27/09/2013
Bài tập cá nhân 2 Luật thương mại 2 - Trung gian thương mại
Xem thêm: Tổng hợp bài tập Luật Thương mại 2 có đáp án.

Đề bài: Phân tích đặc điểm chung của các hoạt động trung gian thương mại.’’

Căn cứ vào định  nghĩa về  hoạt động trung gian thương mại và các điều khoản quy định  tại  chương V Luật  thương  mại  năm 2005, có   thể  thấy hoạt động   trung gian thương  mại theo pháp luật Việt Nam có những đặc điểm sau:

Thứ nhất, hoạt động  trung  gian  thương mại là loại hoạt  động cung ứng  dịch  vụ thương mại do một chủ thể trung gian thực hiện vì lợi ích của bên  thuê  dịch  vụ  để hưởng thù lao.

Có  thể  thấy,  trước  hết  hoạt  động  trung gian thương mại là hoạt động cung ứng dịch vụ thương mại. Đó là việc cung ứng các dịch vụ:  Đại  diện  cho  thương  nhân;  môi  giới thương  mại;  uỷ thác  mua  bán  hàng  hoá  và đại lí  thương mại.  Giống với  các hoạt động cung ứng dịch vụ thương mại khác, bên thuê dịch  vụ  (bên  giao  đại  diện,  bên  được  môi giới,  bên uỷ thác, bên giao đại lí) là bên có nhu cầu sử dụng dịch vụ và phải có nghĩa vụ trả thù lao cho bên thực hiện dịch vụ còn bên cung  ứng  dịch  vụ  (bên  đại  diện,  bên  môi giới, bên nhận uỷ thác, bên đại lí) là bên có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho bên thuê dịch vụ và được nhận thù lao. Tuy nhiên, các hoạt động dịch vụ trung gian thương mại có điểm khác biệt cơ bản so với các hoạt động cung ứng dịch vụ khác ở phương thức thực hiện. Các hoạt động cung ứng dịch vụ theo phương thức giao dịch trực tiếp, có sự tham gia của hai bên. Các bên tham gia quan hệ trực tiếp giao dịch với nhau, bàn bạc thỏa thuận  nội  dung  giao  dịch.  Trong  hoạt  động dịch  vụ  trung  gian  thương  mại  có  sự  tham gia  của  ba  bên,  trong  đó  có  bên  trung  gian nhận  sự uỷ nhiệm  của  bên  thuê  dịch  vụ để quan hệ với bên thứ ba. Điều đó có nghĩa là, bên  trung  gian  làm  cầu  nối  giữa  bên  thuê dịch vụ và bên thứ ba.

Các  chủ  thể tham gia hoạt động trung gian thương mại cụ thể là: Bên  uỷ  nhiệm (bên  thuê  dịch  vụ,  gồm  một  hoặc  một  số người), bên thực hiện dịch vụ (bên được uỷ nhiệm) và bên thứ ba (gồm một hoặc một số người).  Trong  các  hoạt  động  dịch  vụ  trung gian  thương  mại  này,  bên  được  thuê  làm dịch  vụ  là  người  trung  gian  nhận  sự  uỷ nhiệm  của  bên  thuê  dịch  vụ và  có  thể thay mặt  bên  thuê  dịch  vụ  thực  hiện  các  hoạt động thương mại với bên (hoặc các bên) thứ ba.  Khi  giao  dịch  với  bên  thứ  ba,  thương nhân  trung  gian  có  thể sử dụng  danh  nghĩa của mình hoặc danh nghĩa của bên thuê dịch vụ,  tuỳ thuộc  loại hình dịch vụ mà  họ cung ứng.  Theo  quy  định  của  Luật  thương  mại năm  2005,  trong trường  hợp  thực  hiện  dịch vụ đại lí thương mại, uỷ thác mua bán hàng hoá hoặc môi giới thương mại, thương nhân trung  gian  sử  dụng  danh  nghĩa  của  chính mình  khi  giao  dịch  với  bên  thứ ba,  điều  đó có  nghĩa  là  tự họ phải  chịu  trách  nhiệm  về các  hành  vi  của  mình.  Đối  với  dịch  vụ đại diện cho thương nhân thì thương nhân trung gian sẽ nhận sự uỷ quyền và nhân danh bên giao đại diện để giao dịch với bên thứ ba, do đó những hành vi do bên đại diện thực hiện trong phạm vi được uỷ quyền trực tiếp đem lại hậu quả pháp lí cho bên giao đại diện.

