PHẦN BA - NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
CHƯƠNG IX - SỰ RA ĐỜI VÀ BẢN CHẤT CỦA NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Tính tất yếu khách quan và sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa:
1.1. Tính tất yếu khách quan:
Ý tưởng về một xã hội công bằng, bình đẳng và bác ái đã xuất hiện từ lâu. Ý tưởng đó xuất phát từ nguyện vọng cửa nhân dân lao động muốn thoát khỏi sự bất công, bạo lực và chuyên chế, ước mơ xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó những giá trị chân chính của con người được tôn trọng, mọi người đều có điều kiện để tự do phát triển với tất cả mọi năng lực của mình. Những cuộc đấu tranh không ngừng của nhân dân lao động trong lịch sử đã chứng minh cho điều đó.
Tuy nhiên, mãi đến cuối thế kỷ XV, đầu thế kỷ XVI tư tưởng về chủ nghĩa xã hội (mặc dù đó còn là chủ nghĩa xã hội không tưởng) mới được hình thành rõ nét. Thomas More (1478 - 1535), một trong những người sáng lập ra chủ nghĩa xã hội không tưởng, trong tác phẩm nổi tiếng "Utôpia" (Xứ không tưởng) đã phê phán chế độ chính trị - xã hội đương thời ở Anh, đồng thời phác họa một mô hình xã hội, ở đó chế độ nhà nước được xây dựng dựa trên sự bình đẳng và tự do của mọi người, tất cả những nhà chức trách đều do nhân dân bầu ra, phải báo cáo trước nhân dân và phải hoạt động vì lợi ích của nhân dân. Trong xã hội như vậy, chế độ công hữu thống trị và lao động mang tính bắt buộc. Sau Thomas More, Tomado Campanela (1568 - 1639), tác giả của tác phẩm "Thành phố mặt trời" và "Luận về thể chế nhà nước tốt nhất", đã tiếp tục phát triển tư tưởng của Th.More và đi đến kết luận rằng, chế độ chính trị - xã hội lý tưởng mang lại quyền lợi cho những người lao động đó là chế độ dựa trên sở hữu xã hội. Những nguyên tắc xã hội chủ nghĩa của xã hội lý tưởng sẽ kéo theo cả sự thay đổi tính chất của chế độ chính trị. T.Campanela cũng đã có tư tưởng về giáo dục trong xã hội lý tưởng đó là, giáo dục gắn liền với lao động sản xuất và đề cao vai trò của sự phát triển khoa học.
Mặc dù thấm đượm tư tưởng tiến bộ, chủ nghĩa xã hội của Th.More và T.Campannela còn nhiều điểm ngây thơ và không tưởng. Cả hai ông cùng chưa hình dung được một cách cụ thể và có căn cứ khoa học về việc tạo lập một xã hội mới tết đẹp hơn, chưa nhận thức được một cách đúng đắn vai trò của những tiền đề chính trị, kinh tế và tư tưởng để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thậm chí hai ông còn lẫn lộn giữa pháp luật với đạo đức, chưa đoạn tuyệt được hoàn toàn với hệ tư tưởng tôn giáo ...
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa xã hội khoa học, trên cơ sở tổng kết thực tiễn đấu tranh cách mạng và những phát hiện khoa học mới về quy luật phát triển khách quan của xã hội, đã đưa ra một lý thuyết khoa học về xã hội xã hội chủ nghĩa với lý tưởng dân chủ, công bằng và nhân đạo, chỉ ra con đường và các biện pháp để tạo lập xã hội đó. Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa xã hội khoa học, nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu nhà nước cuối cùng trong lịch sử xã hội loài người. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà nước xã hội chủ nghĩa là tất yếu khách quan, phù hợp với các quy luật vận động và phát triển của xã hội. Nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa là những tiền đề kinh tế, chính trị và xã hội đã phát sinh trong lòng xã hội tư bản chủ nghĩa.
- Những tiền đề kinh tế: Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ở thời kỳ đầu của sự phát triển tư bản chủ nghĩa đã là những quan hệ sản xuất tiến bộ so với quan hệ sản xuất phong kiến, đã tạo ra điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nhưng do quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa được xây dựng trên cơ sở chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và bóc lột giá trị thặng dư cho nên khi chủ nghĩa tư bản đã phát triển đến giai đoạn chủ nghĩa đế quốc thì những quan hệ đó đã trở nên mâu thuẫn, không còn phù hợp với lực lượng sản xuất đã phát triển đến một trình độ xã hội hóa rất cao được nữa. Mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất ngày càng trở nên gay gắt đòi hỏi phải có một cuộc cách mạng để Xóa bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, thiết lập một kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đó là kiểu quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Cách mạng về quan hệ sản xuất tất yếu sẽ dẫn đến sự thay thế kiểu nhà nước tư sản bằng kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa.
