BÀI TẬP NHÓM MÔN LUẬT DÂN SỰ K38 – MODUL2 (Học kỳ 2 năm học 2014-2015)
1. Tình huống thứ nhất:
Do quen biết, ngày 18-6-2010 anh A có mua một chiếc tàu câu mực của anh B. Hai bên có lập hợp đồng với giá là 130 triệu đồng, bên mua phải trả tiền trong thời hạn 2 tháng: từ tháng 7 đến tháng 8/2010. Anh A đã trả tiền trước là 36 triệu 500 đồng, đã nhận tàu và đưa vào hoạt động ngay.
Đến ngày 16-8-2010, anh B báo cho anh A biết là sẽ lấy toàn bộ số tiền còn lại, và định thời gian là 7 ngày nữa cho anh A. Đến ngày 24-8-2010 anh A không trả đủ tiền nên anh B đã lấy lại tàu và bán ngay cho người khác.
Anh A cho rằng: việc mua bán có giấy tờ, quyền sở hữu đã chuyển giao, thời hạn thanh toán ghi là trong tháng 8, nên việc lấy lại con tàu là vi phạm hợp đồng, xâm phạm đến quyền sở hữu của anh.
Anh B cho rằng: Ngày làm hợp đồng là ngày 19-6-2010, và quy định thời hạn trả tiền là 2 tháng, nên hạn cuối cùng là 19-8, nhưng anh đã gia hạn đến 24-8 là hợp tình và chinh bên mua mới là người vi phạm.
Được biết, trong 2 tháng đó anh A đã sửa chữa, tu bổ con tàu hết 16 triệu và yêu cầu được thanh toán nhưng anh B không đồng ý vì cho rằng con tàu khi bán vẫn hoạt động bình thường, không có nhu cầu phải sửa chữa.
Hãy cho biết:
1, Anh B (bên bán) có quyền đòi lại chiếc tàu câu mực trong tình huống trên hay không?Tại sao?
2, Hợp đồng mua bán giữa A và B đã được giao kết chưa? Đã phát sinh hiệu lực chưa?
3, Thời điểm chuyển quyền sở hữu đối với tài sản trong hợp đồng mua bán?Ý nghĩa pháp lý của việc xác định thời điểm chuyển quyền sở hữu đối với tài sản mua bán?
4, Trách nhiệm chậm thanh toán tiền trong hợp đồng mua bán tài sản? Trách nhiệm này có gì khác so với trách nhiệm chậm trả tiền trong hợp đồng vay tiền theo quy định của pháp luật hiện hành.
5, Căn cứ để tuyên hủy bỏ hợp đồng mua bán? Việc vi phạm nghĩa vụ thanh toán có phải là điều kiện hủy bỏ hợp đồng mua bán theo quy định của pháp luật?Đưa ra giải pháp tổng thể cho tình huống trên.
2. Tình huống thứ hai:
Bản án dân sự giữa nguyên đơn là vợ chồng ông Võ Quang Thảo, bà Huỳnh Thị Thiên Hương với bị đơn là Công ty cổ phần nghiên cứu và ứng dụng công nghệ thông tin CADASA.
Nội dung vụ án:Ngày 15/11/2010 giữa vợ chồng ông Võ Quang Thảo, bà Huỳnh Thị Thiên Hương có lập họp đồng mua 02 căn nhà và đất tại địa chỉ sô 61A-61B, đường Phan Đình Phùng, phường Trần Hưng Đạo, thành phố Q với Công ty cổ phần đào tạo nghiên cứu và ứng dụng công nghệ thông tin CADASA (gọi tăt là Công ty CADASA), do ông Nguyễn Thế Hùng đại diện theo pháp luật của công ty ký. Hợp đồng đã được phòng công chứng số 1 tỉnh Q chứng thực.
Nội dung hợp đồng: Công ty CADASA đồng ý chuyển nhượng cho vợ chồng ông Võ Quang Thảo, bà Huỳnh Thị Thiên Hương thửa đất chuyển nhượng có tài sản gắn liền là nhà theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang số hiệu AC 614224 và AC 614225 do UBND tỉnh Q cấp ngày 18/11/2005 thuộc quyền sử dụng và sở hữu của bên công ty CADASA cụ thể: Diện tích khuôn viên đất: 489,74m2, thửa đất số 226 và 127, tở bản đồ số 13, phường Trần Hưng Đạo, thời hạn sử dụng lâu dài. Tài sản gắn liền với đất là nhà có đặc điểm; Diện tích xây dựng 300,36m2, kết cấu nhà: Nhà cấp 4, tại địa chỉ số 61A-B, đường Phan Đình Phùng, phường Trần Hưng Đạo, thành phố Q. Hai bên thỏa thuận giá trị quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất là 10.000.000.000 đồng (mười tỷ đồng), thanh toán gồm 02 đợt. Đợt 1: Ngày 15/11/2010 thanh toán số tiền là 5.200.000.000 đồng. Đợt 2: Ngày 16/11/2010 thanh toán số tiền còn lại là 4.800.000.000 đồng.
