03/05/2014
Bài tập học kỳ Dân sự 1 - Quy định về tài sản trong Bộ luật dân sự năm 2005
Tài sản là vấn đề trung tâm, cốt lõi của mọi quan hệ xã hội nói chung và quan hệ pháp luật nói riêng. Nói tới tài sản thì ai cũng hình dung ra đó là những của cải, vật chất hữu hình và vô hình của một người nào đó. Nhưng đó chỉ là theo cách nghĩ thông thường mà không có cơ sở pháp lý nào cả. Thực tế cho thấy khái niệm tài sản đã được đề cập từ rất lâu trong thực tiễn cũng như trong khoa học pháp lý. Tài sản trên thực tế tồn tại ở rất nhiều dạng khác nhau vô cùng phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, mỗi loại tài sản lại có những đặc tính khác biệt cần thiết phải có quy chế pháp lý điều chỉnh riêng. Mặc dù vậy nhưng cũng chưa có một văn bản pháp lý nào nêu rõ ràng và đầy đủ khái niệm, đặc điểm, tính chất của tài sản kể cả Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005 vẫn đang còn rất nhiều quan điểm được đưa ra và vẫn chưa đi đến thống nhất. Vì vậy, đề tài mà em chọn là “ Phân tích, bình luận quy định về tài sản trong Bộ luật dân sự năm 2005 ” để phần nào làm rõ hơn vấn đề này, từ đó đưa ra nhưng hướng hoàn thiện chặt chẽ Bộ luật để dễ dàng áp dụng trong thực tiễn.

1. Phân tích, bình luận về khái niệm tài sản theo Điều 163 BLDS

Điều 163 BLDS quy định: “ Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản ”. Đây là cách định nghĩa tài sản mang tính chất liệt kê chứ không mang tính khái quát. Theo quy định này thì tài sản được liệt kê khép kín chỉ tồn tại ở một trong bốn loại: Vật, tiền, giấy tờ có giá hoặc quyền tài sản. So với BLDS năm 1995 Điều 172: “ Tài sản bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản ” thì BLDS năm 2005 đã kế thừa có phát triển do phát sinh nhiều vấn đề trong việc áp dụng.

Khái niệm tài sản theo Bộ luật dân sự 2005 đã mở rộng hơn Bộ luật dân sự 1995 về những đối tượng nào được coi là tài sản, theo đó, không chỉ những “vật có thực” mới được gọi là tài sản mà cả những vật được hình thành trong tương lai cũng được gọi là tài sản. Nhưng cũng chưa có một văn bản pháp lý nào hay những “ người có trách nhiệm ” nào giải thích cho giới luật học hiểu tính đúng đắn và khá quát của những giải nghĩa như vậy. Để xây dựng   được một khái niệm hoàn chỉnh về tài sản thì các nhà làm luật phải đưa ra những quan điểm chứng minh và dưới đây là một số những quan điểm đó.

Quan điểm thứ nhất cho rằng: “ Tài sản là sản nghiệp ” (1) 

Ở đây có thể hiểu sản nghiệp là cơ nghiệp do một người xây dựng nên vì thế nó gắn với mọi quyền và nghĩa vụ của cá nhân đó. Do đó nó mặc nhiên đã công nhận đã là tài sản thì bao giờ cũng phải thuộc về cá nhân, vậy đối với tài sản vô chủ thì khái niệm này chưa hợp lý. Và như vậy, tài sản của cá nhân đó không là hữu hình và tài sản đó cũng không chia được.

Quan điểm thứ hai cho rằng: “ Tài sản là lợi ích ” (2). Lợi ích là cái mà tài sản mang lại chứ không phải tài sản. Một vật không mang lại lợi ích cho ai nhưng cũng vẫn là tài sản ví dụ tài sản vô chủ.

Quan điểm thứ ba là: “ Tài sản là đối tượng của giao dịch dân sự ”. Thoạt  nghe  thì  thấy  quan  điểm  này  cũng  có  lý  vì  bất  kỳ  giao  dịch  dân  sự  nào cũng liên quan tới tài sản. Nhưng đối với những tài sản cấm giao dịch, tài sản hạn chế giao dịch thì lại không phải là đối tượng của giao dịch dân sự vì đã là tài sản cấm rồi thì không thể giao dịch được nữa. Quan điểm này đưa ra cũng chưa thỏa đáng

Quan  điểm  thứ  tư  là:  “  Tài  sản  là  đối  tượng  của  quyền  sở  hữu  ” (3). Theo quan điểm này thì trước hết chúng ta cần phải nêu khái niệm quyền sở hữu là gì rồi mới đến khái niệm tài sản. Trong khi đó quyền sở hữu lại luôn gắn liền với tài sản, như vậy trong khái niệm lại có khái niệm. Chúng ta chưa hiểu khái niệm bên trong là gì thì lại đến khái niệm bên ngoài. Điều đó dẫn tới sự không logic làm cho người hiểu không thể hiểu rõ ràng được vấn đề.

Quan điểm thứ năm cho rằng: “ Tài sản là những gì định giá được ”. Quan điểm trên vẫn còn những điểm chưa hợp lý vì:

Tài sản là những gì định giá được có thể hiểu là tài sản là những gì trị giá được bằng tiền và tiền ở đây chỉ được hiểu là nội tệ vì “ ngoại tệ không được coi là tiền, bởi lẽ ngoại tệ không bao giờ được coi là công cụ thanh toán đa năng – một  tính  năng  quan  trọng  nhất  của  tiền  ” (4).  Như  vậy,  tiền  sẽ  được  định  giá bằng gì? Và nó có được coi là tài sản không?