- Những tiền đề chính trị - xã hội: Đặc điểm của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã quyết định bản chất và đặc điểm của nhà nước tư sản. Đến giai đoạn đế quốc chủ nghĩa đã xuất hiện chủ nghĩa tư bản lũng loạn nhà nước. Nhà nước tư sản đã trực tiếp tham gia vào nhiều hoạt động kinh tế, trở thành công cụ trong tay giới tư bản độc quyền, để củng cố và duy trì những quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, nhằm phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản mà trước hết là của các tập đoàn tư bản lũng loạn nhà nước. Chính vì vậy, bản chất của nhà nước tư sản ngày càng biến đổi rõ nét, trong hoạt động của mình, nhà nước tư sản ngày càng sử dụng nhiều hơn những phương pháp phản dân chủ, quan liêu và độc tài nhưng được che đậy dưới các hình thức dân chủ. Điều đó càng làm cho những mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và vô sản trở nên căng thẳng, tạo tiền đề cho cách mạng vô sản nổ ra.
Mặt khác, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã tạo ra những điều kiện làm cho giai cấp vô sản ngày càng phát triển nhanh về số lượng và cao về tính tổ chức kỷ luật, trở thành giai cấp tiến bộ nhất của xã hội, có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo các tầng lớp nhân dân lao động đứng lên làm cách mạng để lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, xóa bỏ nhà nước tư sản, xây dựng nhà nước của giai cấp mình. Trong cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản, các Đảng cộng sản đã được thành lập đề lãnh đạo phong trào cách mạng và trở thành nhân tố có ý nghĩa quyết định sự thắng lợi của cách mạng. Giai cấp vô sản lại có chủ nghĩa Mác-Lênin là vũ khí lý luận sắc bén để nhận biết đúng đắn những quy luật vận động và phát triển của xã hội, là cơ sở lý luận để tổ chức, tiến hành cách mạng và xây dựng nhà nước của giai cấp mình sau chiến thắng của cách mạng.
- Ngoài những tiền đề trên, những yếu tố dân tộc và thời đại cũng tác động mạnh mẽ đến phong trào cách mạng của giai cấp vô sản và nhân dân lao động trong mỗi nước. Dưới tác động của nhiều yếu tố khác nhau, cùng với sự mâu thuẫn gay gắt giữa giai cấp vô sản và nhân dân lao động với các giai cấp bóc lột, cách mạng vô sản cũng có thể xảy ra ở những nước có chế độ tư bản chủ nghĩa chưa phát triển cao hoặc trong các nước dân tộc thuộc địa.
Thực tế lịch sử đã chứng minh, từ sau năm 1917 khi nhà nước Xô viết ra đời, đặc biệt từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã được hình thành, trở thành nhân tố có tác động mạnh mẽ tới sự phát triển của xã hội, đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của cách mạng trong nhiều nước, trong đó có những nước dân tộc thuộc địa và các nước chế độ tư bản chủ nghĩa chưa phát triển, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc đã diễn ra trong nhiều nước và giành được thắng lợi. Nhiều nước đã tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Trong giai đoạn lịch sử hiện nay tình
hình quốc tế có những diễn biến phức tạp. Nhưng như Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ được thông qua tại Đại hội VII của Đảng đã xác định: “Đặc điểm nổi bật của thời đại là cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc gay go, phức tạp của nhân dân các nước vì hòa bình độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Chủ nghĩa xã hội hiện đứng trước nhiều khó khăn thử thách. Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co song, loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử”.
