Câu hỏi 12: Chủ quyền quốc gia trên biển giảm dần từ đất liền ra hướng biển như thế nào?
Trả lời:
Việt Nam có chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối với Nội thủy (như trên đất liền), hoàn toàn và đầy đủ đối với Lãnh hải (trừ quyền tự do hàng hải không gây hại của tàu thuyền các nước). Tại vùng tiếp giáp, Việt Nam chỉ có thẩm quyền kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật liên quan đến hải quan, thuế khóa, nhập cư và vệ sinh dịch tễ. Tại vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam có quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia với một số hoạt động nhất định, trong đó có đặc quyền thăm dò, khai thác, bảo tồn và quản lý tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật, nghiên cứu khoa học, lắp đặt các công trình nhân tạo,... cũng như những hoạt động khác vì mục đích kinh tế, nguồn lợi của biển. Trên Thềm lục địa Việt Namcó quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và độc quyền khai thác tài nguyên sinh vật thuộc đáy biển, khoáng sản thuộc lòng đất dưới đáy biển./.
Trả lời:
Việt Nam có chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối với Nội thủy (như trên đất liền), hoàn toàn và đầy đủ đối với Lãnh hải (trừ quyền tự do hàng hải không gây hại của tàu thuyền các nước). Tại vùng tiếp giáp, Việt Nam chỉ có thẩm quyền kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật liên quan đến hải quan, thuế khóa, nhập cư và vệ sinh dịch tễ. Tại vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam có quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia với một số hoạt động nhất định, trong đó có đặc quyền thăm dò, khai thác, bảo tồn và quản lý tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật, nghiên cứu khoa học, lắp đặt các công trình nhân tạo,... cũng như những hoạt động khác vì mục đích kinh tế, nguồn lợi của biển. Trên Thềm lục địa Việt Namcó quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và độc quyền khai thác tài nguyên sinh vật thuộc đáy biển, khoáng sản thuộc lòng đất dưới đáy biển./.
Câu hỏi 13: Quốc gia quần đảo là gì? Có những quốc gia quần đảo nào ở khu vực Biển Đông và ảnh hưởng đến lợi ích biển của Việt Nam như thế nào?
Trả lời:
Quốc gia quần đảo được định nghĩa tại Điều 46 của Công ước 1982 là một quốc gia hoàn toàn được cấu thành bởi một hay nhiều đảo, trong đó các đảo có liên quan chặt chẽ với nhau tạo thành một thể thống nhất về địa lý, kinh tế và chính trị.
Trong khu vực Biển Đông có hai quốc gia quần đảo là Philippine và Indonesia, được cấu thành bởi hàng nghìn hòn đảo lớn nhỏ, cả Philippine và Indonesia nhờ đó có quyền sử dụng một không gian biển rộng lớn hơn nhiều so với các nước ven bờ lục dịa, gồm cả vùng nước bên trong các nhóm đảo bao bọc và các vùng biển và thềm lục địa trả rộng ra xung quanh các quốc gia này.
Câu hỏi 14: Hệ thống pháp luật về biển của Việt Nam gồm những nội dung và lĩnh vực gì?
Trả lời:
Hệ thống pháp luật về biển của Việt Nam có thể được phân loại theo các lĩnh vực sau:
- Pháp luật về bảo vệ chủ quyền và an ninh trên biển (Ví dụ: Tuyên bố ngày 12/5/1977 của Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam về lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục dịa Việt Nam; Luật Biên giới quốc gia – 2003...).
- Pháp luật về khai thác tài nguyên thiên nhiên trên biển (Luật Thủy sản, Luật Dầu khí. . .).
- Pháp luật về nghiên cứu khoa học biển (Nghị định 242 HĐBT/ ngày 5/8/1991...)
- Pháp luật về du lịch biển, đảo Việt Nam(Luật Du lịch...)
- Pháp luật về giao thông, vận tải biển (Bộ Luật Hàng hải...)
- Pháp luật về đảm bảo trật tự, an toàn trên biển (Pháp lệnh lực lượng cảnh sát biển...)
- Pháp luật về bảo vệ môi trường biển (Luật Bảo vệ môi trường – 2005...)
Câu hỏi 15: Cách thức giải quyết hòa bình các tranh chấp trên biển được thực hiện như thế nào?
Trả lời:
Trong lịch sử, hầu hết các tranh chấp đều được giải quyết bằng con đường vũ lực. Một số nước lớn trước đây thường xuyên lấn lướt các nước nhỏ, đe dọa sử dụng vũ lực và sử dụng quân sự để gây chiến tranh giải quyết tranh chấp. Ngày nay, nguyên tắc giải quyết hòa bình các tranh chấp đã trở thành nguyên tắc cơ bản, được ghi nhận tại Hiến chương của Liên Hợp Quốc và các văn bản pháp lý khác nhau.