Trong  các  hoạt  động  trung  gian  thương mại,  bên  thuê  dịch  vụ sẽ  yêu  cầu  bên  thực hiện dịch vụ thay mặt mình hoặc giúp mình quan  hệ  với  bên  thứ  ba  để  mua,  bán  hàng hoá,  cung  ứng  dịch  vụ thương  mại.  Do  đó, bên  trung  gian  sẽ có  nhiệm  vụ tìm  hiểu  thị trường, tìm hiểu đối tác, đàm phán giao dịch với  bên  thứ  ba  để  thực  hiện  việc  mua  bán hàng  hoá,  cung  ứng  dịch  vụ  cho  bên  uỷ nhiệm  (bên  thuê  dịch  vụ)  theo  yêu  cầu  của họ. Hoạt động dịch vụ trung gian thương mại khác với các hoạt động dịch vụ có liên quan đến bên thứ ba như: Dịch vụ vận tải, dịch vụ giao nhận hàng hoá… ở chỗ những dịch vụ này  được  thực  hiện  trực  tiếp  giữa  bên  làm dịch vụ với bên thuê dịch vụ mà không có sự tham gia của bên trung gian.

Trong   hoạt   động   dịch   vụ  trung   gian thương  mại,  bên  trung  gian  có  vai  trò  làm cầu nối giữa bên thuê dịch vụ và bên thứ ba. Bên trung gian thực hiện việc mua bán hàng hoá,  cung  ứng  dịch  vụ thương  mại  với  bên thứ ba  không  vì  lợi  ích  của  bản  thân  mình mà  vì  lợi  ích  của  bên  thuê  dịch  vụ (bên  uỷ nhiệm). Tuy nhiên, bên trung gian (bên được uỷ nhiệm)  sẽ được  hưởng  thù  lao  khi  hoàn thành nhiệm vụ mà bên uỷ nhiệm giao phó. Do  đó,  mục  đích  của  bên  trung  gian  trong các  hoạt  động  trung  gian  thương  mại  là nhằm tới thù lao mà bên thuê dịch vụ sẽ trả cho họ chứ không mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ nhằm lợi ích của bản thân họ.

Thứ hai,  trong  hoạt  động  dịch  vụ trung gian  thương  mại,  bên  trung  gian thương nhân, có tư cách pháp lí độc lập với bên thuê dịch vụ và bên thứ ba.

Để  thực  hiện  hoạt  động  dịch  vụ  trung gian  thương  mại,  bên  trung  gian  phải  có những  điều  kiện  nhất  định  để  có  thể  được bên  thuê  dịch  vụ  tin  tưởng  uỷ  nhiệm  thực hiện công việc vì lợi ích của họ. Điều 6 Luật thương  mại  năm  2005  quy  định  bên  trung gian  phải  là  thương  nhân.  Theo  điều  này, thương  nhân  phải  là  tổ  chức  kinh  tế  được thành   lập   hợp   pháp,   cá   nhân   hoạt   động thương mại một cách độc lập thường xuyên và  có  đăng  kí  kinh  doanh.  Đối  với  một  số dịch vụ trung gian thương mại như: Dịch vụ uỷ  thác  mua  bán  hàng  hoá,  dịch  vụ  đại  lí thương   mại,   ngoài   điều   kiện   là   thương nhân,  bên trung gian còn phải có điều kiện khác  như  phải  là  thương  nhân  kinh  doanh mặt  hàng  phù  hợp  với  hàng  hoá  được  uỷ thác thì mới trở thành bên nhận uỷ thác mua bán hàng hoá.

Trong quan hệ với bên thuê dịch vụ (bên uỷ nhiệm)  và  bên  thứ ba,  người  trung  gian thực  hiện  các  hoạt  động  thương  mại  với  tư cách  pháp  lí  hoàn  toàn  độc  lập  và  tự  do. Người trung gian là những thương nhân độc lập, hành nghề cung ứng dịch vụ trung gian thương  mại  một  cách  chuyên  nghiệp  chứ không  phải  là  người  làm  công  ăn  lương. Điều này thể hiện qua việc người trung gian có trụ sở riêng, có tư cách pháp lí độc lập, tự định  đoạt  thời  gian  làm  việc,  tự  chịu  trách nhiệm về các hoạt động của mình. Đặc điểm này,  giúp  chúng  ta  phân  biệt  người  trung gian trong hoạt động thương mại với các chi nhánh,  văn  phòng  đại  diện  do  thương  nhânlập ra để thực hiện hoạt động kinh doanh của thương  nhân  và  những  người  lao  động  làm thuê cho thương nhân cũng như những người có  chức  năng  đại  diện  theo  pháp  luật  của doanh nghiệp như: Giám đốc doanh nghiệp, thành  viên  hợp  danh  của  công  ti  hợp  danh. Các chủ thể nói trên không có tư cách pháp lí  độc  lập  và  chỉ  được  thực  hiện  các  hoạt động  trong  phạm  vi,  quyền  hạn  theo  quy định trong nội bộ của thương nhân đó.