1.2. Sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa:
Những tiền đề kinh tế, chính trị - xã hội và những yếu tố nêu trên tạo ra điều kiện thuận lợi cho cách mạng vô sản nổ ra. Nhưng cách mạng vô sản sẽ diễn ra với kết quả như thế nào còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Vì vậy, bên cạnh việc nghiên cứu những nguyên nhân khách quan dẫn đến sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa, còn cần phải nghiên cứu những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng vô sản, về việc tổ chức và thực hiện chính quyền của giai cấp vô sản sau khi cách mạng thành công.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định: Vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền. Mục đích của cách mạng vô sản cũng chính là nhằm lật đổ chính quyền của giai cấp tư sản để thiết lập chính quyền của giai cấp vô sản. Nhưng giai cấp tư sản (cũng như các giai cấp thống trị bóc lột nói chung) không bao giờ tự nguyện rời bỏ chính quyền của mình, mà sẽ tìm mọi cách, mọi thủ đoạn để giữ cho được chính quyền đó. Vì vậy giai cấp vô sản dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản phải dùng bạo lực tiến hành cách mạng để giành lấy chính quyền về tay mình. Chỉ khi nào bạo lực cách mạng của giai cấp vô sản và quần chúng lao động mạnh hơn bạo lực của giai cấp bóc lột thì mới có thể giành được chính quyền từ tay chúng. Đảng cộng sản Việt Nam ngay từ hội nghị trung ương lần thứ VIII (năm 1941) trên cơ sở tổng kết việc chỉ đạo cách mạng ở Việt
Nam đã chỉ rõ: Cách mạng Việt Nam muốn giành được thắng lợi thì nhất thiết phải vũ trang khởi nghĩa giành chính quyền và sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật sẽ thành lập một chính phủ cách mạng của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa "Chính phủ của nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa do Quốc dân đại hội cử lên".
Bạo lực cách mạng có thể là lực lượng vũ trang, có thể là lực lượng chính trị hiểu theo nghĩa hẹp, có thể là lực lượng vũ trang kết hợp với lực lượng chính trị. Đó là sức mạnh tổng hợp của quần chúng cách mạng chống lại bạo lực phản động của giai cấp bóc lột. Nắm vững quan điểm bạo lực cách mạng, Đảng cộng sản Việt Nam cũng như các đảng cộng sản khác trong nhiều nước đã coi trọng việc đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, sử dụng nhiều hình thức và phương pháp sáng tạo, phù hợp với điều kiện của mỗi nước để xây dựng lực lượng cách mạng, phát huy sức mạnh tổng hợp của quần chúng cách mạng để giành chiến thắng và thiết lập nhà nước của giai cấp vô sản.
Cách mạng vô sản khác hẳn với các cuộc cách mạng khác của giai cấp bóc lột về bản chất và mục đích của cách mạng. Các cuộc cách mạng của các giai cấp bóc lột khác nhau đều nhằm mục đích xây dựng một chế độ áp bức, bóc lột ở trình độ cao hơn. Vì vậy, kết quả của các cuộc cách mạng đó là thay đổi chính quyền của giai cấp bóc lột cũ, nhưng về thực chất chỉ là một bộ máy nhà nước được hoàn bị ở trình độ cao hơn, còn bản chất của bộ máy bạo lực đó vẫn không thay đổi. C.Mác viết: "Tất cả các cuộc chính biến, đáng lẽ đập tan bộ máy đó thì lại chỉ làm cho nó thêm hoàn bị mà thôi".
Còn mục đích của cách mạng vô sản không những chỉ là lật đổ sự thống trị của các giai cấp bóc lột giành chính quyền về tay mình mà còn là xây dựng một kiểu nhà nước mới xóa bỏ mọi sự áp bức, bóc lột. Vì vậy, giai cấp vô sản sau khi giành được chính quyền không thể sử dụng hoặc cải tạo bộ máy nhà nước cũ để phục vụ cho mục đích của giai cấp mình. Giai cấp vô sản cần phải có một kiểu chính quyền có bản chất mới phù hợp với ý chí và nguyện vọng của nhân dân lao động. Để thực hiện mục đích đó, giai cấp vô sản phải đùng bạo lực cách mạng để đập tan bộ máy nhà nước cũ. Việc đập tan bộ máy nhà nước cũ đòi hỏi phải thực hiện một
cách kiên quyết và triệt để. Phải tiến hành thủ tiêu ngay bộ máy quân sự - quan liêu bao gồm những công cụ bạo lực của nhà nước như: Quân đội, canh sát, tòa án, hệ thống các nhà tù, trại giam và toàn bộ hệ thống bộ máy nhà nước từ trung ương xuống địa phương. Đồng thời, phải có các biện pháp cấm mọi hoạt động của các tổ chức phản động khác đã là chỗ dựa cho chính quyền cũ. Kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam tháng 8/1945 và sau ngày giải phóng 30 tháng 4 năm 1975, cũng như của cách mạng các nước xã hội chủ nghĩa đã khẳng định sự đúng đắn của nguyên lý nói trên.