Tính đến ngày khởi kiện đã hơn 01 năm nhưng Công ty CADASA không chịu giao căn nhà và đất cho vợ chồng ông Võ Quang Thảo, bà Huỳnh Thị Thiên Hương nên đã gây thiệt hại. Do vậy vợ chồng ông Thảo, bà Hương khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Công ty CADASA phải thực hiện họp đồng mua bán nhà ngày 15/11/2010 đã ký kết giữa hai bên, thực hiện việc giao hai căn nhà số 61A-B, đường Phan Đình Phùng, phường Trần Hưng Đạo, thành phố Q cho vợ chồng ông sở hữu, sử dụng; Buộc công ty CADASA phải bồi thường thiệt hại cho vợ chồng ông, bà.
Phía bị đơn là Công ty CADASA, đại diện là ông Nguyễn Thế Hùng trình bày cho rằng: Năm 2005 Công ty CADASA đầu tư mua hai thửa đất số 226 và 127, tờ bản đồ số 13, phường Trần Hưng Đạo, thành phố Q và được UBND tỉnh Q cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và xây dựng trên đất 01 nhà sách CADASA và 01 quán cà phê vơi tên gọi HOA VIOLET NGÀY THỨ TƯ. Để có vốn duy trì hoạt động kinh doanh, nên công ty thế chấp 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên cho ngân hàng Eximbank chi nhánh Q để vay số tiền 6.500.000.000 đồng. Do ngân hàng cho vay ngắn hạn trong hạn 01 năm. Đến ngày đáo hạn định kỳ vào thời điểm năm 2010 Ngân hàng hạn chế cho vay tín dụng. Do vậy công ty buộc phải vay vốn từ bên ngoài để trả nợ ngân hàng, Công ty có nhờ vợ chông ông Võ Quang Thảo, bà Huỳnh Thị Thiên Hương cho vay số tiền là 10.000.000.000 đồng với lãi suất 3%/tháng, thời hạn vay là 06 tháng để Công ty giải chấp cho ngân hàng và nợ bên ngoài.
Để đảm bảo số tiền vay, vợ chồng ông Thảo, bà Hương buộc chúng tôi phải ký một hợp đông mua bán nhà có xác nhận của Phòng Công chứng số 1 tỉnh Q vào ngày 15/11/2010. Sau 06 tháng, do công việc làm ăn của công ty vẫn còn gặp nhiều khó khăn về tài chính nên đã thương lượng với ông Thảo, bà Hương cho phép gia hạn thêm thời hạn 06 tháng nữa, nhưng ông Thảo, bà Hương không đồng ý. Hiện nay Công ty CADASA đang cố gắng bằng mọi cách để trả lại vốn và lãi suất vay cho vợ chồng ông Thảo, bà Hương để lấy lại nhà.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 08/2012/DSST ngày 11-5-2012 của TAND thành phố Q nhận định: Hợp đồng mua bán nhà giữa hai bên có hiệu lực kể từ thời điểm công chứng viên Phòng Công chứng số 1 tỉnh Q chứng thực theo Điều 9 của hợp đồng. Quyền sở hữu nhà ở được chuyển cho bên mua là vợ chồng ông Võ Quang Thảo kể từ thời điểm hợp đồng được công chứng theo quy định tại Điều 93 Luật nhà ở, theo điểm e khoản 1 Điều 6 của họp đồng mua bán nhà ngày 15/11/2010 và theo khoản 1 Điều 1 bản “thỏa thuận về việc chuộc lại nhà đã bán” quy định điều kiện chuộc lại nhà trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày hợp đồng được công chứng, nhưng trong thời gian này công ty CADASA không chuộc lại nhà. Như vậy quá thời gian 06 tháng công cy CADASA không còn quyền được chuộc lại nhà đã bán. Từ đó quyết định:
Công nhận hợp đồng.mua bán nhà giữa bên bán là Công ty cổ phần đào tạo nghiên cứu và ứng đụng công nghệ thông tin CADASA và bên mua là ông Võ Quang Thảo, bà Huỳnh Thị Thiên Hương đã được công chứng vào ngày 15/11/2010 tại Phòng Công chứng số 01 tỉnh Q.
Buộc công ty cổ phần đào tạo, nghiên cứu và ứng dụng công nghệ thông tin CADASA phải thực hiện hợp đồng mua bán nhà ngày 15/11/2010, giao căn nhà ở số 61A,B đường Phan Đình Phùng, phường Trần Hưng Đạo, thành phố Q, tỉnh Q có tổng diện tích đất là 489,74m2 thuộc thửa đất số 127 và 226, tờ bản đô số 13 cho vợ chồng ông Võ Quang Thảo bà Huỳnh Thị Thiên Hương sở hữu, sử dụng.
Công ty cổ phần đào tạo, nghiên cứu và ứng dụng công nghệ thông tin CADASA phải bồi thường thiệt hại do việc chậm giao nhà cho vợ chồng ông Võ Quang Thảo, bà Huỳnh Thị Thiên Hương số tiền là 540.000.000 đồng.