Nếu cứ những gì định giá được thì được gọi là tài sản, vậy tài sản nợ - nghĩa vụ trả nợ cũng sẽ được xem là tài sản vì nó cũng có thể định giá được (cứ xem  giá  của  nó  là  0  đồng  thì  giá  0  đồng  hoàn  toàn  khác  với  không  định  giá được), trong khi đó, tài sản thì có thể để lại thừa kế được còn nghĩa vụ trả nợ thì không để  lại  thừa  kế  được,  trừ nghĩa  vụ trả  nợ trong  phạm  vi di sản  do người chết để lại.

Trên đây là năm trong số rất nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm tài sản dưới góc độ pháp lý. Tuy nhiên, các quan điểm trên như đã phân tích đều bộc lộ những bất cập và chưa đưa ra được tiêu chí để xác định những gì được gọi là tài sản. Thực tế cho thấy trên thế giới, kể cả đối với các nước phát triển nhưng cách liệt kê trong khái niệm về tài sản trong bộ luật của họ vẫn được áp dụng. Tại đây, người ta thể hiện quan niệm tài sản là các mối quan hệ giữa người với người liên quan tới vật, hơn là nhấn mạnh tới vật có đặc tính vật lý hay vật chất liệu như BLDS 2005.

Tuy nhiên có thể nói đây là cách định nghĩa khai thác vào bản chất của tài sản, nghiêng hơn về giác độ nghiên cứu, có thể có những khó khăn  nhất  định  khi  đưa  vào  văn  bản  quy  phạm  pháp  luật.  Cho  nên  cách  định nghĩa theo kiểu liệt  kê các phân loại tài sản cơ bản thích hợp hơn đối với xây dựng văn bản.

1.1. Vật

Vật là bộ phận của thế giới vật chất, tồn tịa khách quan mà con người có thể cảm giác được bằng các giác quan của mình. Vật chỉ có ý nghĩa khi nó trở thành đối tượng trong quan hệ pháp luật nên nếu bộ phận của thế giới vật mà c on người không thể kiểm soát, chiếm hữu được nó thì cũng đồng nghĩa với việc con người không thể tác động được vào nó. Hơn nữa, là đối tượng trong quan hệ pháp luật nên vật phải đáp ứng được lợi ích của các bên chủ thể trong quan hệ. Như vậy, muốn trở thành vật trong dân sự phải thỏa mãn những điều kiện sau:

- Là bộ phận của thế giới vật chất
- Con người chiếm hữu được, mang lại lợi ích cho chủ thể
- Có thể đang tồn tại hoặc sẽ tồn tại trong tương lai

1.2. Tiền

Tiền theo kinh tế chính trị học là vật ngang giá chung được sử dụng làm thước đo giá trị của các loại tài sản khác. Với việc BLDS 2005 đã bỏ  quy  định tiền thanh toán phải là tiền Việt Nam như quy định tại BLDS năm 1995 thì về mặt pháp lý tiền có thể được hiểu là nội tệ và ngoại tệ. Tuy nhiên, ngoại tệ là loại tài sản hạn chế lưu thông chứ không được lưu hành rộng rãi như tiền Việt Nam.  Nhưng hiện tại chưa có điều luật quy định là tiền là nội tệ và ngoại tệ hoặc ngoại tệ là loại tài sản hạn chế lưu thông?

Có quan điểm cho rằng ngoại tệ không phải là tiền .(5) Dưới góc độ kinh tế thì nội tệ hay ngoại tệ đều là tiền. Cách phân loại tiền thành nội tệ và ngoại tệ hoàn toàn phụ thuộc vào góc độ nhìn nhận của từng quốc gia. Một loại tiền được coi là nội tệ của một quốc gia phát hành và là ngoại tệ đối với các quốc gia khác. Trong pháp luật dân sự thì ngoại tệ không được coi là tiền bởi lẽ ngoại tệ không bao giờ là công cụ thanh toán đa năng – một tính năng quan trọng nhất của tiền. Vậy xếp ngoại tệ vào đâu? Ngoại tệ không được coi là vật vì không thể khai thác công dụng hữu ích từ chính tờ ngoại tệ được. Ngoại tệ không coi là giấy tờ có giá bởi ta không xác định được ai là chủ thể nghĩa vụ trong đó. Suy cho cùng xuất phát từ chính khái niệm hẹp về tài sản mà phát sinh ra một số vấn đề rất thực tế trong cuộc sống chưa giải quyết được triệt để.

1.3. Giấy tờ có giá

Giấy tờ có giá là loại tài sản phổ biến trong giao dịch dân sự hiện nay đặc biệt là giao dịch trong các hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác.

Giấy tờ có giá được hiểu là giấy tờ có trị giá được bằng tiền và chuyển giao được trong giao dịch dân sự. Giấy tờ có giá hiện nay tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau như: séc, cổ phiếu, tín phiếu, trái phiếu, kỳ phiếu, công trái…Khác với tiền chỉ do cơ quan duy nhất là Ngân hàng nhà nước ban hành thì giấy tờ có giá có thể do rất nhiều cơ quan ban hành như Chính phủ, ngân hàng, kho bạc, các công ty cổ phần…

Cần lưu ý là các loại giấy tờ xác nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, giấy đăng kí ô tô, sổ tiết kiệm, sổ đỏ… không phải là giấy tờ có giá. Đó chỉ được coi là vật và thuộc sở hữu của người đứng tên trên giấy tờ đó.