Tuy nhiên, khi tiến hành đập tan bộ máy nhà nước bóc lột cần chú ý phân biệt bộ máy hành chính - quân sự quan liêu với những tổ chức và cơ sệ khác như hệ thống các cơ quan thống kê, bưu điện, nhà băng... Những tổ chức và cơ sở này mặc dù dưới chế độ cũ cũng được sử dụng vào mục đích áp bức, bóc lột nhưng chúng có yếu tố cần thiết cho việc quản lý kinh tế xã hội mới. Đối với những tổ chức và cơ sở này cần phải giữ lại để cải tạo, tổ chức lại cho phù hợp với mục tiêu xây dựng một chế độ kinh tế - xã hội mới. Song song với việc tiến hành đập tan bộ máy nhà nước cũ, giai cấp vô sản dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, phải nhanh chóng xây dựng bộ máy nhà nước mới của giai cấp mình để bảo vệ thành quả cách mạng, đồng thời để tổ chức và quản lý mọi mặt của xã hội trong điều kiện hoàn cảnh mới.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời là kết quả của cách mạng do giai cấp vô sản và nhân dân lao động tiến hành dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Nhưng cách mạng của mỗi nước có những điều kiện và hoàn cảnh khác nhau, cho nên sự ra đời của các nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng như việc tổ chức chính quyền sau khi cách mạng thành công cũng có những đặc điểm đặc thù riêng. Mỗi nước sẽ chọn cho mình những phương pháp và hình thức phù hợp. Nhưng đã ra đời trong điều kiện và hoàn cảnh nào thì nhà nước xã hội chủ nghĩa đều là nhà nước có chung một bản chất.
Sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa trong lịch sử đã diễn ra ở những thời điểm quan trọng và được thể hiện dưới các hình thức sau:
- Công xã Pari ra đời trong cuộc khởi nghĩa vũ trang của công nhân Pari năm 1871.
- Nhà nước Xô viết, ra đời sau Cách mạng tháng Mười (1917) vĩ đại.
- Nhà nước dân chủ nhân dân ra đời do kết quả của cuộc đấu tranh giải phóng và các cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân sau chiến tranh thế giới thứ hai ở Châu Au.
- Nhà nước Cộng hòa Cu-ba.
- Ở Việt Nam, tháng Tám năm 1945, nắm vững thời cơ khi phát xít Nhật đầu hàng đồng minh, Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đã phát động nhân dân ta vùng dậy làm cách mạng tháng Tám thành công, lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông nam châu á. Ngay từ khi mới ra đời, Nhà nước cộng hòa non trẻ đã phải tiến hành cuộc kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp, năm 1954 miền Bắc được giải phóng, miền Nam vẫn tiếp tục cuộc kháng chiến chống xâm lược và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trong điều kiện đó chính quyền dân chủ nhân dân ở nước ta đã làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản.
Tháng 4/1975 đất nước hoàn toàn giải phóng, Việt Nam bước sang một giai đoạn phát triển mới - giai đoạn cả nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Ngày nay, trước những thử thách lớn lao của thời đại, với đường lối đổi mới do Đại hội VI của Đảng đề ra và được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 1 992, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã và đang từng bước đổi mới, vượt qua khủng hoảng, vững chắc đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
2. Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa:
Về mặt lý thuyết cũng như thực tiễn đã cho thấy rõ, nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước kiểu mới có bản chất khác với bản chất của các kiểu nhà nước bóc lột. Bản chất đó do cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa và đặc điểm của quyền lực chính trị trong chủ nghĩa xã hội quy định.
Trong chủ nghĩa xã hội, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa được thiết lập và củng cố dựa trên cơ sở của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất - đó là kiểu quan hệ sản xuất thể hiện sự hợp tác, tương trợ không có áp bức bóc lột. Giai cấp vô sản là người giữ địa vị thống trị về chính trị. Nhưng sự thống trị về chính trị của giai cấp vô sản đã thể hiện bản chất và mục đích khác hẳn với sự thống trị về chính trị của các giai cấp bóc lột. Sự thống trị của giai cấp bóc lột là sự thống trị của thiểu số đối với tất cả các giai cấp bị áp bức, bóc lột, để bảo vệ lợi ích của chúng. Còn sự thống trị về chính trị của giai cấp vô sản là sự thống trị của đa số đối với giai cấp bóc lột, chỉ là thiểu số trong dân cư, nhằm mục đích giải phóng giai cấp mình và tất cả người lao động. Mặt cơ bản nhất trong sự thống trị về chính trị của giai cấp vô sản là sự lãnh đạo của giai cấp vô sản đối với toàn xã hội trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên cơ sở của chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa, là công cụ để thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp vô sản. Bản chất và mục đích của nhà nước xã hội chủ nghĩa thể hiện ở những đặc điểm cơ bản sau đây:
2.1. Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là một bộ máy chính trị - hành chính, một cơ quan cưỡng chế, vừa là một tổ chức quản lý kinh tế xã hội của nhân dân lao động, nó không còn là nhà nước theo đúng nghĩa mà chỉ là "nửa nhà nước".