Thứ  ba,  hoạt  động  dịch  vụ  trung  gian thương  mại  song  song  tồn  tại  hai quan hệ: Quan hệ giữa bên uỷ nhiệm và bên được uỷ nhiệm;  quan  hệ  giữa  bên  được  uỷ  nhiệm (hoặc  bên  uỷ  nhiệm)  và  bên  thứ  ba.  Các quan hệ này phát sinh trên cơ sở hợp đồng.

Theo  cách  hiểu của chúng  tôi về hoạt động trung gian thương mại được trình bày ở phần  trên  thì  để  thực  hiện  các  hoạt  động trung gian thương mại, trước tiên bên có nhu cầu sử dụng dịch vụ  của người  trung  gian (bên  uỷ  nhiệm)  và  bên  cung  ứng  dịch vụ trung  gian  (bên  được  uỷ  nhiệm)  phải  thiết lập  được  quan  hệ  với  nhau.  Bên  uỷ nhiệm và bên được uỷ nhiệm thoả thuận nội dung công việc mà bên được uỷ nhiệm thực hiện thay  mặt  bên  uỷ  nhiệm  giao  dịch  với  bên thứ ba cũng như quyền và nghĩa vụ của hai bên đối với nhau. Bởi vậy, có thể thấy trong hoạt  động  trung  gian  thương  mại,  quan  hệ giữa  bên  uỷ  nhiệm  và  bên  được  uỷ nhiệm thường có mối quan hệ gắn bó, chặt chẽ và phát sinh trên cơ sở hợp đồng. Đó là các hợp đồng  đại  diện  cho thương  nhân,  hợp  đồng môi  giới,  hợp  đồng  uỷ thác  mua  bán  hàng hoá và hợp đồng đại  lí. Các hợp đồng  này đều  có tính  chất  là  hợp đồng  song  vụ,  ưng thuận và có tính đền bù. Hình thức của các hợp  đồng  này  bắt  buộc  phải  được  thể hiện bằng  văn  bản  hoặc  các  hình  thức  khác  có giá trị pháp lí tương đương với văn bản, bao gồm:  Điện  báo,  telex,  fax,  thông  điệp  dữ liệu  (là  thông tin  được  tạo  ra,  được  gửi  đi, được  nhận  và  được  lưu  trữ  bằng  phương tiện điện tử) và các hình thức khác theo quy định của pháp luật.

Hoạt   động  trung  gian  thương  mại  sẽ không thể thực hiện được nếu như chỉ tồn tại quan hệ giữa bên uỷ nhiệm và bên được uỷ nhiệm.  Để  thực  hiện  hoạt  động  này,  bên được uỷ nhiệm phải giao dịch với bên thứ ba để hoàn thành yêu cầu mà bên uỷ nhiệm giao cho. Khi giao dịch với bên thứ ba, tư cách và vai  trò  của  người  trung  gian  không  luôn giống nhau. Họ có thể và nhân danh bên uỷ nhiệm  (như  bên  đại  diện)  để  giao  dịch  với bên  thứ  ba  trong  hoạt  động  đại  diện  cho thương  nhân  hoặc  họ  chỉ  thay  mặt  bên  uỷ nhiệm  nhưng  lại  nhân  danh  chính  mình  để quan  hệ  với  bên  thứ  ba  (như  bên  nhận  uỷ thác, bên đại lí) trong hoạt động uỷ thác mua bán  hàng  hoá,  hoạt  động  đại  lí  thương  mại hoặc chỉ nhận sự uỷ nhiệm của bên thuê dịch vụ để tìm kiếm bên thứ ba và giúp bên thuê dịch  vụ,  bên  thứ ba  tiếp  xúc  với  nhau.  Bởi vậy, trong hoạt động trung gian thương mại, bên thứ ba sẽ có quan hệ pháp lí với bên uỷ nhiệm   (đối   với   hoạt   động   đại   diện   cho thương nhân, môi giới thương mại) hoặc trực tiếp  quan  hệ  với  bên  được  uỷ  nhiệm  như trong hoạt động uỷ thác mua bán hàng hoá.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Giáo trính luật thương mại Việt Nam
2. Khái niệm, bản chất pháp lý của hoạt động trung gian thương mại – Tạp chí luật học số 1 năm 2006

No comments:

Post a Comment