1.4. Quyền tài sản

Quyền tài sản theo định nghĩa tại điều 181 BLDS 2005 là: “ Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ ”. Theo đó thì quyền tài sản trước tiên phải được hiểu là xử sự được phép của chủ thể mang quyền. Quyền ở đây chính là một quyền năng dân sự chủ quan của chủ thể được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Quyền tài sản có rất nhiều nhưng chỉ những quyền tài sản nào có thể trở thành đối tượng trong các giao dịch dân sự thì mới được coi là tài sản tại Điều 163 BLDS 2005. Hiện nay pháp luật nước ta công nhận một số quyền là quyền tài sản là tài sản như: quyền sử dụng đất, quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với tài sản bị xâm  phạm,  quyền  tài  sản  phát  sinh  từ  quyền  tác  giả,  quyền  sở  hữu  công nghiệp, quyền đòi nợ…(Điều 322 BLDS 2005). 

Có ý kiến cho rằng quyền tài sản có thể phân chia thành quyền vô hình  và  quyền  hữu  hình.  Nhưng  theo  phân  tích  quyền  vô  hình  là  những quyền không có đối tượng được nhận biết như là một vật cụ thể mà cũng không  tương  ứng  với  nghĩa  vụ  tài  sản  của  bất  cứ  một  người  nào.  Ví  dụ: quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp. Và đã là quyền tài sản thì đều vô hình dù quyền đó có được tác động đến vật hay không vì bản thân quyền đã được hiểu là những xử sự không thuộc thế giới vật chất và con người không thể cảm nhận được .(6)

2. Tài sản ảo.

Xã hội ngày càng phát triển với sự hội nhập với thế giới, mạng Internet đã  nhanh  chóng  thâm  nhập  vào  nước  ta  trong  những  năm  gần  đây.  Càng  ngày Internet  càng  phổ  biến  rộng  rãi,  là  một  công  cụ  hữu  ích  để  phục  vụ  học  tập, nghiên cứu và giải trí. Nhưng mặt trái của nó là trò chơi trực tuyến game online. Người chơi không chỉ lấy đó làm trò tiêu khiển mà còn coi đó là công cụ để kiếm tiền. Vấn đề phát sinh ra là tài sản trong game (tài sản ảo) có được coi là tài sản không vì hiện nay rất nhiều giao dịch liên quan đến nó với mức độ ngày càng cao và giá trị ngày càng lớn. Các nhà cung cấp trò chơi thì cho rằng đã gọi là tài sản thì không thể ảo? Đấy là lý lẽ của những người thực sự có quyền chiếm hữu đối với tài sản ảo còn đối với những người chơi thì họ chỉ có quyền sử dụng tài sản đó. Theo ý kiến của những người chơi thì tài sản ảo cũng là tài sản dựa trên những yếu tố: công sức của người chơi, tính ổn định, phổ biến của game và sự quý hiếm của món đồ. Trong đó, công sức của người chơi được tính bằng chi phí thời gian và tiền bạc bỏ ra để có được một nhân vật có cấp độ cao, lên điểm. Tiền trả cho cửa hàng Internet, trả cho nhà cung cấp game là tiền thật. Vậy những gì thu được từ số tiền thật đó không hoàn toàn ảo. Nhưng nếu chỉ căn cứ trên những quy định hiện hành của luật pháp và bó hẹp trong phạm vi trò chơi thì không thể giải quyết vấn đề này. Theo đó, nếu căn cứ về tài sản theo điều 163 của Bộ luật Dân sự thì tài sản ảo không nằm trong phạm vi điều chỉnh vì không phải là giấy tờ  có  giá,  không  phải  tài  sản  hữu  hình  hay  vô  hình.  Nếu  coi  tài  sản  ảo  là  một quyền tài sản theo điều 181 Bộ luật Dân sự thì người chơi không có được quyền sở  hữu  hoàn  chỉnh.  Nếu  phân  tích  quyền  sở  hữu  bao  gồm  quyền  chiếm  hữu, quyền định đoạt và quyền sử dụng. Trong đó, quyền chiếm hữu không thuộc về người chơi vì những tài sản ảo đều nằm trên máy chủ của nhà cung cấp game. Quyền định đoạt cũng không có vì tuổi thọ của phần mềm trò chơi thuộc về nhà sản xuất và nhà cung cấp, dựa trên hợp đồng bản quyền cung cấp trò chơi ký kết giữa hai bên. Trong ba quyền cấu thành nên quyền sở hữu, chỉ có quyền sử dụng thuộc  về  người  chơi  và  vì  thế  không  thể  coi  tài  sản  ảo  thuộc  sở  hữu  của  họ. Ngoài vấn đề về quyền sở hữu, việc công nhận tài sản ảo còn gặp trở ngại về mặt pháp lý trong giao dịch. Theo quy định về giao dịch tài sản tại điều 112 Bộ luật Dân  sự  2005,  người  tham  gia  giao  dịch  phải  trên  18  tuổi.  Trên  thực  tế,  nhiều người chơi chưa đạt được điều kiện trên nhưng vẫn tiến hành mua bán, trao đổi các đồ vật, nhân vật trong game một cách thoải mái. Trong khi chưa có một hành lang pháp lý cụ thể, đại diện các cơ quan nhà nước nêu rõ người chơi phải tự bảo vệ tài sản của mình. Mọi biện pháp của pháp luật chỉ mang tính tương đối và là cách cuối cùng để giải quyết xung đột.