Theo qui định của Công ước 1982, các tranh chấp được giải quyết trước hết theo nguyên tắc thỏa thuận. Các nước tranh chấp tiến hành đàm phán với nhau song phương hoặc đa phương để giải quyết các bất đồng. Khi không thể đàm phán
hoặc đàm phán không có kết quả, các bên có thể đệ đơn ra các cơ quan tài phán quốc tế theo một trình tự cụ thể. Việc giải quyết tranh chấp được qui định cụ thể tại phần 15 của Công ước 1982.
Thực tiễn quốc tế cho thấy, các quốc gia tranh chấp có thể sử đụng biện pháp hợp tác cùng phát triển ở khu vực tranh chấp trong khi chờ đợi tìm ra giải pháp cho tranh chấp mà không gây ảnh hưởng tới quan điểm của các bên, giải pháp tạm thời này hoàn toàn phù hợp với Công ước 1982 và đang là một xu thế ở một số khu vực trên thế giới.
Câu hỏi 16: Việt Nam tiếp giáp với những biển và đại dương nào?
Trả lời:
Khác với hầu hết các quốc gia trong khu vực, Việt Namtiếp giáp duy nhất với Biển Đông. Hơn 3260 km chiều dài lục địa phía Đông Việt Namtiếp giáp với biển. Biển Đông, một trong sáu biển lớn nhất thế giới có diện tích vào khoảng 3.447.000km2. Đây là một biển nửa kín thông với Thái Bình Dương và ấn Độ Dương qua các eo biển. Trên Biển Đông có những tuyến đường giao thông hàng hải và hàng không quan trọng vào bậc nhất thế giới nối ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, nối châu Âu, Trung Cận Đông với khu vực Đông Bắc và Đông Nam của Châu Á.
Trên biển, Việt Namtiếp giáp với hai vịnh lớn:
Vịnh Bắc Bộ: nằm ở phía Tây Biển Đông, được bờ biển của Việt Nam và Trung Quốc bao bọc. Diện tích của vịnh vào khoảng 126.250km2, chiều ngang, nơi rộng nhất khoảng 310 km và nơi hẹp nhất khoảng 220 km. Đây là một vịnh nông, nơi sâu nhất chỉ độ 100m.
Vịnh Thái Lan: nằm ở Tây Nambiển Đông, được bờ biển của các nước Việt Nam,Malaysia, Campuchia, Thái Lan bao bọc. Diện tích của vịnh là khoảng 293.000 km2, nơi sâu nhất là 80 m.
Ngoài Việt Nam, Biển Đông được bao bọc bởi các nước Trung Quốc (gồm cả Đài Loan), Philippine, Inđonesia, Brunei,Malaysia, Singapore, Thái Lan và Campuchia.
Câu hỏi 17: Biển, đảo Việt Nam có dặc điểm kinh tế - xã hội và vai trò như thế nào với sự phát triển của đất nước trong giai đoạn hiện nay?
Trả lời:
Với trên 3.260 km bờ biển trả dài từ Quảng Ninh đến Kiên Giang. Với tỷ lệ khoảng 100 km2 diện tích đất liền/1km bờ biển, Việt Namthuộc các quốc gia ven biển có tỷ lệ đất/biển khá cao (trung bình của thế giới là 600 km2 diện tích lục địa/1km bờ biển). Hiện nay, nước ta có tổngcộng 29 tỉnh, thành phố ven biển, chiếm 42% diện tích và 31% số dân cả nước, trong đó 15,5 triệu người sống ở khu vực đới bờ và 16 vạn người ở các đảo và quần đảo. Ven bờ Việt Nam có trên 3.000 hòn đảo lớn, nhỏ tập trung ở vùng biển Đông Bắc, 40 hòn đảo ở vùng biển Bắc Trung Bộ và số còn lại ở các vùng biển Nam Trung Bộ, Tây Nam. Trên Biển Đông, Việt Namcó hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đây là vùng lãnh thổ thiêng liêng của đất nước, có vị trí địa chính trị hết sức chiến lược cả về an ninh, quốc phòng và phát triển kinh tế.
Câu hỏi 18: Có bao nhiêu thỏa thuận và hiệp định mà Việt Nam đã đàm phán, ký kết được với các nước láng giềng về phân định và hợp tác trên biển?