Tất cả các nhà nước bóc lột đều là nhà nước theo đúng nghĩa của nó, nghĩa là bộ máy của thiểu số những kẻ bóc lột để trấn áp đa số nhân dân lao động bị áp bức bóc lột … Phù hợp với bản chất đó, các nhà nước bóc lột đều là bộ máy hành chính - quân sự quan liêu, một bộ máy bạo lực để thực hiện sự đàn áp nhân dân lao động, bảo vệ sự thống trị của giai cấp bóc lột.
Khác với các nhà nước bóc lột, nhà nước xã hội chủ nghĩa không đơn thuần chỉ là bộ máy hành chính – cưỡng chế mà nó còn là một tổ chức quản lý kinh tế xã hội. Hơn thế, bộ máy hành chính cưỡng chế của nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng đã có bản chất và đặc điểm khác: Đó là bộ máy do giai cấp công nhân và nhân dân lao động tổ chức ra để trấn áp giai cấp bóc lột đã bị lật đổ và những phần tử phản động để bảo vệ thành quả cách mạng, giữ vững an ninh chính trị, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của kinh tế xã hội. Cho nên, mặc dù trong thời kỳ quá độ sự trấn áp vẫn còn là tất yếu, nhưng nó đã là sự trấn áp của đa số nhân dân lao động đối với thiểu số bóc lột. "Cơ quan đặc biệt, bộ máy trấn áp đặc biệt là "nhà nước" vẫn còn cần thiết, nhưng nó đã là nhà nước quá độ, mà không còn là nhà nước theo đúng nghĩa nữa. Sự trấn áp ấy có thể dung hợp với việc mở rộng chế độ dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân, khiến cho sự cần thiết phải có một bộ máy trấn áp đặc biệt cũng bắt đầu mất dần".
Tuy nhiên, do tính chất gay gắt của cuộc đấu tranh giai cấp việc củng cố và tăng cường sức mạnh của bộ máy hành chính - cưỡng chế của nhà nước xã hội chủ nghĩa là vấn đề quan trọng không thể coi nhẹ, nhất là trong giai đoạn đầu sau khi cách mạng thành công, cũng như trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình vận động và phát triển, cùng với những thắng lợi trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, vai trò làm chủ của nhân dân lao động ngày càng được phát huy, các phần tử bóc lột và phản cách mạng được cải tạo trở thành những người lao động chân chính … thì bộ máy hành chính cưỡng chế của nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ ngày càng được xây dựng một cách tinh giản hơn và việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế sẽ được thực hiện trên cơ sở kết hợp cùng với các biện pháp giáo dục, thuyết phục và các biện pháp kinh tế.
Mặt khác, để thực hiện thắng lợi chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, bảo đảm thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, nhà nước xã hội chủ nghĩa bên cạnh việc xây dựng và củng cố bộ máy hành chính cưỡng chế đặc biệt phải chú ý củng cố và tăng cường bộ máy quản lý kinh tế - xã hội. Bởi vì theo V.I. Lênin “chuyên chính vô sản không phải chỉ là bạo lực đối với bọn bóc lột và cũng không phải chủ yếu là bạo lực. Cơ sở kinh tế của bạo lực cách mạng đó, cái bảo đảm sức sống và thắng lợi của nó là giai cấp vô sản đưa ra và thực hiện được kiểu tổ chức lao động cao hơn so với chủ nghĩa tư bản; đây là thực chất của vấn đề. Đấy là nguồn sức mạnh, là điều bảo đảm cho thắng lợi hoàn toàn và tất nhiên của chủ nghĩa cộng sản".
Cải tạo xã hội cũ, xây dựng thành công xã hội mới là nội dung chủ yếu và mục đích cuối cùng của nhà nước xã hội hủ nghĩa. Đó là một sự nghiệp vĩ đại nhưng đồng thời cũng là công việc cực kỳ khó khăn và phức tạp. Nó đòi hỏi nhà nước phải là một bộ máy có đầy đủ sức mạnh để trấn áp kẻ thù và những phần tử chống đối cách mạng, đồng thời nhà nước phải là một tổ chức có đủ năng lực để quản lý và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa trong đó việc tổ chức quản lý kinh tế là quan trọng, khó khăn và phức tạp nhất.