Có thể hiểu tài sản là một khái niệm động và phụ thuộc vào giá trị kinh tế  của  nó  bởi  tài  sản  là  công  cụ  của  đời  sống  con  người.  Trong  mỗi  giai  đoạn phát triển khác nhau của xã hội loài người, tài sản có một phạm vi khác nhau, nhưng đều là công cụ đáp ứng các nhu cầu sống của con người. Vì vậy nó được nhận thức không mấy khác nhau ở các hệ thống pháp luật bởi con người rất nhạy bén với sự đáp ứng nhu cầu của mình. Tuy nhiên, người ta chỉ có thể nhận thức đầy đủ về nó qua phân loại tài sản.

3. Phân tích, bình luận về phân loại tài sản theo các điều từ Điều 174 đến Điều 180.

3.1. Bất động sản và động sản.

Cách phân loại tài sản thành động sản và bất động sản là cách phân loại chủ yếu dựa vào đặc tính vật lý của tài sản là có thể di dời được hay không thể di dời được. Cách phân loại này là tiêu chí mà hầu hết pháp luật của các nước trên thế giới đều sử dụng bởi việc xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến hai loại tài  sản này rất khác nhau cần phải có quy phạm điều chỉnh riêng đối với từng loại. Theo điều 174 BLDS thì bất động sản đã được liệt kê bao gồm: “ Đất đai, nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng trước đó, các tài sản khác gắn liền với đất đai, các tài sản khác do pháp luật quy định ”. Còn động sản theo phương pháp loại trừ là những tài sản không phải bất động sản. Ở đây pháp luật đã liệt kê mở chứ không khép kín như Điều 163 nhưng cách liệt kê đó cũng chưa rõ ràng. “ Các tài sản khác do pháp luật quy định ” đó là những tài sản nào? Có phải tài sản nào là bất động sản cũng phải gắn liền với đất không? Ví dụ quyền sử dụng đất là bất động sản (theo Điều 6 Luật kinh doanh bất động sản) là tài sản khác gắn liền với đất. Sử dụng phương pháp liệt kê diễn tả một điều luật bao giờ cũng có những mặt hạn chế vì liệt kê tức là đã đi vào cụ thể, không còn mang tính chất khái quát nữa nhưng càng liệt kê lại càng thấy không đủ, hơn nữa lại không có văn bản hướng dẫn cụ thể. Mặc dù đã có luật kinh doanh bất động sản nhưng ngay cả danh mục các loại bất động sản cũng có quy định “ Các loại bất động sản khác theo quy định của pháp luật ”. Như vậy không thể áp dụng luật bất kì trường hợp cụ thể nào.Ví dụ: Bộ dân luật của Pháp quy định hoa trái khi còn ở trên cây hay ở trong đất thì đó là bất động sản nhưng khi trảy xuống và mang đi thì nó lại là động sản. Ngay cả hạt giống hay máy móc nông cụ cũng được coi là bất động sản. Bộ luật quy định chi tiết đến như vậy nên việc áp dụng vào thực tiễn là rất dễ dàng trong BLDS Việt Nam thì chưa làm được điều này. Vì việc phân loại động sản và bất động sản có rất nhiều ý nghĩa nhưng nếu không phân loại được đâu là động sản đâu là bất động sản thì sẽ chẳng có ý nghĩa gì cả. Có thể liệt kê một số ý nghĩa sau:

- Xác lập thủ tục đăng kí đối với tài sản quy định tại Điều 167.
- Xác lập thời điểm chuyển giao quyền sở hữu đối với tài sản theo Điều 168.
- Xác định được quyền năng của chủ thể quyền đối với từng loại tài sản nhất định- Xác định địa điểm thực hiện nghĩa vụ đối với các giao dịch có đối tượng là bất động sản trong trường hợp các bên không có thỏa thuận quy định tại Điều 284.
- Xác định căn cứ xác lập quyền sở hữu: ví dụ vật vô chủ, vật không xác định được ai là chủ sở hữu là động sản thì sẽ thuộc về người phát hiện còn nếu vật là bất động sản sẽ thuộc sở hữu nhà nước (Điều 239 BLDS). Hoặc theo điều 247 một người chiếm hữu, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản và 30 năm đối với  bất  động  sản  thì  trở  thành  chủ  sở  hữu  tài  sản  đó  kể  từ  thời  điểm  bắt  đầu chiếm hữu.
- Xác định hình thức của hợp đồng theo điều 467 thì hợp đồng tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng kí theo quy định của pháp luật bất động sản phải đăng kí quyền sở hữu.     - Là căn cứ để xác định thời hạn, thời hiệu và các thủ tục khác.- Xác định phương thức kiện dân sự.
- Xác định tòa án có thẩm quyền giái quyết tranh chấp dân sự là tòa án nơi có bất động sản đó (theo điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự).

3.2. Hoa lợi, tức lợi

Theo điều 175 BLDS: “ Hoa lợi là sản vật tự nhiên mà tài sản mang lại”

Ví dụ như con bê do con bò đẻ ra, hoa quả thu hoạch từ cây cối… “ Lợi tức là các khoản lợi thu được từ việc khai thác tài sản ”. Ví dụ như tiền lãi, tiền thuê nhà…Như vậy, cả hoa lợi và lợi tức đều là những tài sản sinh ra từ việc khai thác , sử dụng tài sản gốc. Mặc dù điều luật này đã quy định rõ như vậy nhưng cũng cần lưu ý một số điểm sau:

- Không phải bao giờ tài sản gốc vẫn là tài sản gốc, hoa lợi, lợi tức sinh ra vẫn là hoa lợi, lợi tức. Vì tài sản có thể trở thành tài sản gốc đối với tài sản này nhưng lại là hoa lợi hay lợi tức của tài sản khác. Ví dụ con dê là hoa lợi được sinh ra từ con dê mẹ nhưng lại là tài sản gốc khi nó sinh ra con dê con.

