16/06/2014
Ưu điểm và hạn chế của các quy định của pháp luật về quản lý chất thải nguy hại - Bài tập học kỳ Luật Môi trường
Bảo vệ môi trường để phát triển bền vững hiện nay đã trở thành vấn đề sống còn của toàn nhân loại. Cùng với phát triển kinh tế, mức sinh hoạt của người dân ngày càng nâng cao thì lượng chất thải càng tăng nhanh, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng môi trường và sức khoẻ con người. Ngày nay, khi con người càng phát triển thì cũng là lúc mà chúng ta càng tác động nhiều đến môi trường, trong đó phần lớn là những tác động xấu. Chính vì thế, môi trường hiện nay đang trở thành vấn đề nóng bỏng ở nhiều quốc gia. Nguy cơ về môi trường cực kỳ nghiêm trọng ở các quốc gia đang phát triển, nơi mà nhu cầu hàng ngày của con người và nhu cầu phát triển của xã hội xung đột mạnh mẽ với sự cần thiết phải bảo vệ tài nguyên thiên nhiên cũng như môi trường sống. Những tổn thất này đang là mối đe doạ cho toàn nhân loại. Chính vì vậy, một trong những vấn đề mang tính toàn cầu hiện nay là những biện pháp bảo vệ hiệu quả nhất cho môi trường của trái đất. Việt Nam cũng không tránh khỏi những vân đề nan giải về môi trường. Trong đó, vấn đề quản lý chất thải nguy hại là một vấn đề bức thiết, đòi hỏi chúng ta phải có những biện pháp giải quyết.


Ngày nay, bảo vệ môi trường đã trở thành một trong những chính sách quan trọng của Đảng và nhà nước ta. Bằng những chính sách và biện pháp khác nhau, Nhà nước ta đang can thiệp vào các hoạt động của các cá nhân, tổ chức trong xã hội để bảo vệ các yếu tố của môi trường, ngăn chặn các hành vi gây ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường. Xuất phát từ tầm quan trọng của chất thải nguy hại, Nhà nước đã ban hành những văn bản pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này. Tuy nhiên, đây là một vấn đề khá mới mẻ nên bên cạnh những ưu điểm của những quy định về quản lý chất thải nguy hại không tránh khỏi những bất cập, những thiếu sót. Việc hoàn thiện những quy định về quản lý chất thải nguy hại sẽ góp phần không nhỏ cho công tác bảo vệ môi trường của nước ta đảm bảo cho sự phát triển bền vững trong thời kỳ hiện nay. Sau đây em xin trình bày vấn đề: “Ưu điểm và hạn chế của các quy định của pháp luật về quản lý chất thải nguy hại".


NỘI DUNG

I. Pháp luật về quản lý chất thải nguy hại

1. Khái niệm chất thải nguy hại

Thuật ngữ chất thải nguy hại lần đầu tiên xuất hiện vào thập niên 70. Sau một thời gian nghiên cứu, phát triển, tuỳ thuộc vào sự phát triển của khoa học kỹ thuật, xã hội cũng như quan điểm của mỗi nước mà hiện nay trên thế giới có nhiều cách định nghĩa khác nhau về chất thải nguy hại trong luật, các văn bản dưới luật về môi trường.

Tại Việt Nam, đứng trước các nguy cơ bùng nổ chất thải là hệ quả của việc phát triển công nghiệp. Ngày 16 tháng 7 năm 1999, Thủ tướng chính phủ ký quyết định ban hành Quy chế quản lý chất thải nguy hại số 155/1999/QĐ9 – TTg, tại Điều 2, mục 2 chất thải nguy hại được định nghĩa như sau: “Chất thải nguy hại là chất thải có chứa các chất hoặc hợp chất có một trong các đăc tính gây nguy hại trực tiếp(dễ cháy, dễ nổ, làm ngộ độc, dễ ăn mòn, dễ lây nhiễm và các đặc tính gây nguy hại khác), hoặc tương tác với các chất khác gây nguy hại tới môi trường và sức khoẻ con người”. Theo Điều 3 Luật bảo vệ môi trường 2005 thì: “Chất thải nguy hại là chất thải chứa yếu tố độc hại, phóng xạ, dễ cháy, dễ nổ, dễ lây nhiễm, gây ngộ độc hoặc các đặc tính nguy hại khác.”

Ta thấy, trong Luật bảo vệ môi trường năm 2005 thì định nghĩa về chất thải nguy hại ngắn gọn, rõ ràng và có tính khái quát hơn định nghĩa trong Quy chế quản lý chất thải nguy hại năm 1999. Tuy nhiên, dù có sự khác nhau về từ ngữ nhưng cả hai định nghĩa này đều có nội dung tương tự nhau, giống với định nghĩa của các nước và các tổ chức trên thế giới, đó là đều nhấn mạnh vào đặc tính gây nguy hại cho môi trường và sức khỏe cộng đồng của chất thải nguy hại.

2. Các quy định của pháp luật về quản lý chất thải nguy hại

a. Định nghĩa về quản lý chất thải nguy hại

Dựa trên các quy định của Quy chế quản lý chất thải nguy hại và Luật bảo vệ môi trường năm 2005, quản lý chất thải nguy hại có thể được hiểu như sau: Đó là một hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa các chủ thể liên quan đến chất thải nguy hại đối với cơ quan quản lý Nhà nước về môi trường và với nhau trong quy trình quản lý chất thải nguy hại nhằm bảo vệ môi trường và sức khoẻ cộng đồng.