Nước ta từ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất thấp, đồng thời lại phải trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề, những tàn dư thực dân, phong kiến còn nhiều, các thế lực thù địch thường xuyên tìm mọi cách phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa và nền
độc lập của nhân dân ta. Vì vậy, việc cải tạo và xây dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội lại càng khó khăn phức tạp hơn.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã nhấn mạnh phải xây dựng nhà nước vững mạnh: "Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân”.
2.2. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là thuộc tính của nhà nước xã hội chủ nghĩa:
Các nhà nước bóc lột được xây dựng trên cơ sở của chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, nhằm duy trì sự áp bức, bóc lột và thống trị giai cấp. Vì vậy, trong các nhà nước bóc lột không thể có chế độ dân chủ thực sự được. Chỉ trong chủ nghĩa xã hội mới có cơ sở để đảm bảo cho nền dân chủ thực sự được phát triển. Nhà nước chính là công cụ để thực hiện nền dân chủ đó. Trong chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, là người sáng lập ra nhà nước và mọi hoạt động của nhà nước đều nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân lao động. Với ý nghĩa đó, nhà nước xã hội chủ nghĩa chính là nhà nước của dân, do dân và vì dân (nhân dân lao động) và chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa là thuộc tính gắn liền với bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đại hội lần thứ VIII Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: "Nhà nước ta là "Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân; lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân".
Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng dân chủ xã hội chủ nghĩa là một chế độ nhà nước chứ không phải là vô chính phủ. V.I.Lênin đã chỉ rõ: "Cũng như mọi nhà nước, chế độ dân chủ là việc thi hành có tổ chức, có hệ thống sự cưỡng bức đối với người ta. Nhưng mặt khác, chế độ dân chủ có nghĩa là chính thức thừa nhận quyền bình đẳng giữa những công dân, thừa nhận cho mọi người có quyền ngang nhau trong việc xác định cơ cấu của nhà nước và quản lý nhà nước". Trên cơ sở vận dụng sáng tạo nguyên lý về dân chủ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện Việt Nam, nhiều văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước ta đều khẳng định: Thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động thực chất là tôn trọng con người, phát huy sức sáng tạo của tầng. lớp nhân dân, hướng sự sáng tạo đó vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhà nước phải bảo đảm cho nhân dân thực sự tham gia vào quản lý nhà nước, thực sự có quyền lựa chọn những người đại biểu xứng đáng của mình vào các cơ quan quyền lực nhà nước, có quyền, có khả năng và điều kiện thực tế để thực hiện việc kiểm tra, giám sát, phê bình các cán bộ và cơ quan nhà nước, bãi miễn những đại biểu do mình bầu ra nhưng không còn xứng đáng nữa. Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra đó là phương châm mở rộng dân chủ tạo điều kiện cho nhân dân tham gia đông đảo vào việc quản lý nhà nước của mình. Nhà nước phải thi hành các biện pháp kiên quyết để xóa bỏ tệ quan liêu, cửa quyền, nghiêm trị những phần tử phạm pháp, thực hiện dân chủ hóa và bảo đảm công bằng xã hội.
2.3. Nhà nước xã hội chủ nghĩa luôn giữ vai trò tích cực và sáng tạo, là công cụ để xây dựng một xã hội nhân đạo, công bằng và bình đẳng:
Khác với các giai cấp trước kia, giai cấp vô sản sau khi trở thành giai cấp thống trị, nắm trong tay quyền lực nhà nước, không có mục đích dùng nhà nước đề duy trì mãi địa vị thống trị của mình, mà là để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, xóa bỏ mọi sự áp bức bóc lột và mọi sự thống trị giai cấp. Vì vậy, trong quá trình tổ chức và thực thi quyền lực giai cấp vô sản thực hiện sự liên minh với mọi lực lượng lao động của xã hội để thiết lập những nguyên tắc và cơ chế vận hành quyền lực nhà nước dựa trên cơ sở quyền lực nhân dân, không ngừng mở rộng dân chủ và phát huy vai trò làm chủ của nhân dân.