- Chỉ khi tài sản được tách khỏi tài sản gốc thì nó mới được coi là hoa lợi, lợi tức của tài sản đó còn nó vẫn gắn liền với tài sản đó thì nó là một bộ phận không thể tách rời của tài sản. Ví dụ quả vẫn ở trên cây, con bê vẫn nằm trong bụng con bò.

- Phân biệt sản phẩm với hoa lợi, lợi tức. Ví dụ cây sống trên đất thì cây thu hoạch là sản phẩm còn hoa quả thu hoạch mới được coi là hoa lợi.

Việc phân loại tài sản thành tài sản gốc, hoa lợi và lợi tức có ý nghĩa trong việc xác định chủ sở hữu của tài sản. Ví dụ khi quả rời cành thì sẽ xác định ai là chủ sở hữu đầu tiên của nó. Nếu ai hái quả trên cây tức là gây thiệt hại cho tài sản của chủ sở hữu và phải bồi thường. Còn ai nhặt quả ở dưới gốc cây thì đó là chiếm hữu bất hợp pháp và phải trả lại tài sản. Vì như trên đã xác định quả rời cành là tài sản của chủ sở hữu còn quả ở trên cây là một bộ phận không thể tách rời  với  cái  cây.  Ngoài  ra  việc  phân  loại  như  vậy  còn  xác  định  trong  một  số trường hợp người chiếm hữu tài sản gốc chỉ được hưởng hoa lợi sinh ra từ tài sản mà  không  được  khai  thác  công  dụng  của  tài  sản  để  thu  lợi  tức.  Ví  dụ  trong trường hợp chiếm hữu hợp pháp gia súc, gia cầm thất lạc thì người chiếm hữu được hưởng một nửa số gia súc hoặc toàn bộ số gia cầm được sinh ra (Điều 242, 243 BLDS)

3.3. Vật chính và vật phụ.

Theo Điều 176 BLDS: “ Vật chính là vật độc lập, có thể khai thác công dụng theo tính năng. Vật phụ là vật trực tiêp phục vụ cho việc khai thác công dụng  của  vật  chính,  là  một  bộ  phận  của  vật  chính,  nhưng  có  thể  tách  rời  vật chính. Khi thực hiện nghĩa vụ chuyển giao vật chính thì phải chuyển giao cả vật phụ, trừ trường hợp có thỏa thuận khác ”. Cách phân loại này là dựa vào mối liên hệ, phụ thuộc về công dụng của vật đối với nhau. Ví dụ vật chính như là tivi, điều  hòa,  máy  tính…còn  vật  phụ  là  điều  khiển  tivi,  điều  khiển  điều  hòa…Tuy nhiên nếu lấy ví dụ cái kính là vật chính còn mắt kính là vật phụ thì điều này là không đúng bởi không có mối tương quan nào giữa chúng. Cái kính thì phải có mắt  kính  thì  mới  hoàn  chỉnh,  nếu  thiếu  bất  kì  một  chiếc  mắt  kính  nào  cũng không gọi là cái kính. Vì thế cái kính không được xếp vào là vật chính hay vật phụ. Một ví dụ khác là chiếc ô tô. Nếu coi chiếc ô tô là vật chính thì chiếc bánh xe là vật phụ. Điều chú ý ở đây là chiếc bánh xe nào, nếu là một trong bốn chiếc bánh là cấu tạo của ô tô thì không thể coi đấy là vật phụ được mà vật phụ ở đây là chiếc bánh xe dự phòng. 

Việc phân loại tài sản thành vật chính và vật phụ có ý nghĩa trong việc xác định đúng nghĩa vụ giao vật. Bởi vật phụ được tạo ra là để phục vụ cho việc khai thác công dụng của vật chính và luôn đi kèm vật chính nên khi bên có nghĩa vụ thực  hiện  nghĩa  vụ  chuyển  giao  vật  chính  thì  phải  chuyển  giao  cả  vật  phụ,  trừ trường hợp có thỏa thuận. Ngoài ra còn có ý nghĩa trong việc xác định căn cứ xác lập quyền sở hữu trong trường hợp sát nhập tài sản (Điều 236).

3.4. Vật chia được và vật không chia được.

Theo Điều 177 BLDS: “ Vật chia được là vật khi bị phân chia vẫn giữ nguyên tính chất và tính năng sử dụng ban đầu. Vật không chia được là vật khi bị phân chia thì không giữ nguyên được tính chất và tính năng sử dụng ban đầu. Khi cần phân chia vật không chia được thì phải trị giá thành tiền để chia ”. Việc phân loại này dựa vào việc xác định giá trị sử dụng của vật khi được chia ra thành nhiều phần nhỏ. Vật chia được ví dụ như gạo, ngô, dầu, vải…Vật không chia  được  như  ô  tô,  máy  tính,  đồng  hồ…Vậy  nhà  có  chia  được  không?  Trong dân sự chúng ta gặp rất nhiều về việc chia thừa kế liên quan đến nhà ở. Nếu là nhà ở 1 tầng hoặc nhà có diện tích quá hẹp (< 9m2) thì không thể chia được vì khi chia như thế nó sẽ không giữ được nguyên tính chất và tính năng sử dụng như ban đầu. Còn nếu là nhà cao tầng, nhà chung cư thì vẫn chia được bởi nó đã được ngăn cách với nhau để đảm bảo có tính năng sử dụng như nhau.