Với tư cách là phương tiện hàng đầu của quản lý nhà nước đối với chất thải nguy hại, pháp luật xác định địa vị pháp lý của các cá nhân, các tổ chức sản xuất kinh doanh có liên quan đến lĩnh vực chất thải nguy hại, tạo hành lang pháp lý để các chủ thể này tham gia vào các quan hệ khai thác, sử dụng các thành phần môi trường. Cũng thông qua pháp luật, Nhà nước với vai trò là chủ thể quản lý tạo ra môi trường thuận lợi, tin cậy và chính thức cho các hoạt động quản lý chất thải nguy hại trong phạm vi cả nước, cần kiểm soát tốt chất thải nguy hại ngay từ nguồn thải đồng thời thực hiện tốt các bước trong quy trình quản lý chất thải nguy hại như thu gom, vận chuyển, quá cảnh, lưu trữ, xử lý và tiêu hủy chất thải nguy hại.

b. Nội dung pháp luật về quản lý chất thải nguy hại

Pháp luật về quản lý chất thải nguy hại đã quy định về quy trình để triển khai và thực hiện một cách lần lượt từ việc thu gom, lưu giữ, vận chuyển đến việc xử lý và tiêu hủy chất thải nguy hại. Đồng thời cũng quy định trách nhiệm của các chủ thể liên quan đến chất thải nguy hại, từ các cơ quan quản lý nhà nước đến các tổ chức, cá nhân. Các nội dung quy định như sau:

* Việc quản lý chất thải nguy hại phải được lập hồ sơ và đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường để cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép và mã số hoạt động quản lý chất thải nguy hại (Điều 70 Luật bảo vệ môi trường 2005). Việc làm này là để tránh xảy ra sự cố môi trường trong quá trình quản lý chất thải nguy hại.

* Việc phân loại, thu gom, lưu giữ tạm thời chất thải nguy hại phải được tiến hành theo cách: Tổ chức, cá nhân có hoạt động làm phát sinh chất thải huy hại phải tổ chức phân loại, thu gom hoặc hợp đồng chuyển giao cho bên tiếp nhận quản lý chất thải thu gom chất thải nguy hại (Điều 71 Luật bảo vệ môi trường 2005). Theo số lượng thống kê, hiện nay, tổng lượng chất thải nguy hại trên địa bàn toàn quốc vào khoảng 150.064 tấn/năm. Các loại chất thải nguy hại nếu không được phân loại, thu gom, lưu giữ theo đúng quy trình thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường và sức khoẻ của cộng đồng.

* Xuất phát từ đặc tính nguy hại của chất thải nguy hại mà việc vận chuyển chất thải nguy hại phải tuân thủ những quy định riêng. Việc vận chuyển chất thải nguy hại phải có giấy phép và bằng thiết bị, phương tiện chuyên dụng phù hợp, đi theo tuyến đường và thời gian do cơ quan có thẩm quyền về phân luồng giao thông quy định Tổ chức, cá nhân phải thực hiện theo quy định là chất thải nguy hại phải được lưu giữ tạm thời trong thiết bị chuyên dụng đảm bảo không rò rỉ, rơi vãi, phát tán ra môi trường (Điều 72 Luật bảo vệ môi trường 2005). Ngoài ra, luật còn quy định cụ thể trách nhiệm của tổ chức, cá nhân là phải có kế hoạch, phương tiện phòng, chống sự cố do chất thải nguy hại gây ra; không được để lẫn chất thải nguy hại với chất thải thông thường và phải chịu trách nhiệm nếu để xảy ra sự cố môi trường trong quá trình vận chuyển, xếp dỡ.

* Do chất thải nguy hại là chất thải đặc biệt nguy hiểm nên các quốc gia đều có quy định về việc xử lý chất thải nguy hại. Ở nước ta, việc xử lý chất thải nguy hại phải tiến hành bằng phương pháp, công nghệ, thiết bị phù hợp với đặc tính hóa học, lý học và sinh học của từng loại chất thải nguy hại để đảm bảo đạt tiêu chuẩn môi trường. (Điều 73 Luật bảo vệ môi trường 2005). Trường hợp trong nước không có công nghệ, thiết bị xử lý thì phải lưu giữ theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của cơ quan quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường cho đến khi được xử lý. Để tránh những tác động xấu của cơ sở xử lý chất thải nguy hại đối với môi trường, luật quy định trách nhiệm của tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng cơ sở xử lý chất thải nguy hại phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường và thực hiện yêu cầu về bảo vệ môi trường.

* Cơ sở xử lý chất thải nguy hại và khu chôn lấp chất thải nguy hại ảnh hưởng rất lớn đến môi trường nên luật quy định cụ thể yêu cầu bảo vệ môi trường đối với cơ sở xử lý chất thải nguy hại và khu chôn lấp chất thải nguy hại. Việc thải bỏ, chôn lấp chất thải nguy hại còn lại sau khi xử lý phải được thực hiện theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về bảo vệ môi trường. (Điều 74, 75 Luật bảo vệ môi trường 2005).