Trong quá trình xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm có 2 quan điểm xác định thời điểm chuyển quyền sở hữu nhà như sau:
Quan điểm 1: Trong hợp đồng có thoả thuận: “Hợp đồng này có hiệu lực kể từ thời điểm công chứng viên Phòng Công chứng số 1 tỉnh Q chứng nhận”. Thoả thuận này trái với qui định tại Điều 168 Bộ luật dân sự: “Việc chuyển quyền sở hữu đối với bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký quyền sở hữu”. Bên mua nhà đã giao 10 tỷ, bên bán nhà đã nhận đủ tiền. Khi tiến hành làm thủ tục giữa bên bán và bên mua thì Ủy ban nhân dân thành phố Q chưa xác nhận làm thủ tục mua bán nhà, vì bên mua chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính, nên chưa đủ điều kiện giao trả hồ sơ. Hợp đồng mua bán nhà này sai cả nội dung lẫn hình thức. Nên việc xác định hợp đồng mua bán nhà giữa hai bên là vô hiệu. Thực chất là Công ty có vay 10 tỷ đồng của vợ chồng ông Thảo, bà Hương. Vợ chồng ông Thảo buộc phải ký họp đồng mua bán nhà để đảm bảo số tiền mà vợ chồng ông đã cho Công ty mượn, cho nên đây là hợp đồng giả cách, giả tạo.
Quan điếm thử hai: Y án sơ thẩm, vì trong hợp đồng có thoả thuận thời điểm có hiệu lực từ khi công chứng là phù hợp với quy định tại khoản 5, Điều 93 luật nhà ở 2005. “Quyền sở hữu nhà ở được chuyển cho bên mua, bên nhận tặng cho, bên thuê mua, bên nhận đổi nhà ở kể từ thời điểm hợp đồng được công chứng đối với giao dịch về nhà ở giữa cá nhân với cá nhân hoặc đã giao nhận nhà ở theo thoả thuận trong hợp đồng đối với giao dịch về nhà ở mà một bên là tổ chức kinh doanh nhà ở...”. Khoản 1, Điều 64, nghị định 71/2012 ngày 23/6/2010 hướng dẫn thi hành luật nhà ở: “ Thời điểm chuyển quyền sở hữu nhà ở đối với trường hợp mua bán nhà ở được tính từ ngày hợp đồng mua bán nhà ở được công chứng hoặc chứng thực”. Tại Điều 3 Luật Nhà ở cũng qui định: “Trường hợp có sự khác nhau của Luật này với pháp luật có liên quan về sở hữu nhà ở, phát triển, quản lý việc sử dụng, giao dịch về nhà ở và quản lý nhà nước về nhà ở thì áp dụng quy định của Luật này”.
Hãy cho biết:
1, Có bao nhiêu hợp đồng được các bên xác lập trong tình huống trên: gọi tên chính xác từng hợp đồng đó và nêu đặc điểm pháp lý của loại hợp đồng đó?
2, Trong các hợp đồng đã nêu trên thì hợp đồng nào có hiệu lực và hợp đồng nào vô hiệu?Tại sao?
3, Hãy chọn cho mình một trong hai quan điểm trên và nêu lý do chọn quan điểm đó; đồng thời đưa ra lập luận đề phản bác quan điểm còn lại.
3. Tình huống thứ ba.
Đầu năm 2010 ông S mua chiếc xe ôtô nhãn hiệu Innova, BKS 1234. Do ở tỉnh xa, nên ông có nhờ ông A có hộ khẩu tại thành phố H đứng tên đăng ký quyền sở hữu đối với chiếc xe nói trên.Ngày 23/7/2010, ông S và ông T ký kết hợp đồng thuê xe, theo đó, ông S cho ông T thuê chiếc xe thuộc quyền sở hữu của ông S, thời hạn thuê là 07 ngày, với giá tiền là 1.000.000 đồng/ngày, ông T thế chấp một Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên ông T. Sau khi thuê được xe, ông T giao lại chiếc xe nói trên cho ông M sử dụng (thực chất ông T chỉ thuê xe giúp ông M). Trong quá trình ông M sử dụng, xe bị tai nạn dẫn đến hư hỏng nặng. Sau khi được thông báo việc xe bị tai nạn, ông S đã đưa xe đi sửa chữa tại Công ty Toyota. Do các bên không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án, ông S khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc ông T và ông M liên đới bồi thường cho ông S các khoản tiền sau đây: 61 triệu đồng tiền sửa xe; 162 triệu đồng tiền mất thu nhập (tương ứng với 162 ngày xe không hoạt động); tiền giá trị xe bị giảm 15%, là 82 triệu đồng; và tiền chi phí đi lại để giải quyết công việc là 22.600.000 đồng và 160.000.000 đồng tiền sửa xe (do bảo hiểm từ chối chi trả).
Các đồng bị đơn là ông T, ông M không đồng ý với yêu cầu khởi kiện, vì cho rằng, đối với khoản tiền sửa xe, thì bảo hiểm phải có nghĩa vụ chi trả (vì bảo hiểm hai chiều – chi trả trong mọi trường hợp xe bị hỏng); đối với khoản mất thu nhập thì ông S không có giấy phép kinh doanh vận tải, nên việc ông S cho thuê xe là sai, mặt khác ông S không phải là chủ sở hữu chiếc xe nói trên mà ông S chỉ là người được ủy quyền định đoạt từ ông A; đối với khoản tiền giá trị xe bị giảm, thì theo kết quả định giá và căn cứ vào cách tính khấu hao tài sản, thì chiếc xe nói trên không bị giảm giá trị sau khi sửa chữa. Các bị đơn chỉ đồng ý hoàn trả khoản tiền thuê xe 7.000.000 đồng.
Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận toàn bộ các yêu cầu của nguyên đơn, buộc ông T, M và bảo hiểm tỉnh Đ phải hoàn trả cho ông S các khoản tiền nêu trên.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ông T, ông M kháng cáo không đồng ý bồi thường các khoản mất thu nhập do xe bị hỏng, giá trị xe bị giảm.
Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu kháng cáo, sửa án sơ thẩm; bác yêu cầu khởi kiện đòi tiền mất thu nhập, giá trị xe bị giảm của nguyên đơn.
Hãy cho biết:
1, Có bao nhiêu hợp đồng được các bên xác lập trong hợp đồng trên: đặt tên gọi cho hợp đồng đó và nêu đặc điểm pháp lý của loại hợp đồng đó?
2, Trong các hợp đồng trên, hợp đồng nào có hiệu lực và hợp đồng nào vô hiệu.Tại sao?
3, Những loại thiệt hại nào được yêu cầu bồi thường?Chủ thể nào phải bồi thường thiệt hại, tại sao?
4, Tư vấn giải pháp tổng thể cho tình huống trên.
4. Tình huống thứ tư
Tháng 4 năm 2007, vợ chồng anh A, chị C dùng quyền sử dụng 100m2 đất thổ cư của mình để thế chấp, đảm bảo cho nghĩa vụ của anh D tại một tổ chức tín dụng. Tháng 11/2007, anh A, chị C làm thủ tục xin ly hôn. Tại TAND huyện Đ.A, anh A, chị C đã thỏa thuận được với nhau về việc thuận tình ly hôn, về con cái và về tài sản (trong đó có thỏa thuận việc chia đôi mảnh đất 100m2 nói trên). Tại Tòa án, anh A, chị C không khai báo việc anh, chị đã dùng quyền sử dụng 100m2 đất để thế chấp bảo đảm nghĩa vụ cho anh D tại tổ chức tín dụng. Tòa án huyện Đ.A cũng không tiến hành thu thập chứng cứ để xác minh tình trạng pháp lý của mảnh đất nói trên, nhưng vẫn ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của anh A, chị C như đã trình bày trên.
Sau khi Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự của TAND huyện Đ.A có hiệu lực pháp luật, anh A, chị C đã yêu cầu cơ quan quản lý nhà đất tại địa phương căn cứ vào quyết định của Tòa án để tách thửa, chia đôi mảnh đất và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho anh A, chị C. Ngay sau khi được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới, anh A, chị C đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho người khác và đã nhận đủ tiền để chi tiêu cho công việc cá nhân. Đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng tín dụng giữa anh D và tổ chức tín dụng, anh D không trả được nợ, Tổ chức tín dụng đã yêu cầu phát mại tài sản bảo đảm là quyền sử dụng 100m2 đất của anh A, chị C, khi đó Tổ chức tín dụng mới biết là tài sản bảo đảm đã bị phân chia và chuyển nhượng cho những người khác một cách công khai, ngay tình, đúng pháp luật. Tổ chức tín dụng có công văn yêu cầu Tòa án cấp trên xem xét vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
Hãy cho biết:
1, Có bao nhiêu hợp đồng được các bên xác lập trong hợp đồng trên: đặt tên gọi cho hợp đồng đó và nêu đặc điểm pháp lý của loại hợp đồng đó?
2, Trong các hợp đồng trên, hợp đồng nào có hiệu lực và hợp đồng nào vô hiệu.Tại sao?
3, Tổ chức tín dụng có quyền xử lý tài sản thế chấp nêu trên không?Tại sao?
4, Tư vấn giải pháp tổng thể cho tình huống trên.
Hà Nội ngày 30/3/2015
Phụ trách TBM Luật Dân Sự
TS. Vũ Thị Hồng Yến
(Đã ký)
Ngày nhận bài tập nhóm tuần 12 từ 30/3/2014
Ngày nộp bài tập nhóm tuần 15 từ 20/4/2014
Yêu cầu của bài tập nhóm:
- Mỗi nhóm chọn một vụ việc trong bốn vụ việc dưới đây, các nhóm thuyết trình trong một ca thảo luận không được trùng nhau về vụ việc.
- Phải có biên bản phân công công việc cho các thành viên trong nhóm và đánh giá kết quả làm việc của từng thành viên.
- Sản phẩm của mỗi nhóm gồm: 01 bản word nộp cho tổ bộ môn Luật Dân sự (từ 3 trang đến 10 trang – không kể đề bài), 01 bản thuyết trình được chuẩn bị dưới dạng powerpoint hoặc sơ đồ tóm tắt mô tả vụ án được trình bày trên khổ giấy Ao.
- Cộng điểm:
+ Phương pháp và kỹ thuật thuyết trình tốt sẽ được giảng viên cộng điểm từ 0,5 đến 1 điểm.
+ Các lập luận có cơ sở về lý luận và luật thực định được viện dẫn chính xác sẽ được cộng từ 0,5 đến 1 điểm.