Điều đó dẫn tới khi cần phân chia những tài sản đó chúng ta phải đặt câu hỏi là có cần bán đi và tính thành tiền để chia hay không? Theo Điều 300 và 301 BLDS quy định về việc thực hiện nghĩa vụ dân sự phân chia được theo phần và không phân chia được theo phần. Vậy nếu đối tượng của nghĩa vụ không phải là vật mà là các tài sản khác thì trong trường hợp này có được xem xét là nghĩa vụ dân sự phân chia được theo phần không? Nếu câu trả lời là không thì nghĩa vụ dân sự không phân chia được theo phần và nếu có nhiều chủ thể nghĩa vụ thì các chủ thể đó phải thực hiện nghĩa vụ cùng một lúc hay không? Việc BLDS định nghĩa cả hai loại nghĩa vụ này và không dùng phương pháp loại trừ dẫn đến có loại  nghĩa  vụ  không  thể  xếp  vào  loại  này  hay  loại  kia.  Điều  này  dẫn  đến  sự không thuận lợi cho các chủ thể nếu nghĩa vụ ở đây là nghĩa vụ trả tiền hay giấy tờ có giá. Vì vậy, BLDS phải xem xét lại cách phân chia này. Tài sản chia được là những vật khi chia thành nhiều phần nhỏ và giữ nguyên được hình dạng, tính năng  sử  dụng  ban  đầu  hoặc  là  những  tài  sản  khác  mà  cần  chia  thì  có  thể  chia được bằng chính tài sản đó mà không cần trị giá thành tiền để chia.

3.5. Vật tiêu hao và vật không tiêu hao

Theo Điều 178 BLDS quy định: “ Vật tiêu hao là vật khi đã qua một lần sử dụng thì mất đi hoặc không giữ được tính chất, hình dáng, tính năng sử dụng như ban đầu. Vật tiêu hao không thể là đối tượng của hợp đồng cho thuê hoặc hợp đồng cho mượn. Vật không tiêu hao là vật khi đã qua sử dụng nhiều lần mà cơ bản vẫn giữ được tính chất, hình dáng và tính năng sử dụng ban đầu ”.Cách phân loại này dựa vào đặc tính, giá trị của tài sản sau khi sử dụng. Vật tiêu hao ví dụ như: phấn, đường, sữa, gạo…Vật không tiêu hao như: xe máy, nhà cửa, điện thoại…Những vật tiêu hao không thể là đối tượng của hợp đồng cho thuê hoặc cho mượn bởi lẽ đây là những hợp đồng chuyển quyền sử dụng đối với tài sản trong một thời gian nhất định và khi hết thời hạn thì bên thuê, bên mượn phải trả lại tài sản đúng ở trạng thái ban đầu. Nếu tài sản là vật tiêu hao thì bên thuê hoặc bên mượn sẽ không thể thực hiện nghĩa vụ trả lại tài sản đó nguyên vẹn như ban đầu. Như vậy việc phân loại nào là căn cứ xác định những tài sản nào là đối tượng của giao dịch dân sự, những tài sản nào không từ đó tránh được những hậu quả thiệt hại về tài sản.

3.6. Vật cùng loại và vật đặc định

Theo Điều 179 BLDS: “ Vật cùng loại là những vật có cùng hình dáng, tính chất, tính năng sử dụng và xác định được bằng những đơn vị đo lường. Vật cùng loại có cùng chất lượng có thể thay thế cho nhau. Vật đặc định là vật phân biệt  được  với  các  vật  khác  bằng  những  đặc  điểm  riêng  về  ký  hiệu,  hinh  dáng, màu sắc, chất liệu, đặc tính, vị trí. Khi thực hiện nghiã vụ chuyển giao vật đặc định thì phải giao đúng vật đó ”.   Dựa vào các dấu hiệu phân biệt của vật mà người ta phân loại vật thành vật cùng loại và vật đặc định. Vật cùng loại ví dụ như:  mắm,  muối,  đường…Vật  đặc  định  bao  gồm  hai  loại  là  vật  đặc  định  độc nhất và vật được đặc định hóa. Vật đặc định độc nhất là vật chỉ tồn tại duy nhất có một cái mà không có cái thứ hai ví dụ Tháp Rùa, chùa Một Cột, Lăng Bác…Vật được đặc định hóa là vật mà trước đó là vật cùng loại nhưng con người đã đánh dấu bằng các kí hiệu riêng để phân biệt với các vật cùng loại khác ví dụ nhà chung cư được đánh số, xe máy, ô tô gắn biển số….Việc phân chia này có ý nghĩa: đối với vật đặc định, khi bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ chuyển giao  vật  thì  phải  giao  đúng  vật  đó,  nếu  giao  khác  mặc  dù  đúng  số  lượng,  chất lượng nhưng vẫn bị coi là vi phạm nghĩa vụ và phải chịu trách nhiệm dân sự.

3.7. Vật đồng bộ

“ Vật đồng bộ là vật gồm các phần hoặc các bộ phận ăn khớp, liên hệ với nhau hợp thành chỉnh thể mà nếu thiếu một trong các phần, các bộ phận hoặc có phần  hoặc  bộ  phận  không  đúng  quy  cách,  chủng  loại  thì  không  sử  dụng  được hoặc giá trị sử dụng của vật đó bị giảm sút. Khi thực hiện nghĩa vụ chuyển giao vật đồng bộ thì phải chuyển giao toàn bộ các phàn hoặc các bộ phận hợp thành, trừ trường hợp có thỏa thuận khác ” (Điều 180 BLDS). Vật đồng bộ thường được  thể  hiện  tên  gọi  dưới  dạng  bộ,  đôi,  hoặc  cặp  ví  dụ  như:  đôi  giày,  đôi khuyên tai, đôi tất…Cần lưu ý là chỉ cần xem xét là đồng bộ hay không đồng bộ khi vật bao gồm tập hợp các vật đơn chiếc tạo thành còn nếu vật tồn tại ở dạng đơn chiếc, độc lập thì cách xem xét đó sẽ không còn ý nghĩa.