Do chất thải nguy hại thường có nguồn gốc phát sinh từ các hoạt đồng sản xuất kinh doanh thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau nên pháp luật môi trường cũng quy định trách nhiệm của nhiều loại cơ quan trong việc quản lý loại chất thải này. Luật quy định rõ Bộ xây dựng chủ trì phối hợp với Bộ tài nguyên và môi trường, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh lập quy hoạch tổng thể quốc gia về thu gom, xử lý chôn lấp chất thải nguy hại.

Tổng cục môi trường: Quản lý hoạt động và các hồ sơ, hợp đồng, báo cáo, chứng từ liên quan đến các tổ chức, cá nhân có giấy phép quản lý chất thải nguy hại do mình cấp. Bộ tài nguyên và môi trường thực hiện việc thống nhất quản lý nhà nước về chất thải nguy hại trong phạm vi toàn quốc; chịu trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo các hoạt động quản lý chất thải nguy hại (Điều 21 Quy chế quản lý chất thải nguy hại năm 1999).

Bộ xây dựng có trách nhiệm Hướng dẫn các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong việc quy hoạch xây dựng các khu xử lý chất thải nguy hại hợp vệ sinh, các bãi chôn lấp chất thải nguy hại phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. (Điều 22 Quy chế quản lý chất thải nguy hại 99).

Bộ công nghiệp có trách nhiệm Giám sát, kiểm tra và triển khai các biện pháp hữu hiệu buộc các chủ nguồn thải phải tuân thủ các quy định của Quy chế (Điều 23 Quy chế quản lý chất thải nguy hại năm 1999).

Bộ y tế có trách nhiệm Giám sát, kiểm tra và có các biện pháp hữu hiệu buộc các bệnh viện, trạm y tế, cơ sở dịch vụ y tế tuân thủ các quy định của Quy chế. (Điều 24 Quy chế quản lý chất thải nguy hại năm 1999).

Bộ quốc phòng, Bộ công an có trách nhiệm Giám sát, kiểm tra và triển khai thực hiện các biện pháp hữu hiệu buộc các chủ nguồn thải thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an tuân thủ các quy định về quản lý chất thải nguy hại. (Điều 25 Quy chế quản lý chất thải nguy hại năm 1999).

Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương Chỉ đạo Sở Xây dựng lập quy hoạch, kế hoạch xây dựng các khu lưu giữ, các cơ sở xử lý, tiêu hủy và các bãi chôn lấp chất thải hợp vệ sinh thuộc địa bàn quản lý của địa phương (Điều 27 Quy chế quản lý chất thải nguy hại năm 1999).

Thêm vào đó hiện nay ở nước ta còn có một số văn bản khác quy định về vấn đề này như: Quyết định 23/2006/QĐ-BTNMT ngày 26-12-2006 quy định về việc ban hành  danh mục chất thải nguy hại; Thông tư 12/2006/TT-BTNMT hướng dẫn về điều kiện hành nghề và thủ tục lập hồ sơ, đăng ký, cấp phép hành nghề, mã số quản lý chất thải nguy hại; Quy chuẩn Việt Nam 07/2009/BTNMT quy định về quy chuẩn kĩ thuật quốc gia về ngưỡng chất thải nguy hại.

II. Những ưu điểm và hạn chế của các quy định về quản lý chất thải nguy hại.

1. Ưu điểm của các quy định về quản lý chất thải nguy hại.

Như chúng ta đã phân tích ở trên, khi định nghĩa về chất thải nguy hại thì phần quan trọng nhất mà Nhà nước ta nhấn mạnh vào chính là đặc tính gây nguy hại cho môi trường và sức khỏe cộng đồng của chất thải nguy hại. Chính vì vậy mục đích của pháp luật quản lý chất thải nguy hại chủ yếu là bảo vệ môi trường và sức khỏe của cộng đồng. Thông qua vấn đề đặt ra các khung pháp lý quy định về trách nhiệm của cơ quan Nhà nước về môi trường; quyền, nghĩa vụ của các tổ chức cá nhân liên quan đến chất thải nguy hại. Pháp luật quản lý chất thải nguy hại đã phân định rõ quyền hạn cho các cơ quan Nhà nước giúp cho hoạt động quản lý của Nhà nước đối với vấn đề này đạt hiệu quả cao. Đồng thời pháp luật còn định hướng cho hành vi, xử sự của các chủ thể khi tham gia các hoạt động liên quan đến chất thải nguy hại. Qua đó ngăn ngừa, hạn chế việc gia tăng số lượng chất thải nguy hại vào môi trường, giảm thiểu những ảnh hưởng bất lợi của nó đối với sức khỏe con người cũng như môi trường sống.

Các quy định của pháp luật về quản lý chất thải nguy hại đã góp phần đáng kể hạn chế các vi phạm về môi trường thông qua các biện pháp cụ thể.

* Biện pháp pháp lý: với tư cách là hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh hành vi xử sự của con người, pháp luật quản lý chất thải nguy hại đã tác động trực tiếp đến hành vi xử sự của các chủ thể. Đây là biện pháp đem lại hiệu quả cao nhất, thông qua đó hoạt động quản lý chất thải nguy hại được thể chế hóa bằng pháp luật. Đó là việc ban hành một số văn bản pháp luật: Luật bảo vệ môi trường năm 2005, ngoài ra còn có Thông tư số 12/2006/TT-BTNMT: Hướng dẫn điều kiện hành nghề và thủ tục lập hồ sơ, đăng ký, cấp phép hành nghề, mã số quản lý chất thải nguy hại và một số văn bản khác. Từ đó Nhà nước quản lý, tác động vào những hành vi vi phạm trong quản lý chất thải nguy hại bằng giúp giáo dục công dân tôn trọng pháp luật bảo vệ môi trường.