1. Tình huống thứ nhất:
Do quen biết, ngày 18-6-2010 anh A có mua một chiếc tàu câu mực của anh B. Hai bên có lập hợp đồng với giá là 130 triệu đồng, bên mua phải trả tiền trong thời hạn 2 tháng: từ tháng 7 đến tháng 8/2010. Anh A đã trả tiền trước là 36 triệu 500 đồng, đã nhận tàu và đưa vào hoạt động ngay.
Đến ngày 16-8-2010, anh B báo cho anh A biết là sẽ lấy toàn bộ số tiền còn lại, và định thời gian là 7 ngày nữa cho anh A. Đến ngày 24-8-2010 anh A không trả đủ tiền nên anh B đã lấy lại tàu và bán ngay cho người khác.
Anh A cho rằng: việc mua bán có giấy tờ, quyền sở hữu đã chuyển giao, thời hạn thanh toán ghi là trong tháng 8, nên việc lấy lại con tàu là vi phạm hợp đồng, xâm phạm đến quyền sở hữu của anh.
Anh B cho rằng: Ngày làm hợp đồng là ngày 19-6-2010, và quy định thời hạn trả tiền là 2 tháng, nên hạn cuối cùng là 19-8, nhưng anh đã gia hạn đến 24-8 là hợp tình và chinh bên mua mới là người vi phạm.
Được biết, trong 2 tháng đó anh A đã sửa chữa, tu bổ con tàu hết 16 triệu và yêu cầu được thanh toán nhưng anh B không đồng ý vì cho rằng con tàu khi bán vẫn hoạt động bình thường, không có nhu cầu phải sửa chữa.
Hãy cho biết:
1, Anh B (bên bán) có quyền đòi lại chiếc tàu câu mực trong tình huống trên hay không?Tại sao?
2, Hợp đồng mua bán giữa A và B đã được giao kết chưa? Đã phát sinh hiệu lực chưa?
3, Thời điểm chuyển quyền sở hữu đối với tài sản trong hợp đồng mua bán?Ý nghĩa pháp lý của việc xác định thời điểm chuyển quyền sở hữu đối với tài sản mua bán?
4, Trách nhiệm chậm thanh toán tiền trong hợp đồng mua bán tài sản? Trách nhiệm này có gì khác so với trách nhiệm chậm trả tiền trong hợp đồng vay tiền theo quy định của pháp luật hiện hành.
5, Căn cứ để tuyên hủy bỏ hợp đồng mua bán? Việc vi phạm nghĩa vụ thanh toán có phải là điều kiện hủy bỏ hợp đồng mua bán theo quy định của pháp luật?Đưa ra giải pháp tổng thể cho tình huống trên.
2. Tình huống thứ hai:
Bản án dân sự giữa nguyên đơn là vợ chồng ông Võ Quang Thảo, bà Huỳnh Thị Thiên Hương với bị đơn là Công ty cổ phần nghiên cứu và ứng dụng công nghệ thông tin CADASA.
Nội dung vụ án:Ngày 15/11/2010 giữa vợ chồng ông Võ Quang Thảo, bà Huỳnh Thị Thiên Hương có lập họp đồng mua 02 căn nhà và đất tại địa chỉ sô 61A-61B, đường Phan Đình Phùng, phường Trần Hưng Đạo, thành phố Q với Công ty cổ phần đào tạo nghiên cứu và ứng dụng công nghệ thông tin CADASA (gọi tăt là Công ty CADASA), do ông Nguyễn Thế Hùng đại diện theo pháp luật của công ty ký. Hợp đồng đã được phòng công chứng số 1 tỉnh Q chứng thực.
Nội dung hợp đồng: Công ty CADASA đồng ý chuyển nhượng cho vợ chồng ông Võ Quang Thảo, bà Huỳnh Thị Thiên Hương thửa đất chuyển nhượng có tài sản gắn liền là nhà theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang số hiệu AC 614224 và AC 614225 do UBND tỉnh Q cấp ngày 18/11/2005 thuộc quyền sử dụng và sở hữu của bên công ty CADASA cụ thể: Diện tích khuôn viên đất: 489,74m2, thửa đất số 226 và 127, tở bản đồ số 13, phường Trần Hưng Đạo, thời hạn sử dụng lâu dài. Tài sản gắn liền với đất là nhà có đặc điểm; Diện tích xây dựng 300,36m2, kết cấu nhà: Nhà cấp 4, tại địa chỉ số 61A-B, đường Phan Đình Phùng, phường Trần Hưng Đạo, thành phố Q. Hai bên thỏa thuận giá trị quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất là 10.000.000.000 đồng (mười tỷ đồng), thanh toán gồm 02 đợt. Đợt 1: Ngày 15/11/2010 thanh toán số tiền là 5.200.000.000 đồng. Đợt 2: Ngày 16/11/2010 thanh toán số tiền còn lại là 4.800.000.000 đồng.