Trả lời:
Đến nay, Việt Namđã ký kết 5 Hiệp định và Thỏa thuận với các nước láng giềng có bờ biển liền kề hoặc kế cận. Đó là các nước Trung Quốc, Malaysia, Indonesia, Thái Lan và Campuchia.
- Thỏa thuận về hợp tác thăm dò khai thác chung vùng chồng lấn Việt Nam – Malaysia.
Giữa Việt Nam và Malaysia tồn tại một vùng chồng lấn thềm lục địa rộng khoảng 2.800 km2, đây là một khu vực có điện tích không lớn nhưng có tiềm năng về dầu khí. Ngày 05/6/1992, tại Kuala Lampur, hai bên đã ký Bản thỏa thuận về hợp tác thăm dò khai thác chung vùng chồng lấn. Thỏa thuận này có nội dung chính là xác định khu vực chồng lấn giữa thềm lục địa hai nước và xây đựng cơ chế hợp tác khai thác thăm dò dầu khí trong khu vực này.
- Hiệp định về phân định ranh giới trên biển Việt Nam - Thái Lan
Việt Namvà Thái Lan trước đây còn có bất đồng trong việc phân định biên giới biển giữa hai nước trong vịnh Thái Lan. Bất đồng này đã được giải quyết ngày 9 tháng 8 năm 1997 bằng Hiệp định về biên giới biển Việt Nam - Thái Lan được ký kết ngày 9 tháng 8 năm 1997. Hiệp định này đã xác định đường biên giới biển đồng thời phân định vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa hai nước.
- Hiệp định về vùng nước lịch sử Việt Nam- Campuchia
Việt Nam và Campuchia là hai nước láng giềng có vùng biển kế cận nhau. Trong lịch sử, hai bên có vấn đề tranh chấp chủ quyền một số đảo ven bờ và chưa tiến hành đàm phán phân định ranh giới lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Ngày 07/7/1982, hai bên đã ký Hiệp định về vùng nước lịch sử, trong đó xác định rõ chủ quyền đảo của mỗi bên, thiết lập một vùng nước lịch sử chung hai bên cùng nhau kiểm soát và quản lý; các hoạt động đánh bắt hải sản được thực hiện theo tập quán cũ.
- Hiệp đinh phân đinh Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam- Trung Quốc
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng, có chung đường biên giới. Giữa hai nước tồn tại một số vấn đề biên giới cả trên đất liền lẫn trên biển đang trong quá trình giải quyết. Tiếp theo việc hai nước ký Hiệp ước về biên giới trên đất liền năm 1999, trong năm 2000 hai nước cũng đã hoàn tất quá trình đàm phán kéo dài 27 năm từ năm 1974 và ký kết Hiệp định về phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong Vịnh Bắc Bộ. Nội dung chính của Hiệp định này là nhằm xác định dường biên giới lãnh hải và ranh giới đơn nhất cho cả vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa hai nước trong vịnh Bắc Bộ.
- Hiệp định phân định thềm lục địa giữa hai nước Việt Nam - Indonesia
Trước khi tiến hành đàm phán phân định, giữa hai nước tồn tại một vùng chồng lấn khoảng 98.000 km2. Qua nhiều vòng đàm phán, vùng chồng lấn này đã dần được thu hẹp lại. Kết quả cuối cùng là việc ký kết Hiệp định ngày 26 tháng 6 năm 2003 đã thiết lập thành công đường ranh giới thềm lục địa Việt Nam - Indonesia.
Câu hỏi 19: Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam có vị trí, vai trò gì đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước?
Trả lời:
Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là hai quần đảo san hô nằm giữa Biển Đông. Trên các bản đồ cổ của các nhà hàng hải phương Tây, hai quần đảo thường được xác định như một quần đảo đuy nhất có hình lá cờ đuôi nheo, nằm đọc theo bờ biển Việt Nam từ miền Trung tới miền Nam. Gầy đây, với sự phát triển của ngành hàng hải và đo đạc bản đồ biển, người ta đã nhận rõ hai quần đảo riêng biệt mang tên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (hay Paracels và Spraly theo các bản đồ nước ngoài).
1. Quần đảo Hoàng Sa:
Quần đảo Hoàng Sa là một huyện thuộc thành phố Đà Nẵng. Quần đảo này nằm trong khoảng vĩ độ 15o45' đến 17o15’ Bắc, kinh độ 111o đến 113o Đông, trên đường vào Vịnh Bắc Bộ, cách đảo Lý Sơn hơn 120 hải lý, cách hòn đảo ở gần đảo Hải Nam (Trung Quốc) nhất 140 hải lý. Quần đảo do trên 30 hòn đảo, đá, cồn san hô, bãi cát nằm rải rác trên một vùng biển rộng tử Tây sang Đông khoảng 100 hải lý, từ Bắc xuống Nam khoảng 85 hải lý hợp thành. Hoàng Sa chiếm một diện tích
biển khoảng 15.000 km2.