* Biện pháp kinh tế: Các biện pháp kinh tế được sử dụng khá hiệu quả trong hoạt động quản lý vi mô và vĩ mô đối với nền kinh tế. Sử dụng biện pháp kinh tế là sử dụng đến những đòn bẩy lợi ích kinh tế.  Đó là việc sử dụng lợi ích vật chất để kích thích hoặc bắt buộc các chủ thể thực hiện những hoạt động có lợi cho hoạt động quản lý chất thải. Biện pháp này thực hiện thông qua hình thức thu phí chất thải đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh nhằm hạn chế lượng chất thải có thể phát sinh ngay tại nguồn. Áp dụng thuế cao đối với những sản phẩm có khả năng gây ô nhiễm môi trường hoặc sức khỏe con người ở mức độ cao. Đó còn là những biện pháp hỗ trợ vốn, miễn giảm thuế cho doanh nghiệp đầu tư trang thiết bị công nghệ thân thiện môi trường... Biện pháp kinh tế rất cần thiết và có hiệu quả phòng ngừa cao vì nó tác động trực tiếp tới nguồn thu nhập, lợi nhuận của doanh nghiệp.

Ngoài ra hiện nay Nhà nước ta còn có các biện pháp kí quỹ đặt cọc được quy định trong Điều 114 Luật bảo vệ môi trường năm 2005 đã nâng cao trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức trong hoạt động khai thác tài nguyên thiên nhiên.

* Biện pháp khoa học công nghệ: Môi trường được bao bọc bởi nhiều yếu tố phức tạp. Khi số lượng dân cư ngày càng đông hơn thì công nghệ xử lý chất thải đòi hỏi phải có những biện pháp khoa học, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến. Vận dụng các thiết bị khoa học công nghệ tiên tiến vào việc quản lý chất thải giúp hạn chế được lượng chất thải nguy hại, đồng thời xử lý được khối lượng lớn và triệt để chất thải.

* Biện pháp chính trị: Chính trị được coi là một trong những biện pháp quan trọng của bảo vệ môi trường. Đảng đưa ra vấn đề môi trường và quản lý chất thải trong cương lĩnh của mình, từ đó thể chế hóa thành pháp luật. Biện pháp này có tác dụng định hướng và có tính bao quát cao. Vấn đề bảo vệ môi trường trở thành nhiệm vụ chính trị góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường sống.

Các quy định của pháp luật càng rõ ràng và cụ thể thì sẽ làm cho người dân hiểu pháp luật, nâng cao ý thức của họ hơn. Đồng thời đóng góp công sức vào việc bảo vệ môi trường sống khỏi nguồn rác thải nguy hại.

2. Hạn chế của các quy định về quản lý chất thải nguy hại

Bên cạnh những ưu điểm trong công tác quản lý chất thải nguy hại, những quy định của pháp luật về vấn đề này vẫn còn những thiếu sót nhất định. Trên thực tế, khi áp dụng những quy định pháp luật về quản lí chất thải nguy hại trong những năm gần đây đã được Nhà nước ta chú ý nhưng vẫn còn rất nhiều bất cập, tồn tại cần khắc phục. Chính những hạn chế trong pháp luật về quản lí chất thải nguy hại đang làm ảnh hưởng xấu đến công tác quản lí chất thải nguy hại. Cụ thể là:

Thứ nhất, hệ thống văn bản pháp luật về quản lí chất thải nguy hại: Không phủ nhận Nhà nước và Chính phủ đã có một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý chất thải nguy hại (CTNH). Song trên thực tế, khoảng cách giữa quy định của luật với thực tiễn vẫn còn những bất cập. Hệ thống văn bản pháp luật về vấn đề này còn chưa đầy đủ chưa đồng bộ và đầy đủ. Công tác này đã có sự quan tâm đầu tư nhất định từ phía Nhà nước nhưng trên thực tế thì hệ thống văn bản pháp luật về lĩnh vực này cong thiếu nhiều văn bản hướng dẫn về chất thải gây khó khăn cho quá trình quản lý chất thải; thiếu những văn bản chi tiết hướng dẫn việc thực hiện và nhất là thiếu các chế tài xử phạt; chưa có các quy định về chất thải nguy hại từ sinh hoạt và nông nghiệp, các văn bản hiện hành phần lớn đề cập tới việc quản lí chất thải rắn, chất thải y tế… các chất thải khác như chất thải sinh hoạt, chất thải lỏng, chất thải trong công nghiệp, chất thải phóng xạ… chưa được quan tâm thích đáng; quy định về lưu giữ chất thải chờ thiết bị công nghệ không mang tính khả thi, chưa có quy định của pháp luật về phân loại các chất thải nguy hại trong sinh hoạt… Mặc dù quy chế quản lí chất thải nguy hại và sau đó là quy chế quản lí chất thải y tế đã được ban hành khá lâu nhưng điều bất cập là chưa có đầy đủ các thông tư hướng dẫn cụ thể. Việc thực hiện quy chế cho các đối tượng là các cơ quan quản lí nhà nước về chất thải ở địa phương các nguồn chất thải chủ thu gom vận chuyển, chủ xử lí tiêu hủy chất thải. Việc ban hành các văn bản quy định về các tiêu chuẩn bãi chôn lấp hợp vệ sinh tiêu chuẩn xe chuyển tải, tiêu chuẩn thiết bị vận hành xử lí cũng còn chậm trễ và chưa đồng bộ. Thêm vào đó các văn bản kém ổn định làm mất hiệu quả quản lý của các cơ quan nhà nước và ảnh hưởng đến hoạt động của người bị quản lý. Có những văn bản mới ban hành xong, lại sửa đổi, bổ sung. Ví dụ như thông tư số 15/2009/TT-BNN của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn ban hành ngày 17/03/2009 thì ngày 04/06/2009 Bộ đã phải ban hành thông tư 29/2009/TT-BNN sửa đổi bổ sung thông 
tư trên. Việc điều chỉnh những hành vi quản lý chất thải trong những lĩnh vực trên thường được dẫn chiếu từ những văn bản khác nhau, do đó các cơ quan có thẩm quyền thường không có cơ sở để áp dụng.