Trên đây là bảy cách phân chia tài sản theo BLDS năm 2005, ngoài ra còn có một số cách phân chia khác nữa. Ví dụ: tài sản có đăng kí quyền sở hữu với tài sản không đăng kí quyền sở hữu, tài sản cấm lưu thông, hạn chế lưu thông và tự do lưu thông, tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai (7) , tài sản vô hình và hữu hình, tài sản vô chủ và tài sản không xác định được chủ sở hữu.

Căn cứ vào giá trị của tài sản, vai trò và ý nghĩa của tài sản đối với chính trị, an ninh, quốc phòng, quản lí nhà nước mà pháp luật mà pháp luật có quy định về việc đăng kí quyền sở hữu đối với một số tài sản nhất định. Tài sản có đăng kí quyền sở hữu là tài sản mà pháp luật bắt buộc phải đăng kí, nếu không đăng kí sẽ không được công nhận quyền sở hữu đối với tài sản đó ví dụ như nhà, xe máy, ô tô… Ý nghĩa của việc phân loại này là để xác định phương thức kiện dân sự, xác định hình thức của hợp đồng, xác định thời điểm phát sinh, chuyển giao quyền sở hữu.

Căn cứ vào chế độ pháp lý đối với tài sản phân chia thành tài sản cầm lưu thông, hạn chế lưu thông và tự do lưu thông. Tài sản cấm lưu thông là tài sản mà vì lợi ích của nó đối với nền kinh tế quốc dân, quốc phòng an ninh, lợi ích quốc gia  mà  nhà  nước  cấm  giao  dịch  như  vũ  khí  quân  dụng,  ma  túy,  động  vật  quý hiếm,  chất  phóng  xạ.  Tài  sản  cấm  lưu  thồn  không  thể  trở  thành  đối  tượng  của giao dịch dân sự. Chình ví vậy nếu các bên vẫn xác lập những giao dịch này thì giao dịch đó sẽ là giao dịch vô hiệu tuyệt đối do có nội dung vi phạm ddieuf cấm của pháp luật. Theo đó tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được sẽ bị tịch thu và sung quỹ nhà nước. Tài sản hạn chế lưu thông là tài sản khi dịch chuyển trong giao dịch dân sự nhất thiết phải tuân theo những quy định riêng của pháp luật ví dụ như vũ khí thể thao, ngoại tệ với số lượng lớn…

Tài sản vô chủ là tài sản mà chủ sở hữu đã từ bỏ bằng quyền sở hữu (đã tuyên bố từ bỏ, chủ sở hữu đã thực hiện hành vi chứng tỏ là đã từ bỏ quyền sở hữu). Nếu đã xác định được tài sản vô chủ thì người có được tài sản đó chính là chủ sở hữu. Còn tài sản không xác định được chủ sở hữu là tài sản có chủ nhưng không xác định được. Do vậy, người có được tài sản đó không được phép sở hữu mà phải tìm lại chủ của tài sản để trả. Đối với tài sản khác nhau sẽ có nhưng thời hiệu khác nhau do pháp luật quy định.

Cần phân biệt tài sản hữu hình và tài sản vô hình với tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai. Tài sản hữu hình là tài sản có thể cảm nhận được bằng các giác quan của con người ví dụ tivi, đèn, quạt… Tài sản hiện có là tài sản đã tồn tại vào thời điểm hiện tại và đã xác định quyền sở hữu cho chủ sở hữu của tài sản đó. Ví dụ: nhà đã được xây, xe máy đã đăng kí…Trong khi tài sản hữu  hình  thì  không  cần  phải  xác  định  chủ  sở  hữu.  Tài  sản  vô  hình  là  tài  sản không cảm nhận được bằng các giác quan của con người và nó đang tồn tại ví dụ như các quyền tài sản. Còn tài sản hình thành trong tương lai được hiểu là tài sản chưa tồn tại nhưng chắc chắn nó sẽ được hình thành trong tương lai ví dụ tiền lương sẽ được hưởng, nhà đang được xây, hoa trái trên cây sắp đến mùa…khi những tài sản đó hình thành thì nó đều là tài sản hữu hình.

Nhận xét:

Gắn trực tiếp với Điều 163, có một số điều luật thể hiện rõ quan niệm của nhà làm luật về tài sản, như Điều 174, Điều 175, Điều 176,. Điều 180 của BLDS 2005. Qua giải nghĩa khái niệm tài sản tại Điều 163 và các điều luật này của BLDS 2005, có thể rút ra mấy nhận xét sơ bộ như sau:

Thứ nhất, giải nghĩa được đưa ra theo kiểu liệt kê các loại tài sản, chứ không xác định phạm vi dứt khoát của tài sản.

Thứ hai, các quy định tiếp đó tại “ Chương XI- Phân loại tài sản ” (các Điều  từ  174  đến  180 )  diễn  giải  cụ  thể  các  loại  tài  sản  được  nêu  ra  trong  giải nghĩa này không đề cập gì tới tiền và giấy tờ có giá trong khi tiền và giấy tờ có giá là hai trong bốn ý được liệt kê trong khái niệm tài sản.