Quần đảo Hoàng Sa được chia thành hai nhóm: nhóm phía Đông (thường gọi là nhóm Amphitrite theo tiếng Pháp) gồm 12 hòn đảo nhỏ và một số mỏm đá san hô lớn nhất là đảo Phú Lâm và đảo Linh Côn, rộng trên dưới 1,5 km2; nhóm phía Tây (hay còn gọi là nhóm Lưỡi Liềm) có các đảo như Hoàng Sa, Hữu Nhật... và một số cồn, vành đai san hô.
2. Quần đảo Trường Sa:
Huyện đảo Trường Sa, thuộc tỉnh Khánh Hòa nằm ở phía Đông - Nam của Việt Nam trong khoảng vĩ độ từ 6o50' đến 12o Bắc và kinh độ từ 111o30' đến 117o201 Đông với hơn một trăm đảo, đá cồn và bãi san hô nằm rải trên một vùng biển rộng từ Tây sang Đông khoảng 350 hải lý và từ Bắc xuống Nam khoảng trên 360 hải lý. Quần đảo này chiếm khoảng 160 nghìn ki-lô-mét vuông biển. Hòn đảo gần đất liền nhất là đảo Trường Sa (nay là thị trấn Trường Sa) cách Vịnh Cam Ranh 250 hải lý, cách hòn đảo ở gần đảo Hải Nam nhất 600 hải lý và cách Đài Loan 900 hải lý. Đảo lớn nhất của quần đảo Trường Sa là đảo Ba Bình rộng khoảng 0,6 km2.
3. Tầm quan trọng của hai quần đảo Hoàng Sa vàTrường sa
Hai quần đảo có vị trí hết sức quan trọng đối với đất nước ta. Trước hết, hai quần đảo này nằm giữa Biển Đông, nơi có những tuyến đường hàng hải quan trọng nhất của thế giới đi qua. Ngoài ra, do vị trí nằm trải dài theo hướng bờ biển Việt Nam, Hoàng Sa và Trường Sa là những vị trí tiền tiêu bảo vệ sườn Đông của đất nước, cũng như các vùng biển và bờ biển của Việt Nam. Về mặt kinh tế hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa chứa đựng nhiều nguồn tài nguyên sinh vật và khoáng sản phóng phú và đa dạng, đặt biệt là nguồn tài nguyên đầu khí.
Câu hỏi 20: Nhà nước nào đã chiếm hữu và thực hiện chủ quyền với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trước tiên?
Trả lời:
Theo nhiều tài liệu trong và ngoài nước (các bản đồ cổ, tài liệu về lịch sử, địa lý thời xưa, v.v...) thì Việt Namlà nước đầu tiên đã chiếm hữu và thực hiện chủ quyền với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Thời xưa hai quần đảo này thường được gọi chung dưới cái tên Bãi Cát Vàng, Hoàng Sa, Vạn Lý Trường Sa, Đại Trường Sa.
Trong bản đồ Biển Đông (Sinensis Oceanus) của anh em nhà Van Lang ren người Hà Lan in năm 1595 cũng như bản đồ ''Inđiae Orientalis'' của nhà hàng hải Mecato in năm 1633, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được thể hiện như một dải liền nhau, có hình lá cờ đuôi nheo nằm dọc theo hướng bờ biển miền Trung Việt Nam. Theo nhiều bản đồ Việt Nam thời xưa như Giáp Ngọ niên Bình Nam đồ vẽ năm 1774, Đại Nam nhất thống toàn đồ vẽ vào khoảng năm 1838, hai quần đảo này đều được thể hiện là bộ phận của lãnh thổ Việt Nam.
Các sách địa lý cổ của Việt Nam như Toàn tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư do Đỗ Bá biên soạn trong khoảng năm 1630 - 1635, Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn viết năm 1776 hay Đại Nam nhất thống chí, bộ sách địa lý do nhà Nguyễn biên soạn đều có những ghi chép rất rõ ràng về Trường Sa và Hoàng Sa hay Bãi Cát Vàng thời xưa. Bên cạnh đó nhiều sách về địa lý, hàng hải, v.v do các giáo sĩ hay những nhà thám hiểm phương Tây biên soạn thời xưa đều có nhắc đến hai quần đảo như một phần lãnh thổ của Vương quốc An Nam. Đó là những cuốn Hồi ký về nước Cochinchine của Chaigneau viết năm 1820, Ghi chép về Cochinchina do linh mục Taberđ biên soạn, hay Thế giới và Mô tả, mô tả các dân tộc: Nhật, Đông Dương, Xây-lan xuất bản năm 1850 của tác giả Jancigny,v.v.