Thứ hai, các chế tài xử phạt được quy định trong các văn bản pháp luật của nước ta về quản lý chất thải nguy hại còn nhẹ đối với các hành vi vi phạm: Mức trần xử phạt hành chính trong lĩnh vực môi trường còn thấp, ý thức chấp hành của một số doanh nghiệp còn yếu kém nên chế tài xử lý chưa phù hợp sẽ không đủ sức răn đe . Thiếu các quy định liên quan đến mua bán chất thải, kinh doanh chất thải và chúng ta chưa thể thể chế hóa được các chế tài xử lí cụ thể việc vi phạm các quy định về quản lí chất thải. Người bán chất thải nguy hại chỉ bị xử lí kỉ luật, không bị xử lí về phương diện môi trường. Người mua cũng không bị xử lí về phương diện môi trường mà chỉ bị xử lý kỷ luật.

Thứ ba, là việc xây dựng các quy định về quản lí chất thải mới chỉ căn cứ chủ yếu vào kết quả của một dự án chưa mang tính tổng thể. Vì vậy nội dung của quy chế chỉ tập trung tới các hóa chất ở ba dạng: chất thải chứa kim loại, chất thải chứa chất hữu cơ vô cơ, chất thải chứa hợp chất nhưng bản chất chất thải có tính đa dạng hơn nhiều so với các hóa chất thuần túy và vì thế quy chế đã được ban hành nhưng thiếu tính khả thi vì nó chưa bao trùm hết các dạng chất thải nguy hại.

Thứ tư, việc xây dựng các tiêu chuẩn hiện nay dựa tên giả định trước rằng đã đầy đủ cơ quan giám sát các hoạt động người gây ô nhiễm và có quyền ra lệnh phạt những người vi phạm. Tuy nhiên hiện nay hệ thống thanh tra môi trường ở các địa phương còn yếu, chưa có đủ chuyên môn và kinh nghiệm cần thiết, lực lượng cán bộ quản lý về môi trường còn mỏng, trong khi địa bàn hoạt động rộng, số lượng doanh nghiệp nhiều, các vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường chưa được xử lý kịp thời, chưa được áp dụng các biện pháp mạnh có tính cưỡng chế. Từ góc độ khác có thể thấy những người tham gia xây dựng các tiêu chuẩn thường có tham vọng và đưa ra các tiêu chí tương đối nghiêm ngặt thường quá cao so với trình độ phát triển chung toàn quốc và do đó khó có đủ cơ sở để thực thi hiệu quả.

Thứ năm, đối với những quy định của pháp luật về nghĩa vụ của người sản sinh chất thải nguy hại nhìn chung là đã đáp ứng được thực tiễn đặt ra nhưng vẫn còn những hạn chế đó là việc quy định rất chung chung. Quy định phải thực hiện các biện pháp giảm thiểu chất thải ngay từ nguồn nhưng lại không quy định những biện pháp cụ thể. Đối với việc giảm thiểu chất thải ngay từ nguồn là rất phù hợp, là một biện pháp giải quyết tiến bộ nên quy định những biện pháp rõ ràng cụ thể vì nếu các chủ thể tiến hành xử lí chất thải từ nguồn mà áp dụng không đúng các biện pháp thì có thể gây ra những hậu quả nặng nề cho môi trường nên cần quy định rõ các biện pháp cụ thể. Chất thải rất đa dạng phong phú, mỗi loại có những biện pháp xử lí riêng nên công việc này khá phức tạp đòi hỏi pháp luật cần điều chỉnh và can thiệp cụ thể hơn. Phải tổ chức lưu giữ tạm thời trong thiết bị chuyên dụng, đóng gói chất thải nguy hại theo chủng loại theo các bao bì thích hợp đáp ứng các yêu cầu an toàn kĩ thuật. Nhưng bên cạnh đó còn một vấn đề nảy sinh là việc lưu giữ tạm thời với các đối tượng sản sinh là rất tốn kém. Vì việc lưu giữ chất thải là một vấn đề khá phức tạp phải có những dụng cụ, theo một quy trình kĩ thuật xử lí công phu nên phải có chi phí kinh tế lớn mà với cơ sở sản sinh thì rất khó để những đối tượng này chi ra một khoản tiền lớn như vậy. Trên thực tế thì các cơ sở này cũng khó có thể đáp ứng được đúng các tiêu chuẩn kĩ thuật. Khu vực lưu giữ chất thải của nơi sản sinh có một vai trò quan trọng, cần có thêm quy định về vấn đề này.