Tính đến ngày khởi kiện đã hơn 01 năm nhưng Công ty CADASA không chịu giao căn nhà và đất cho vợ chồng ông Võ Quang Thảo, bà Huỳnh Thị Thiên Hương nên đã gây thiệt hại. Do vậy vợ chồng ông Thảo, bà Hương khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Công ty CADASA phải thực hiện họp đồng mua bán nhà ngày 15/11/2010 đã ký kết giữa hai bên, thực hiện việc giao hai căn nhà số 61A-B, đường Phan Đình Phùng, phường Trần Hưng Đạo, thành phố Q cho vợ chồng ông sở hữu, sử dụng; Buộc công ty CADASA phải bồi thường thiệt hại cho vợ chồng ông, bà.
Phía bị đơn là Công ty CADASA, đại diện là ông Nguyễn Thế Hùng trình bày cho rằng: Năm 2005 Công ty CADASA đầu tư mua hai thửa đất số 226 và 127, tờ bản đồ số 13, phường Trần Hưng Đạo, thành phố Q và được UBND tỉnh Q cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và xây dựng trên đất 01 nhà sách CADASA và 01 quán cà phê vơi tên gọi HOA VIOLET NGÀY THỨ TƯ. Để có vốn duy trì hoạt động kinh doanh, nên công ty thế chấp 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên cho ngân hàng Eximbank chi nhánh Q để vay số tiền 6.500.000.000 đồng. Do ngân hàng cho vay ngắn hạn trong hạn 01 năm. Đến ngày đáo hạn định kỳ vào thời điểm năm 2010 Ngân hàng hạn chế cho vay tín dụng. Do vậy công ty buộc phải vay vốn từ bên ngoài để trả nợ ngân hàng, Công ty có nhờ vợ chông ông Võ Quang Thảo, bà Huỳnh Thị Thiên Hương cho vay số tiền là 10.000.000.000 đồng với lãi suất 3%/tháng, thời hạn vay là 06 tháng để Công ty giải chấp cho ngân hàng và nợ bên ngoài.
Để đảm bảo số tiền vay, vợ chồng ông Thảo, bà Hương buộc chúng tôi phải ký một hợp đông mua bán nhà có xác nhận của Phòng Công chứng số 1 tỉnh Q vào ngày 15/11/2010. Sau 06 tháng, do công việc làm ăn của công ty vẫn còn gặp nhiều khó khăn về tài chính nên đã thương lượng với ông Thảo, bà Hương cho phép gia hạn thêm thời hạn 06 tháng nữa, nhưng ông Thảo, bà Hương không đồng ý. Hiện nay Công ty CADASA đang cố gắng bằng mọi cách để trả lại vốn và lãi suất vay cho vợ chồng ông Thảo, bà Hương để lấy lại nhà.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 08/2012/DSST ngày 11-5-2012 của TAND thành phố Q nhận định: Hợp đồng mua bán nhà giữa hai bên có hiệu lực kể từ thời điểm công chứng viên Phòng Công chứng số 1 tỉnh Q chứng thực theo Điều 9 của hợp đồng. Quyền sở hữu nhà ở được chuyển cho bên mua là vợ chồng ông Võ Quang Thảo kể từ thời điểm hợp đồng được công chứng theo quy định tại Điều 93 Luật nhà ở, theo điểm e khoản 1 Điều 6 của họp đồng mua bán nhà ngày 15/11/2010 và theo khoản 1 Điều 1 bản “thỏa thuận về việc chuộc lại nhà đã bán” quy định điều kiện chuộc lại nhà trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày hợp đồng được công chứng, nhưng trong thời gian này công ty CADASA không chuộc lại nhà. Như vậy quá thời gian 06 tháng công cy CADASA không còn quyền được chuộc lại nhà đã bán. Từ đó quyết định:
Công nhận hợp đồng.mua bán nhà giữa bên bán là Công ty cổ phần đào tạo nghiên cứu và ứng đụng công nghệ thông tin CADASA và bên mua là ông Võ Quang Thảo, bà Huỳnh Thị Thiên Hương đã được công chứng vào ngày 15/11/2010 tại Phòng Công chứng số 01 tỉnh Q.
Buộc công ty cổ phần đào tạo, nghiên cứu và ứng dụng công nghệ thông tin CADASA phải thực hiện hợp đồng mua bán nhà ngày 15/11/2010, giao căn nhà ở số 61A,B đường Phan Đình Phùng, phường Trần Hưng Đạo, thành phố Q, tỉnh Q có tổng diện tích đất là 489,74m2 thuộc thửa đất số 127 và 226, tờ bản đô số 13 cho vợ chồng ông Võ Quang Thảo bà Huỳnh Thị Thiên Hương sở hữu, sử dụng.
Công ty cổ phần đào tạo, nghiên cứu và ứng dụng công nghệ thông tin CADASA phải bồi thường thiệt hại do việc chậm giao nhà cho vợ chồng ông Võ Quang Thảo, bà Huỳnh Thị Thiên Hương số tiền là 540.000.000 đồng.
