25/11/2014
Tình huống tội cướp giật tài sản thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng - Bài tập học kỳ Luật Hình sự 1
TÌNH HUỐNG: K có hành vi cướp giật tài sản của người khác có giá trị 50 triệu đồng. Hành vi phạm tội của K được quy định tại khoản 2 Điều 136 BLHS. K bị Tòa án xử phạt 3 năm tù. 

Câu hỏi:

1. Tội phạm mà K đã thực hiện thuộc loại tội gì theo phân loại tội phạm tại khoản 3 Điều 8 BLHS?

2. Hành vi phạm tội của K thuộc CTTP cơ bản, CTTP tăng nặng hay CTTP giảm nhẹ của tội cướp giật tài sản? Tại sao?

3. Nếu K mới 15 tuổi 6 tháng thì K có phải chịu TNHS về hành vi của mình không? Tại sao?

4. Nếu K đang bị mắc bệnh tâm thần thì K có phải chịu TNHS về hành vi của mình không? Tại sao?

5. Có thể cho K hưởng án treo không? Tại sao?

GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG

Vấn đề 1. Tội phạm mà K đã thực hiện thuộc loại tội gì theo phân loại tội phạm tại khoản 3 Điều 8 BLHS?

Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi được quy định trong Bộ luật hình sự, tội phạm được phân thành 4 loại: tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Theo khoản 3 điều 8 Bộ luật hình sự: tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tôi phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.

Tội cướp giật tài sản được quy định tại Điều 136 Bộ luật hình sự với 5 khoản trong đó có 4 khoản quy định về mức phạt tù (từ khoản 1 đến khoản 4). Từ những quy định đó cùng với các quy định tại Điều 8 Bộ luật hình sự về phân loại tội phạm thì tội trộm cắp tài sản được phân loại như sau:

Thứ nhất, theo khoản 1 Điều 136: "Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm". Căn cứ vào mức cao nhất của khung hình phạt là 5 năm tù thì tội cướp giật tài sản tại khoản này thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng.

Thứ hai, theo khoản 2 Điều 136: "Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Tái phạm nguy hiểm;

d) Dùng thủ đoạn nguy hiểm;

đ) Hành hung để tẩu thoát;

e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%;

g) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

h) Gây hậu quả nghiêm trọng".

Với mức cao nhất của khung hình phạt là 10 năm tù thì tội cướp giật tại khoản 2 thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng.

Thứ ba, theo khoản 3 điều 136: "Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ bảy đến mười lăm năm:

a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%;

b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đến dưới năm trăm triệu đồng;

c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng"

Với mức cao nhất của khung hình phạt là 15 năm tù thì tội cướp giật tài sản tại khoản 3 thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng.

Thứ tư, theo khoản 4 điều 136: "Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người;

b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

c) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng"

Với mức cao nhất của khung hình phạt là tù chung thân thì tội cướp giật tài sản tại khoản 4 thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Căn cứ vào sự phân loại trên, áp dụng vào tình huống của đề bài thì K đã cướp giật tài sản có giá trị 50.000.000 đồng là giá trị được quy định trong khoảng giá trị tại khoản 2 điều 136: "từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng", như vậy với mức cao nhất của khung hình phạt được quy định tại điều này là 10 năm thì tội cướp giật tài sản trong tình huống trên thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng.

Vấn đề 2. Hành vi phạm tội của K thuộc CTTP cơ bản, CTTP tăng nặng hay CTTP giảm nhẹ của tội cướp giật tài sản? Tại sao?

Các trường hợp phạm tội của tội phạm nhất định tuy có những nội dung biểu hiện riêng ở bốn yếu tố khách thể, chủ thể, mặt khách quan và mặt chủ quan của tội phạm nhưng cũng có những nội dung biểu hiện giống nhau ở cả bốn yếu tố đó. Những biểu hiện giống nhau đó được coi là những dấu hiệu chung có tính đặc trưng của tội phạm nhất định. Khi quy định tội phạm trong luật, nhà làm luật phải sử dụng các dấu hiệu này để mô tả tội phạm. Trong khoa học luật hình sự, sự mô tả này được gọi là cấu thành tội phạm.

Cấu thành tội phạm là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính đặc trưng cho loại tội phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự.

Trong đó, cấu thành tội phạm được phân thành các loại khác nhau theo từng khía cạnh:

• Phân loại theo mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội được cấu thành tội phạm phản ánh thì cấu thành tội phạm phân thành:

+ Cấu thành tội phạm cơ bản: là cấu thành tội phạm chỉ có dấu hiệu định tội - dấu hiệu mô tả tội phạm và cho phép phân biệt tội này với tội khác.