Thứ sáu, đối với những quy định của pháp luật về nghĩa vụ của người vận chuyển chất thải. Pháp luật quy định chỉ được vận chuyển khi có giấy phép vận chuyển chất thải nguy hại do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp. Quy định này nhằm giúp các cơ quan quản lí tốt nhất quá trình vận chuyển chất thải nguy hại. Song trên thực tế vấn đề xin cấp giấy phép còn gặp nhiều khó khăn, phải qua nhiều khâu xem xét, thẩm định...Vậy nếu lượng chất thải ứ đọng quá lớn mà giấy phép vận chuyển đi tiêu hủy chưa xin được thì cần phải có biện pháp cụ thể xử lí. Do tính chất của việc vận chuyển chất thải nguy hại có tính chất đặc thù nên pháp luật phải quy định cụ thể hơn nữa về người vận chuyển chất thải nguy hại vì người này gắn liền với quá trình vận chuyển và là người chủ yếu đảm bảo an toàn cho quá trình vận chuyển.

Thiếu quy định về việc quyết định các biện pháp xử lý khi có sự cố xảy ra trong quá trình vận chuyển chất thải nguy hại. Pháp luật chỉ quy định là tự chịu trách nhiệm còn chịu trách nhiệm cụ thể như thế nào thì chưa quy định rõ. Việc quy định về phương tiện vận chuyển còn lỏng lẻo. Pháp luật chỉ quy định bằng phương tiện chuyên dụng phù hợp để xác định một phương tiện đủ tiêu chuẩn để vận chuyển chất thải nguy hại thì chưa có những tiêu chuẩn cụ thể.

Thứ bảy, đối với người xử lý chất thải nguy hại. Chỉ được thực hiện những hoạt động xử lý khi có giấy phép và mã số hoạt động do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cấp. Đây là một quy định hợp lý nhưng trên thực tế khâu cấp giấy phép lại gây ra những khó khăn cho hoạt động xử lý. Hoạt động xử lý vô hình chung làm ảnh hưởng đến tốc độ của quá trình này.

Pháp luật quy định phương pháp xử lý chất thải nguy hại bằng phương pháp công nghệ, thiết bị phù hợp với đặc thù hóa học, lý học và sinh học của từng loại chất thải nguy hại đểm đảm bảo đạt được tiêu chuẩn môi trường. Trường hợp trong nước không có công nghệ thiết bị xử lý thì phải lưu giữ theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường cho đến khi chất thải được xử lý. Nhưng trên thực tế công nghệ khoa học kỹ thuật trong nước vể kiểm định và xử lý chất thải còn lạc hậu, vấn đề kinh phí để đổi mới và bổ sung các thiết bị khoa học tiên tiến còn đang gặp khó khăn do thiếu nguồn đầu tư, bởi vậy nếu không có công nghệ thiết bị phù hợp với đặc tính của chất thải nguy hại mà phải lưu giữ để chờ mua được thiết bị thì phải chờ đến khi nào?

Ngoài các vấn đề quy định về con người thì vấn đề vốn công nghệ và trình độ công nghệ còn gặp nhiều khó khăn. Về cơ bản nguồn vốn đầu tư cho quản lí chất thải đặc biệt là xử lí chất thải còn hạn hẹp, trong khi đó nhu cầu quản lí đòi hỏi phải có đầu tư lớn và tập trung. Hơn thế nữa công nghệ xử lí chất thải còn lạc hậu là nguyên nhân khiến chất thải không được xử lí triệt để. Hiện nay ngân sách nhà nước dành cho công tác bảo vệ môi trường và quản lí chất thải là 1% và dự kiến đến năm 2010 là 2%. Công nghệ xử lí chất thải còn lạc hậu. Theo Bộ Tài nguyên và môi trường hiện nay có trên 193 đội thuộc các ngành như chế biến thực phẩm và dược phẩm… cho thấy có 118 nhà máy đã đầu tư xây dựng trạm xử lí nước thải. Tuy nhiên có tới 21/118 trạm không hoạt động. Các trạm xử lí nước thải hoạt động thường xuyên là của đơn vị đầu tư nước ngoài nhưng cũng chỉ là đối phó với cơ quan chức năng. Mặt khác, lại thấy hầu hét các trạm xử lí chất thải đều không có các cán bộ kĩ thuật chuyên trách về môi trường đề điều chính các thông số tối ưu trong xử lí nên hệ thống vận hành không đúng theo hướng dẫn kĩ thuật, làm giảm tuổi thọ hệ thống.

Ngoài ra, công tác quy hoạch, phân vùng xử lý, chôn lấp CTNH tại một số địa phương còn lúng túng, thiếu tính lâu dài. Nhiều địa phương tập trung nhiều các KCN, cụm công nghiệp, KCX, khu kinh tế trọng điểm cũng như các bệnh viện phát sinh một lượng lớn CTNH. Nhưng tại những địa bàn này hầu hết lại không có các cơ sở vận chuyển, xử lý CTNH. Nguyên nhân một phần do địa phương không có cơ chế chính sách khuyến khích, hỗ trợ đầu tư để hoạt động.