Câu hỏi 21: Với tư cách là người làm chủ, Nhà nước phong kiến Việt Nam đã tiến hành khảo sát và khai thác hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa như thế nào?
Trả lời:
Những cuộc khảo sát và khai thác hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của cha ông ta đã được các tài liệu cổ ghi chép lại rất chi tiết.
Theo sách Đại Nam thực lục chính biên, bộ sử về nhà Nguyễn trong những năm 1821 - 1848, các vua triều Nguyễn là Gia Long và Minh Mệnh đã cử thủy quân đến hai quần đảo để tiến hành khảo sát, đo đạc vẽ bản đồ. Kết quả của những chuyến đi này cũng được các sách xưa ghi lai đầy đủ. Điều đáng ngạc nhiên là những đo đạc, tính toán của cha ông ta ngày xưa, khi mà khoa học - kỹ thuật chưa phát triển như bây giờ đều trùng khớp với nhưng số liệu bây giờ. Thời đó, Bãi Cát Vàng được mô tả là có khoảng trên 130 hòn đảo, ngày nay chúng ta đã xác định được quần đảo Hoàng Sa có khoảng trên 30 hòn đảo và quần đảo Trường Sa gồm khoảng 100 hòn.
Các sách xưa cũng ghi lai cách tổ chức, hoạt động của các đội Hoàng Sa được lập ra đước thời nhà Nguyễn với mục đích chuyên đi khai thác hai quần đảo. Ví dụ như theo Phủ biên tạp lục, họ nhà Nguyễn đã đặt đội Hoàng Sa, mỗi năm ra các đảo thuộc hai quần đảo để lấy hóa vật của các tàu bị đắm như gươm, bạc vụn tiền bạc, vòng bạc, đồ đồng,. . .và kiếm lượm mai đồi mồi, mai hải ba, hải sâm, hột ốc hoa đem về nộp. Hay Đại Namthực lục tiền biên chép: ''Hồi đầu đựng nước, đặt đội Hoàng Sa gồm 70 người, lấy dân xã An Vĩnh sung vào hàng năm đến tháng ba đi thuyền ra đảo, độ ba ngày ba đêm thì đến, thu lươm hóa vật đến tháng tám thì trở về nộp''.
Câu hỏi 22: Có bao nhiêu quốc gia và vùng lãnh thổ hiện đang tranh chấp chủ quyền hai quần dào Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam?
Trả lời:
Đối với quần đảo Hoàng Sa, Trung Quốc là nước có tranh chấp với Việt Namvà đã chiếm đóng trái phép quần đảo này từ năm 1974. Với quần đảo Trường Sa, hiện có 5 nước, 6 bên tham gia tranh chấp. Ngoài Việt Nam còn có Trung Quốc (và Đài Loan), Malaysia, Philippine và Brunei tham gia tranh chấp.
Trung Quốc: Trung Quốc hiện đang chiếm đóng toàn bộ quần đảo Hoàng Sa và một phần của quần đảo Trường Sa. Đài Loan, Trung Quốc hiện đang chiếm đóng đảo Ba Bình, đảo lớn nhất của quần đảo Trường Sa. Chính quyền Đài Loan cũng có yêu sách chủ quyền với toàn bộ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
Philipin: Philipin hiện đang chiếm giữ 8 hòn đảo trong quần đảo Trường Sa. Theo Sắc lệnh ngày 11 tháng 6 năm 1978 do tổng thống Marcos ban hành, Philipin coi toàn bộ quần đảo Trường Sa (trừ đảo Trường Sa) là thuộc lãnh thổ của Philipin và đặt thành một đơn vị hành chính mang tên Kalayan thuộc tỉnh Palavan.
Malaysia:Malaysia là nước thể hiện yêu sách của mình muộn hơn cả. Năm 1982, Malaysiabắt đầu cho quân đội ra chiếm đảo Hoa Lau và đến nay họ đang chiếm đóng 5 đảo đá.
Bên cạnh đó, Vương quốc Brunei năm 1984 cũng thiết lập một vùng đánh cá bao gồm cả một bãi đá (Louisa Reef) nằm ở phía Nam quần đảo Trường Sa.
Nếu bạn muốn download không mất phí, vui lòng điền thông tin và tên bộ câu hỏi vào form dưới đây.
No comments:
Post a Comment