về việc cho mô, bộ phận cơ thể tức là phải có sự đồng ý bằng văn bản của bố mẹ người đó. Còn đối với người từ đủ 13 tuổi trở lên thì người đó có thể tự mình đưa ra ý kiến và tự quyết định về việc cho hay không cho bộ phận cơ thể người, đồng thời pháp luật Cộng hoà Pháp cũng quy định người từ đủ 13 tuổi trở lên có quyền đăng ký từ chối việc hiến xác, bộ phận cơ thể người sau khi chết. Xem Toạ đàm về Pháp lệnh hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể và khám nghiệm tử thi 2004 . Nhà Pháp luật Việt – Pháp, Hà Nội 2004.
(4) Khoản 1, Điều 6 Luật Hiến, lấy, ghép mô bộ phận cơ thể và hiến, lấy xác năm 2006.
(5) Xem Điều 16 Luật Hiến, lấy, ghép mô bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác năm 2006.
(6) Xem Điều 18 Luật Hiến, lấy, ghép mô bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác năm 2006.
(7) Toạ đàm dư thảo Pháp lệnh hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và khám nghiệm tử thi 2004.
(8) Điểm C, Điều 21 của Luật Hiến, lấy, ghép mô bộ phận cơ thể người hiến, lấy xác năm 2006 quy định: Trường hợp không có thẻ hiến mô, bộ phận cơ thể người sau khi chết thì việc lấy phải được sự đồng ý bằng văn bản của cha, mẹ hoặc người giám hộ của người đó hoặc vợ, chồng hoặc đại diện các con đã thành niên của người đó.
(9) Theo Chỉ thị số 138/KC1 năm 1974 của Bộ Nội vụ thì xác tử tội phải chôn ở pháp trường, thân nhân không được đem về an táng. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 không có quy định nào về việc cho phép thân nhân nhận lại xác; đến nay, Chỉ thị trên vẫn còn hiệu lực và cản trở quyền được hiến xác của tử tù.

No comments:

Post a Comment