Thứ ba, Điều 173, Điều 181 và toàn bộ các quy định của BLDS 2005 không diễn giải một cách có thể hiểu được phạm vi của quyền tài sản một cách cụ thể nhất.

Thứ tư, quyền sở hữu được quy định dường như tách biệt với tài sản tại Điều  164  và  Điều  174,  BLDS  2005,  có  nghĩa  là  khái  niệm  tài  sản  dường  như không bao trùm quyền sở hữu, trong khi vẫn quy định các vấn đề chuyển dịch tài sản gắn với quyền sở hữu tại rất nhiều các quy định.

4.  Định hướng cải cách các quy định về tài sản và phân loại tài sản trong Bộ luật dân sự năm 2005

Thứ nhất, cần xây dựng lại một khái niệm hoàn chỉnh về tài sản để khái niệm  đó  trở  thành  chuẩn  mực  để  dễ  dàng  áp  dụng  trong  thực  tiễn.  Có  thể  xác định bằng cách liệt kê nhưng phải đầy đủ và chặt chẽ phạm vi của tài sản, trong trường hợp quá nhiều khi đưa vào bộ luật thì có thể ban hành các văn bản hướng dẫn để bổ sung. Trong trường hợp xuất hiện các loại tài sản mới phát sinh cần đưa ra để thảo luận, bàn bạc, xem xét xem có được coi là tài sản theo Bộ luật dân sự hay không, nếu có hoặc không thì phải đưa ra các văn bản để công nhận tránh tình trạng giao dịch đã mang tính chất càng ngày càng tăng về số lượng mà các cơ quan thì vẫn chưa giải quyết nhất là đối với tài sản ảo.

Thứ hai, việc phân loại tài sản theo các điều khoản quy định trong Bộ luật chưa đầy đủ. Mặc dù có cả một chương quy định về việc phân loại tài sản nhưng lại không có một điều luật nào quy định về tiền và giấy tờ có giá trong khi đây là hai loại tài sản quan trọng và luôn xuất hiện trong đời sống hàng ngày. Do vậy, cần phải có những quy định cụ thể hơn về tiền và giấy tờ có giá như ngoại tệ có phải là tiền không, giấy tờ có giá là những loại giấy tờ như thế nào? Ngay cả luật cũng chưa rõ ràng thì sao có thể chứng minh được khi có vấn đề phát sinh và điều này dễ dàng làm cho kẻ gian lợi dụng lỗ hổng của luật.

KẾT LUẬN

Việc phân tích các quy định về tài sản trong Bộ luật dân sự năm 2005 cho thấy những sự hợp lý và chưa hợp lý của các nhà làm luật. Để luật có thể làm công cụ để giải quyết những tranh chấp thì cần phải sửa đổi, bổ sung sao cho phù hợp với thực tiễn. Luật dân sự là cội nguồn của các loại luật trong đó tài sản lại là cốt lõi do vậy những quy định liên quan đến tài sản là rất quan trọng vì nó tác động trực tiếp tới cuộc sống của chúng ta. Do vậy, những nhà làm luật cần chung tay xây dựng để hoàn thiện hơn Bộ luật dân sự Việt Nam – một bộ luật rất quan trọng trong hệ thống pháp luật.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005.
2. Giáo trình Luật dân sự Việt Nam tập I – Trường đại học Luật Hà Nội – NXB Công an nhân dân.
3. Giáo trình luật dân sự Việt Nam tập I – TS.Lê Đình Nghị - NXB Giáo dục Việt Nam.
4. Bùi Đăng Hiếu “ Tiền – một loại tài sản trong quan hệ pháp luật dân sự ” – Tạp chí luật học số 1/2005 tr 37-41.
5. Nguyễn Minh Oanh “ Các loại tài sản trong luật dân sự Việt Nam ” – Tạp chí luật học số 1/2009.
6. Những bất cập về khái niệm tài sản, phân loại tài sản của bộ luật dân sự và định hướng cải cách – TS.Ngô Huy Cương – Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội – thongtinphapluatdansu.wordpress.com.
7. Cần  xây  dựng  lại  khái  niệm  “  Quyền  tài  sản  ”  trong  luật  dân  sự  - TS.Nguyễn  Ngọc  Điện  –  Khoa  luật  Đại  học  Cần  Thơ – thongtinphapluatdansu.wordpress.com.
8. Vấn  đề  tài  sản  ảo  phải  đặt  trong  thực  tế  cuộc  sống  –  Hạ  Thảo – thongtinphapluatdansu.wordpress.com

____________

(1) Nguyễn Ngọc Điện, Nghiên cứu về tài sản trong luật dân sự Việt Nam, NXB Trẻ TPHCM ,1999
(2) Từ điển Luật học.
(3) Giáo trình Luật dân sự Việt Nam tập I, Trường ĐH Luật HN, NXB CAND, năm 2007.
(4) Bùi Đăng Hiếu “Tiền – Một loại tài sản trong QHPL dân sự”, Tạp chí luật học số 1/2005
(5) Bùi Đăng Hiếu “Tiền – Một loại tài sản trong QHPL dân sự”, Tạp chí luật học số 1/2005
(6) Nguyễn Minh Oanh “Các loại tài sản trong luật dân sự Việt Nam”, Tạp chí luật học số 1/2009.
(7) TS.Lê Đình Nghị, Giáo trình luật dân sự Việt Nam tập I, NXB Giáo dục, 2009

No comments:

Post a Comment