Xuất phát từ mục đích và cách tổ chức quyền lực như vậy, quá trình tồn tại và phát triển của nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ luôn phù hợp với các quy luật vận động khách quan của xã hội, và vì vậy, nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ luôn giữ vai trò chủ động sáng tạo, là công cụ để thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa càng phát triển cao thì tính chất xã hội của nó càng mở rộng. Đến một giai đoạn nhất định của lịch sử, khi những điều kiện xã hội đã thay đổi, cơ sở tồn tại của nhà nước không còn nữa thì nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ "tự tiêu vong", nhường chỗ cho sự phát triển của một tổ chức tự quản mạnh mẽ, dựa hoàn toàn trên cơ sở của quyền lực nhân dân rộng rãi và hòa nhập với xã hội.
3. Bản chất và những đặc trưng cơ bản của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
Trong hai mục trên, vấn đề bản chất của nhà nước đã được xem xét ở góc độ lý luận chung đối với tất cả các nhà nước thuộc kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, khi nghiên cứu những vấn đề lý luận phải gắn những luận đề, những quan điểm và kết luận đó với thực tiễn để đối chiếu,
kiểm nghiệm, bổ sung và làm giàu thêm.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một trong những mô hình đã được tìm tòi, sáng tạo dựa trên cơ sở của lý luận khoa học nói trên. Nhưng đồng thời, bên cạnh những "cái chung", bản chất nhà nước Việt Nam còn thể hiện những nét riêng cần được làm sáng tỏ. V.I.Lênin đã từng viết: "Tất cả các dân tộc sẽ đi đen chủ nghĩa xã hội nhưng tất cả các dân tộc sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội một cách không hoàn toàn giống nhau, mỗi dân tộc sẽ đưa đặc điểm của mình vào hình thức này hay hình thức khác của nền chuyên chính vô sản, vào nhịp độ này, nhịp độ khác của việc cải tạo XHCN đối với các mặt khác nhau của đời sống xã hội".
Bản chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xác định trong Hiến pháp năm 1992 là " . . . Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức" (Điều 2).
Như vậy, tính nhân dân và quyền lực nhân dân là cái cơ bản, xuyên suất, thể hiện bản chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bản chất đó được biểu hiện cụ thể ở những đặc trưng cơ bản sau:
3.1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nhà nước dân chủ thực sự và rộng rãi:
Mặc dù nước ta bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát thấp, đến nay vẫn là một nước nghèo và kém phát triển, nhưng một chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa đã được thiết lập và đang từng bước hoàn thiện dần.
Với quan điểm phát triển. Hiến pháp nước ta đã chỉ rõ “Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phục, có điều kiện phát triển toàn diện; nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân" (Điều 3). Quan điểm đó là kết quả của một quá trình tìm tòi, kiểm nghiệm, sáng tạo được rút ra để định hướng cho sự phát triển của toàn bộ hệ thống chính trị nước ta nói chung và của Nhà nước ta nói riêng.
Trở lại lịch sử hình thành và phát triển của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể nhận thấy rõ quá trình hình thành và phát triển của một chế độ dân chủ mới. Nước ta là một nhà nước dân chủ đầu tiên ra đời ở Đông nam châu A. Những thiết chế nhà nước đầu tiên ra đời đã dựa trên cơ sở của dân chủ: Các hình thức Quốc dân đại hội để bầu ra chính phủ lâm 'thời; tổng tuyển cử để bầu Chủ tịch nước và đại biểu Quốc hội những năm đầu tiên sau khi cách mạng tháng Tám thành công; sự ghi nhận chính thức trong Hiến pháp 1946, 1959, 1980, và 1992 về xác định quyền lực tối cao thuộc về nhân dân ... đã khẳng đính rõ mục tiêu và những bước phát triển của chế độ dân chủ của nước ta.
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng cộng sản Việt Nam, một lần nữa lại khẳng định: "Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu và cũng là bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta” .
Bản chất dân chủ của Nhà nước ta thể hiện một cách toàn diện, trên các lĩnh vực kình tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa và xã hội.
- Trong lĩnh vực kinh tế, nhà nước thực hiện chủ trương tự do, bình đẳng về kinh tế, tạo ra những điều kiện làm cho nền kinh tế đất nước có tính năng động, xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều dạng sở hữu và hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh cho phép mọi đơn vị kinh tế đều có thể hoạt động theo cơ chế tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, hợp tác và cạnh tranh với nhau và đều bình đẳng trước pháp luật.