Nhận thức của cộng đồng về công tác bảo vệ môi trường và xử lý chất thải còn yếu kém. Người dân gần như không nhận thức được tác hại của rác thải và sự ảnh hưởng của rác thải với sức khoẻ, môi trường sống, ý thức bảo vệ môi trường chưa cao.

III. Một số biện pháp nhằm hoàn pháp luật về quản lý chất thải nguy hại

Việc xây dựng cơ chế quản lý chất thải nguy hại ở nước ta phải quán triệt quan điểm: kết hợp chặt chẽ giữa việc xây dựng một hệ thống pháp luật “cứng” với các chính sách quản lý “mềm” phù hợp với đặc thù của Việt Nam nhằm cân bằng hai lợi ích - vừa thúc đẩy phát triển kinh tế và vừa ngăn ngừa giảm thiểu tác hại đến môi trường.

Một hệ thống pháp luật “cứng” là việc xây dựng một hệ thống các văn bản pháp lý quy định chi tiết và đầy đủ trách nhiệm của các đối tượng liên quan đến lĩnh vực quản lý chất thải nguy hại như: các cơ quan quản lý nhà nước, các chủ nguồn thải, chủ thu gom, vận chuyển, chủ lưu giữ, xử lý tiêu huỷ chất thải nguy hại cũng như các chế tài xử phạt nghiêm minh đối với các hành vi vi phạm. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần phải biết “mềm” hoá việc thực thi pháp luật bằng các cơ chế, chính sách phù hợp nhằm tạo điều kiện kích thích cho việc đầu tư phát triển nền kinh tế nhưng vẫn kiểm soát và ngăn ngừa được ô nhiễm do việc phát sinh các chất thải nguy hại gây ra.

Để cụ thể hoá cho quan điểm trên, theo em cần thực hiện một số biện pháp sau:

1. Xây dựng các văn bản hướng dẫn cụ thể: 

Ban hành các chỉ tiêu môi trường cho việc chọn lựa địa điểm, thiết kế xây dựng, vận hành bãi chôn lấp chất thải nguy hại. Nghiên cứu, ban hành hướng dẫn về phương pháp tính để xây dựng phí thu gom, xử lý, tiêu huỷ chất thải nguy hại. Ban hành danh mục các loại phế liệu, phế phẩm (có quy định khống chế tỷ lệ chất thải nguy hại) được phép nhập khẩu dùng trong sản xuất công nghiệp.

2. Sửa đổi, bổ sung các quy định về xử lý các vi phạm: 

Hiện nay, các mức phạt theo các quy định tại Nghị định số 26/CP quy định xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường là quá nhẹ, không hợp lý và còn nhiều điểm quy định rất chung chung (ví dụ: theo Điểm b, Điều 16 Nghị định 26/CP, mức phạt cao nhất chỉ là 15.000.000đ áp dụng đối với hành vi chôn vùi, thải các chất thải nguy hại quá giới hạn cho phép với khối lượng lớn, thời gian khắc phục hậu quả lâu dài). Ngay cả trong 10 tội danh tại Chương 17 Bộ luật Hình sự Việt Nam quy định tội phạm về môi trường cho thấy các mức xử lý các cá nhân vi phạm cũng còn rất thấp (chỉ có từ 5 – 10 năm là tối đa). Ở đây, chúng ta thử một phép so sánh một cá nhân nếu phạm tội cố ý giết người trong Luật hình sự có thể bị kết án tử hình. Tuy nhiên, chủ một doanh nghiệp cố ý thải chất thải nguy hại gây ô nhiễm nguồn nước phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất của nhân dân, gây nên nhiều căn bệnh nan y dẫn đến tử vong cho nhiều người trong một thời gian dài thì chỉ bị phạt tiền hoặc phạt tù ở mức độ thấp – đây là một điều chưa hợp lý. 
Trong thời gian qua có rất nhiều tổ chức và cá nhân vi phạm các quy định này và vẫn thường xuyên tái phạm vì tiền phạt không thấm là bao so với việc phải đầu tư trang thiết bị cho công tác xử lý chất thải nguy hại. Vì vậy, sự nghiêm minh và tính răn đe của pháp luật chưa được phát huy hiệu lực. Giải pháp đề ra trong thời gian tới là: chúng ta cần sửa đổi, bổ sung các mức xử phạt đúng đắn, sát với tình hình thực tế của công tác quản lý chất thải nguy hại nhằm nâng cao hiệu lực pháp lý trong vấn đề này.