+ Cấu thành tội phạm tăng nặng: là cấu thành tội phạm mà ngoài dấu hiệu định tội còn có thêm dấu hiệu phản ánh tội phạm có mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội tăng lên một cách đáng kể (so với trường hợp bình thường).

+ Cấu thành tội phạm giảm nhẹ: là cấu thành tội phạm mà ngoài dấu hiệu định tội còn có thêm dấu hiệu phản ánh tội phạm có mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội giảm xuống một cách đáng kể (so với trường hợp bình thường).

Trước hết, nhà làm luật xây dựng cấu thành tội phạm cơ bản cho mỗi loại tội phạm, trên cơ sở cấu thành tội phạm cơ bản đó nhà làm luật căn cứ vào tình hình tội phạm và yêu cầu đấu tranh phòng chống với mỗi loại tội có thể xây dựng một hoặc nhiều cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc giảm nhẹ. Những dấu hiệu có thêm trong cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc giảm nhẹ trong luật hình sự được gọi là những dấu hiệu định khung.
• Phân loại theo đặc điểm cấu trúc của cấu thành tội phạm, có thể chia cấu thành tội phạm thành cấu thành tội phạm vật chất và cấu thành tội phạm hình thức:

+ Cấu thành tội phạm vật chất là cấu thành tội phạm có các dấu hiệu của mặt khách quan là hành vi, hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả

+ Cấu thành tội phạm hình thức là cấu thành tội phạm có một dấu hiệu của mặt khách quan là hành vi nguy hiểm cho xã hội.

Ngoài ra, dựa vào đặc điểm cấu trúc của các dấu hiệu thuộc mặt khách quan, có thể phân chia cấu thành tội phạm thành loại thứ ba - cấu thành tội phạm cắt xén.

Tại khoản 1 điều 136 có ghi rõ về cấu thành tội phạm cơ bản của tội cướp giật tài sản như sau : "Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm". Còn tại các khoản 2;3;4 có quy định các tình tiết tăng nặng định khung trong đó khoản 2 có ghi: "Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:... Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng...". Vậy hành vi phạm tội của K không chỉ dừng lại ở cấu thành tội phạm cơ bản (hành vi cướp giật tài sản) mà còn thỏa mãn cả tình tiết tăng nặng định khung tại khoản 2 điều 136 là giá trị số tiền mà K cướp giật lên đến 50 triệu đồng. Từ những phân tích trên ta thấy hành vi phạm tội của K thuộc cấu thành tội phạm tăng nặng.

Vấn đề 3. Nếu K mới 15 tuổi 6 tháng thì K có phải chịu TNHS về hành vi của mình không? Tại sao?

Điều 12 Bộ luật hình sự quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau:

1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.

2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Như vậy với độ tuổi của K là 15 tuổi 6 tháng, là độ tuổi chưa thành niên nhưng tội phạm mà K đã vi phạm là tội rất nghiêm trọng và rõ ràng là hành vi phạm tội cố ý đồng thời có cấu thành phạm tội tăng nặng như khẳng định ở trên thì theo khoản 2 điều 12 Bộ luật hình sự K phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.

Vấn đề 4. Nếu K đang bị mắc bệnh tâm thần thì K có phải chịu TNHS về hành vi của mình không? Tại sao?

Năng lực trách nhiệm hình sự là điều kiện cần thiết để có thể xác định con người có lỗi khi họ thực hiện hành vu nguy hiểm cho xã hội. Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và có khả năng điều khiển được hành vi ấy.

Người có năng lực trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam là người đã đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (Điều 12 Bộ luật hình sự) và không thuộc trường hợp ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (Điều 13 Bộ luật hình sự)

Trong đó, điều 13 Bộ luật hình sự có quy định như sau: "Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự…"

Như vậy có hai dấu hiệu để xác định tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là dấu hiệu về mặt y học (mắc bệnh) và dấu hiệu về mặt tâm lí (mất năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển hành vi)

+ Về dấu hiệu y học: Người trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là người mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm rối loạn hoạt động tâm thần.

+ Về dấu hiệu tâm lí: Người trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là người đã mất năng lực hiểu biết những đòi hỏi của xã hội liên quan đến hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện, là người không có năng lực đánh giá hành vi đã thực hiện là đúng hay sai, nên làm hay không nên làm. Và như vậy, họ cũng không thể có được năng lực kiềm chế việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội để thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội.

Hai dấu hiệu này có quan hệ với nhau trong đó dấu hiệu y học đóng vai trò là nguyên nhân còn dấu hiệu tâm lí có vai trò là kết quả.