Trong quá trình xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm có 2 quan điểm xác định thời điểm chuyển quyền sở hữu nhà như sau:
Quan điểm 1: Trong hợp đồng có thoả thuận: “Hợp đồng này có hiệu lực kể từ thời điểm công chứng viên Phòng Công chứng số 1 tỉnh Q chứng nhận”. Thoả thuận này trái với qui định tại Điều 168 Bộ luật dân sự: “Việc chuyển quyền sở hữu đối với bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký quyền sở hữu”. Bên mua nhà đã giao 10 tỷ, bên bán nhà đã nhận đủ tiền. Khi tiến hành làm thủ tục giữa bên bán và bên mua thì Ủy ban nhân dân thành phố Q chưa xác nhận làm thủ tục mua bán nhà, vì bên mua chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính, nên chưa đủ điều kiện giao trả hồ sơ. Hợp đồng mua bán nhà này sai cả nội dung lẫn hình thức. Nên việc xác định hợp đồng mua bán nhà giữa hai bên là vô hiệu. Thực chất là Công ty có vay 10 tỷ đồng của vợ chồng ông Thảo, bà Hương. Vợ chồng ông Thảo buộc phải ký họp đồng mua bán nhà để đảm bảo số tiền mà vợ chồng ông đã cho Công ty mượn, cho nên đây là hợp đồng giả cách, giả tạo.
Quan điếm thử hai: Y án sơ thẩm, vì trong hợp đồng có thoả thuận thời điểm có hiệu lực từ khi công chứng là phù hợp với quy định tại khoản 5, Điều 93 luật nhà ở 2005. “Quyền sở hữu nhà ở được chuyển cho bên mua, bên nhận tặng cho, bên thuê mua, bên nhận đổi nhà ở kể từ thời điểm hợp đồng được công chứng đối với giao dịch về nhà ở giữa cá nhân với cá nhân hoặc đã giao nhận nhà ở theo thoả thuận trong hợp đồng đối với giao dịch về nhà ở mà một bên là tổ chức kinh doanh nhà ở...”. Khoản 1, Điều 64, nghị định 71/2012 ngày 23/6/2010 hướng dẫn thi hành luật nhà ở: “ Thời điểm chuyển quyền sở hữu nhà ở đối với trường hợp mua bán nhà ở được tính từ ngày hợp đồng mua bán nhà ở được công chứng hoặc chứng thực”. Tại Điều 3 Luật Nhà ở cũng qui định: “Trường hợp có sự khác nhau của Luật này với pháp luật có liên quan về sở hữu nhà ở, phát triển, quản lý việc sử dụng, giao dịch về nhà ở và quản lý nhà nước về nhà ở thì áp dụng quy định của Luật này”.
Hãy cho biết:
1, Có bao nhiêu hợp đồng được các bên xác lập trong tình huống trên: gọi tên chính xác từng hợp đồng đó và nêu đặc điểm pháp lý của loại hợp đồng đó?
2, Trong các hợp đồng đã nêu trên thì hợp đồng nào có hiệu lực và hợp đồng nào vô hiệu?Tại sao?
3, Hãy chọn cho mình một trong hai quan điểm trên và nêu lý do chọn quan điểm đó; đồng thời đưa ra lập luận đề phản bác quan điểm còn lại.
3. Tình huống thứ ba.
Đầu năm 2010 ông S mua chiếc xe ôtô nhãn hiệu Innova, BKS 1234. Do ở tỉnh xa, nên ông có nhờ ông A có hộ khẩu tại thành phố H đứng tên đăng ký quyền sở hữu đối với chiếc xe nói trên.Ngày 23/7/2010, ông S và ông T ký kết hợp đồng thuê xe, theo đó, ông S cho ông T thuê chiếc xe thuộc quyền sở hữu của ông S, thời hạn thuê là 07 ngày, với giá tiền là 1.000.000 đồng/ngày, ông T thế chấp một Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên ông T. Sau khi thuê được xe, ông T giao lại chiếc xe nói trên cho ông M sử dụng (thực chất ông T chỉ thuê xe giúp ông M). Trong quá trình ông M sử dụng, xe bị tai nạn dẫn đến hư hỏng nặng. Sau khi được thông báo việc xe bị tai nạn, ông S đã đưa xe đi sửa chữa tại Công ty Toyota. Do các bên không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án, ông S khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc ông T và ông M liên đới bồi thường cho ông S các khoản tiền sau đây: 61 triệu đồng tiền sửa xe; 162 triệu đồng tiền mất thu nhập (tương ứng với 162 ngày xe không hoạt động); tiền giá trị xe bị giảm 15%, là 82 triệu đồng; và tiền chi phí đi lại để giải quyết công việc là 22.600.000 đồng và 160.000.000 đồng tiền sửa xe (do bảo hiểm từ chối chi trả).
Các đồng bị đơn là ông T, ông M không đồng ý với yêu cầu khởi kiện, vì cho rằng, đối với khoản tiền sửa xe, thì bảo hiểm phải có nghĩa vụ chi trả (vì bảo hiểm hai chiều – chi trả trong mọi trường hợp xe bị hỏng); đối với khoản mất thu nhập thì ông S không có giấy phép kinh doanh vận tải, nên việc ông S cho thuê xe là sai, mặt khác ông S không phải là chủ sở hữu chiếc xe nói trên mà ông S chỉ là người được ủy quyền định đoạt từ ông A; đối với khoản tiền giá trị xe bị giảm, thì theo kết quả định giá và căn cứ vào cách tính khấu hao tài sản, thì chiếc xe nói trên không bị giảm giá trị sau khi sửa chữa. Các bị đơn chỉ đồng ý hoàn trả khoản tiền thuê xe 7.000.000 đồng.
Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận toàn bộ các yêu cầu của nguyên đơn, buộc ông T, M và bảo hiểm tỉnh Đ phải hoàn trả cho ông S các khoản tiền nêu trên.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ông T, ông M kháng cáo không đồng ý bồi thường các khoản mất thu nhập do xe bị hỏng, giá trị xe bị giảm.
Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu kháng cáo, sửa án sơ thẩm; bác yêu cầu khởi kiện đòi tiền mất thu nhập, giá trị xe bị giảm của nguyên đơn.
Hãy cho biết:
1, Có bao nhiêu hợp đồng được các bên xác lập trong hợp đồng trên: đặt tên gọi cho hợp đồng đó và nêu đặc điểm pháp lý của loại hợp đồng đó?
2, Trong các hợp đồng trên, hợp đồng nào có hiệu lực và hợp đồng nào vô hiệu.Tại sao?
3, Những loại thiệt hại nào được yêu cầu bồi thường?Chủ thể nào phải bồi thường thiệt hại, tại sao?
4, Tư vấn giải pháp tổng thể cho tình huống trên.
4. Tình huống thứ tư
Tháng 4 năm 2007, vợ chồng anh A, chị C dùng quyền sử dụng 100m2 đất thổ cư của mình để thế chấp, đảm bảo cho nghĩa vụ của anh D tại một tổ chức tín dụng. Tháng 11/2007, anh A, chị C làm thủ tục xin ly hôn. Tại TAND huyện Đ.A, anh A, chị C đã thỏa thuận được với nhau về việc thuận tình ly hôn, về con cái và về tài sản (trong đó có thỏa thuận việc chia đôi mảnh đất 100m2 nói trên). Tại Tòa án, anh A, chị C không khai báo việc anh, chị đã dùng quyền sử dụng 100m2 đất để thế chấp bảo đảm nghĩa vụ cho anh D tại tổ chức tín dụng. Tòa án huyện Đ.A cũng không tiến hành thu thập chứng cứ để xác minh tình trạng pháp lý của mảnh đất nói trên, nhưng vẫn ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của anh A, chị C như đã trình bày trên.
Sau khi Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự của TAND huyện Đ.A có hiệu lực pháp luật, anh A, chị C đã yêu cầu cơ quan quản lý nhà đất tại địa phương căn cứ vào quyết định của Tòa án để tách thửa, chia đôi mảnh đất và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho anh A, chị C. Ngay sau khi được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới, anh A, chị C đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho người khác và đã nhận đủ tiền để chi tiêu cho công việc cá nhân. Đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng tín dụng giữa anh D và tổ chức tín dụng, anh D không trả được nợ, Tổ chức tín dụng đã yêu cầu phát mại tài sản bảo đảm là quyền sử dụng 100m2 đất của anh A, chị C, khi đó Tổ chức tín dụng mới biết là tài sản bảo đảm đã bị phân chia và chuyển nhượng cho những người khác một cách công khai, ngay tình, đúng pháp luật. Tổ chức tín dụng có công văn yêu cầu Tòa án cấp trên xem xét vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
Hãy cho biết:
1, Có bao nhiêu hợp đồng được các bên xác lập trong hợp đồng trên: đặt tên gọi cho hợp đồng đó và nêu đặc điểm pháp lý của loại hợp đồng đó?
2, Trong các hợp đồng trên, hợp đồng nào có hiệu lực và hợp đồng nào vô hiệu.Tại sao?
3, Tổ chức tín dụng có quyền xử lý tài sản thế chấp nêu trên không?Tại sao?
4, Tư vấn giải pháp tổng thể cho tình huống trên.
Hà Nội ngày 30/3/2015
Phụ trách TBM Luật Dân Sự
TS. Vũ Thị Hồng Yến
(Đã ký)
Ngày nhận bài tập nhóm tuần 12 từ 30/3/2014
Ngày nộp bài tập nhóm tuần 15 từ 20/4/2014
Yêu cầu của bài tập nhóm:
- Mỗi nhóm chọn một vụ việc trong bốn vụ việc dưới đây, các nhóm thuyết trình trong một ca thảo luận không được trùng nhau về vụ việc.
- Phải có biên bản phân công công việc cho các thành viên trong nhóm và đánh giá kết quả làm việc của từng thành viên.
- Sản phẩm của mỗi nhóm gồm: 01 bản word nộp cho tổ bộ môn Luật Dân sự (từ 3 trang đến 10 trang – không kể đề bài), 01 bản thuyết trình được chuẩn bị dưới dạng powerpoint hoặc sơ đồ tóm tắt mô tả vụ án được trình bày trên khổ giấy Ao.
- Cộng điểm:
+ Phương pháp và kỹ thuật thuyết trình tốt sẽ được giảng viên cộng điểm từ 0,5 đến 1 điểm.
+ Các lập luận có cơ sở về lý luận và luật thực định được viện dẫn chính xác sẽ được cộng từ 0,5 đến 1 điểm.
No comments:
Post a Comment