3. Ban hành một số chính sách quản lý Nhà nước phù hợp:

Các chính sách về tài chính (Thu lệ phí đối với các hoạt động gây ô nhiễm: Mục tiêu chính của những thuế này là kích thích các nhà sản xuất sử dụng các phương pháp hạn chế và giảm thiểu chất thải. Đánh thuế trực tiếp vào một số sản phẩm có khả năng gây ảnh hưởng lớn đến môi trường như xăng, dầu có chì, nhà máy nhiệt điện, thuốc trừ sâu, một số hoá chất, năng lượng...); Các chính sách về quản lý hành chính và đầu tư khoa học công nghệ (tăng cường hệ thống thanh tra môi trường; xây dựng những khu công nghiệp tập trung bao gồm nhiều nhà sản xuất để có phương án tập trung xử lý chất thải, cách này giảm được chi phí riêng biệt cho các nhà sản xuất và tránh được ô nhiễm môi trường ở nhiều khu vực khác nhau; khuyến khích việc nghiên cứu áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ trong lĩnh vực xử lý chất thải nguy hại); Công tác tuyên truyền, giáo dục (chúng ta cần tăng cường hơn nữa việc tuyên truyền, giáo dục, phổ biến kiến thức về chất thải nguy hại và pháp luật về chất thải nguy hại, phân tích làm cho nhân dân hiểu được rằng đây là một vấn đề đang được cả thế giới quan tâm và “tai hoạ sẽ đến với tất cả chúng ta, không kể người giàu hay nghèo” nếu không ý thức được điều này); Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế (Tích thực nghiên cứu học hỏi kinh nghiệm của các nước trong khu vực và các quốc gia trên thế giới trong vấn đề quản lý chất thải nguy hại để tìm ra các giải pháp, các chính sách phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước, thiết lập và phát triển mối quan hệ hợp tác quốc tế sẽ giúp cho các hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực quản lý chất thải nguy hại đạt kết quả cao hơn. Thông qua các hoạt động như trao đổi thông tin, chuyển giao công nghệ, đào tạo cán bộ quản lý, hỗ trợ về tài chính, chúng ta sẽ có điều kiện triển khai giải quyết nhiều vấn đề vướng mắc trong công tác quản lý chất thải nguy hại, nhất là vấn đề vốn và công nghệ. Tham gia xây dựng và thực hiện các công ước quốc tế về lĩnh vực quản lý chất thải nguy hại cũng cần coi là một ưu tiên hàng đầu trong chính sách bảo vệ môi trường bởi nói kông chỉ thể hiện ý thức trách nhiệm trong việc bảo vệ sự phát triển bền vững của riêng đất nước chúng ta mà còn là trách nhiệm chung đối với sự tồn tại và phát triển của toàn nhân loại.

KẾT LUẬN

Quản lý chất thải nguy hại là một vấn đề bức xúc trong công tác bảo vệ môi trường tại Việt Nam hiện nay. Cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa mạnh mẽ, lượng chất thải cũng liên tục gia tăng, tạo sức ép rất lớn đối với công tác bảo vệ môi trường. Chất thải nguy hại luôn là một trong những vấn đề trầm trọng nhất mà con người dù ở bất cứ nơi đâu cũng phải tìm cách đối phó. Có người cho rằng chỉ các nước phát triển mới phải lo lắng đến việc quản lý chất thải nguy hại nhưng đó là một suy nghĩ hoàn toàn sai lệch.Vì với tốc độ phát triển liên tục của công nghiệp hoá ở các nước đang phát triển, vấn đề quản lý chất thải nguy hại là hết sức cần thiết, đòi hỏi phải có sự quan tâm đặc biệt để đối phó ngay một cách nghiêm túc, kịp thời trước khi vấn đề trở nên trầm trọng. Ngay cả ở Việt Nam, nếu chúng ta để quá muộn thì chúng ta sẽ phải sống chung với chính rác thải của mình nếu không xử lý chất thải nguy hại tốt.

Hiện nay, với sự bùng nổ dân số toàn cầu và tốc độ công nghiệp hoá cao  đã gây ra những tổn thất to lớn cho môi trường, đặc biệt là trong hoạt động quản lý chất thải nguy hại vẫn tồn tại nhiều bất cập cần hoàn thiện. Chính vì vậy, vấn đề quản lý chất thải nguy hại là một vấn đề bức thiết, đòi hỏi chúng ta phải có những biện pháp giải quyết, tránh khỏi những bất cập, thiếu sót trong các quy định của pháp luật về quản lý chất thải nguy hại. Việc hoàn thiện những quy định về quản lý chất thải nguy hại sẽ góp phần không nhỏ cho công tác bảo vệ môi trường ở nước ta đảm bảo cho sự phát triển bền vững trong thời kỳ phát triển kinh tế.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật môi trường, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2011.
2. Luật bảo vệ môi trường năm 2005.
3. Quy chế quản lý chất thải nguy hại số 155/1999/QĐ9-TTg.
4. Quyết định 23/2006/QĐ-BTNMT ngày 26-12-2006 quy định về việc ban hành  danh mục chất thải nguy hại;
 5.Thông tư 12/2006/TT-BTNMT hướng dẫn về điều kiện hành nghề và thủ tục lập hồ sơ, đăng ký, cấp phép hành nghề, mã số quản lý chất thải nguy hại; 
6. Quy chuẩn Việt Nam 07/2009/BTNMT quy định về quy chuẩn kĩ thuật quốc gia về ngưỡng chất thải nguy hại
7. Website: http://www.vea.gov.vn
http://wwwtnmt.tbtvn.org
http://www.moj.gov.vnn.vn

Nếu muốn download, xin vui lòng điền vào form tại đây và gửi tối thiểu 01 bài tập của 4 kì gần nhất đạt trên 7 điểm và chưa từng đăng tại blog này vào email baitapluat@gmail.com hoặc inbox facebook Diệp Hân Đặng. Những bạn nào không gửi bài tập, mình xin phép không gửi link download tài liệu lại. Cảm ơn đã ghé thăm blog và xin lỗi vì đã làm phiền các bạn!

No comments:

Post a Comment