Với trường hợp của K là đang bị mắc bệnh tâm thần thỏa mãn cả 2 dấu hiệu y học và tâm lí nên được coi là tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự và theo điều 13 Bộ luật hình sự thì K không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.

Tuy nhiên, người trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự còn có thể là người tuy có năng lực nhận thức, khả năng đánh giá tính chất xã hội của hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình nhưng do các xung động bệnh lí không thể kiềm chế được việc thực hiện hành vi đó tuy nhiên nếu K rơi vào trường hợp này thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội đã thực hiện nhưng đây là trường hợp do mắc bệnh nên năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển hành vi đã bị hạn chế và luật hình sự Việt Nam coi đây là tình trạng năng lực trách nhiệm hình sự hạn chế và coi là tình tiết giảm nhẹ, tình tiết này được quy định ở điều 46 Bộ luật hình sự.

Vấn đề 5. Có thể cho K hưởng án treo không? Tại sao?

Khoản 1 điều 60 Bộ luật hình sự có quy định về Án treo: "Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm".

Theo nghị quyết hướng dẫn Điều 60 của Bộ luật hình sự về án treo số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06 tháng 11 năm 2013, điều kiện để xét cho một người bị xử phạt tù được hưởng án treo như sau:

a) Bị xử phạt tù không quá 3 năm về tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng theo phân loại tội phạm quy định tại khoản 3 Điều 8 của Bộ luật hình sự.

b) Có nhân thân tốt được chứng minh là ngoài lần phạm tội này họ luôn tôn trọng các quy tắc xã hội, chấp hành đúng chính sách, pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của công dân nơi cư trú, công tác; không vi phạm các điều mà pháp luật cấm; chưa bao giờ bị kết án, bị xử lý vi phạm hành chính, bị xử lý kỷ luật.

Trường hợp người phạm tội có án tích nhưng đã được xóa án tích, được đương nhiên xóa án tích thì coi là chưa bị kết án; đã bị xử lý hành chính, xử lý kỷ luật nhưng đã hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc hết thời hiệu xử lý vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật thì được coi là chưa bị xử lý hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật, nhưng không phải là có nhân thân tốt. Việc cho hưởng án treo đối với những trường hợp này phải hết sức chặt chẽ. Chỉ có thể xem xét cho hưởng án treo khi thuộc một trong các trường hợp sau:

  b1) Người bị kết án từ trên 3 năm tù đến 15 năm tù về tội do cố ý (kể cả trường hợp tổng hợp hình phạt của nhiều tội hoặc nhiều bản án) mà thời gian được xóa án tích tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 2 năm.

  b2) Người bị kết án đến 3 năm tù về tội do cố ý mà thời gian được xóa án tích tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 1 năm.

  b3) Người bị kết án về các hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ mà thời gian được xóa án tích tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 1 năm.

  b4) Người bị kết án về các tội do vô ý mà đã được xóa án tích.

  b5) Người đã bị đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc từ hai lần trở lên mà thời gian được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 2 năm.

  b6) Người đã bị đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc một lần và có nhiều lần bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc xử lý kỷ luật mà thời gian được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 2 năm.

  b7) Người đã bị đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc mà thời gian được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 18 tháng.

  b8) Người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc xử lý kỷ luật từ hai lần trở lên mà thời gian được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 18 tháng.

  b9) Người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc xử lý kỷ luật về hành vi có cùng tính chất với hành vi phạm tội lần này mà thời gian được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 1 năm.

  b10) Người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc xử lý kỷ luật mà thời gian được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 6 tháng.

  b11) Người đã bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đã hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý hành chính.

c) Có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng.

d) Không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự và có từ hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên trong đó có ít nhất một tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự; nếu có một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì phải có từ ba tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự.

e) Có khả năng tự cải tạo và nếu không bắt họ đi chấp hành hình phạt tù thì không gây ảnh hưởng xấu đến cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, đặc biệt là các tội phạm về tham nhũng.

Với các giả thiết tình huống cho không thể xác định được nhân thân hay các tình tiết giảm nhẹ hay các điều kiện khác rõ ràng để xét xem K có thể được hưởng án treo hay không. Vậy nên nếu trường hợp cụ thể K thỏa mãn các điều kiện trên thì K có thể được hưởng án treo và ngược lại, nếu không thỏa mãn các điều kiện trên thì K không thể xem xét để được hưởng án treo.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật hình sự Việt Nam. NXB Lao động năm 2013.
2. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam. Đại học Luật Hà Nội. NXB Công an nhân dân, Hà Nội năm 2013.
3. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội.
4. Mô hình luật hình sự Việt Nam, Nguyễn Ngọc Hòa. NXB Công an nhân dân, Hà Nội năm 2008.

No comments:

Post a Comment