Để thực hiện chủ trương dân chủ hóa trong lĩnh vực kinh tế, nhà nước ta đã chú trọng giải quyết vấn đề căn bản mang tính nguyên tắc là bảo đảm lợi ích kinh tế của người lao động, coi đó là động lực, đồng thời là mục tiêu của dân chủ hóa. Tuy nhiên lợi ích vật chất (kinh tế) luôn phải đặt trong mối quan hệ biện chứng với các lợi ích chính trị, tư tưởng, văn hóa, xã hội. Đồng thời, lợi ích cá nhân phải hài hòa với lợi ích của tập thể và xã hội.
- Trong lĩnh vực chính trị, nhà nước ta đã tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc, trong đó quy định tất cả những quyền tự do, dân chủ trong sinh hoạt chính trị, bảo đảm cho người dân được làm chủ về mặt chính trị.
Bên cạnh việc xác lập và thực hiện cơ chế dân chủ đại diện thông qua chế độ bầu cử và bãi miễn đại biểu nhân dân vào các cơ quan dân cử, nhà nước ta luôn chú trọng thiết lập và bảo đảm thực hiện đầy đủ chế độ dân chủ trực tiếp, tạo điều kiện cho nhân dân tham gia thực sự vào công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội; tham gia đóng góp ý kiến, kiến nghị, thảo luận một cách dân chủ, bình đẳng vào các vấn đề thuộc đường lối, chủ trương, chính sách, các dự thảo văn bản pháp luật quan trọng làm cho nhân dân thực sự là chủ thể của những chủ trương, chính sách, pháp luật đó chứ không phải chỉ là những người phục tùng một chiều.
Một trong những khía cạnh quan trọng là nhà nước Việt Nam với tư cách là công cụ thực hiện quyền lực nhân dân, đã đặt ra cho mình nhiệm vụ phải phấn đấu đạt tới việc mở rộng cho nhân dân tham gia vào công việc của nhà nước. Thực hiện điều đó về mặt pháp lý, nhà nước ta đã xác lập một hệ thống các nguyên tắc và quy định về tổ chức bộ máy nhà nước phù hợp. Ví dụ, nguyên tắc bầu cử phổ thông, bình đẳng trực tiếp và bỏ phiếu kín để bầu ra các đại biểu của cơ quan dân cử; thông qua các cơ quan dân cử nhân dân thực hiện quyền lực của mình. Bên cạnh đó, những hình thức dân chủ trực tiếp khác nhau cũng rất phát triển, biểu hiện trong hoạt động của các tổ chức xã hội, trong hệ thống kiểm tra, giám sát của nhân dân, trong thảo luận những dự thảo các luật quan trọng …
Hiến pháp của Việt Nam ghi nhận toàn bộ các quyền chính trì, xã hội và quyền tự do cá nhân, tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, mít tinh, lao động, học hành, nghỉ ngơi, tự do tín ngưỡng, quyền bất khả xâm phạm thân thể, nhà ở, tự do đi lại và bảo đảm cho tất cả công dân được hưởng các quyền đó. Điều đó phù hợp với bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, coi mục đích và động lực chính của sự phát triển dân chủ là vì con người, do con người.
Chủ trương của nhà nước ta được thể hiện trong pháp luật là tạo khả năng rộng rãi để nhân dân tự do bày tỏ nguyện vọng của mình về những vấn đề quan tâm và bảo vệ lợi ích chính đáng của mình. Nhà nước kiên quyết ngăn chặn và xử lý nghiêm những người có hành vi dân chủ cực đoàn, lạm dụng chức quyền tham nhũng, cửa quyền, vi phạm quyền dân chủ và tự do của nhân dân.
Nhà nước Việt Nam là nhà nước gần dân và thân dân. Nhà nước luôn coi trọng việc lắng nghe ý kiến của nhân dân, chú trọng việc xem xét, giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo của nhân dân, tổ chức để nhân dân tham gia góp ý kiến xây dựng đất nước. Trong quá trình thực hiện dân chủ hóa chính trị, Nhà nước ta luôn luôn tôn trọng quyền hoạt động và các quan điểm chính trị của cá nhân, nếu những quan điểm đó phù hợp với hiến pháp và pháp luật, không đi ngược lại lợi ích của nhân dân. Nhà nước kiên quyết ngăn chặn và xử lý mọi biểu hiện dân chủ cực đoan, gây rối làm mất ổn định tình hình chính trị, xâm hại đến lợi ích quốc gia và các quyền chính trị của nhân dân.
Để bảo đảm thực hiện quá trình dân chủ hóa và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nhà nước luôn đặt ra cho mình nhiệm vụ phải tôn trọng sự kiểm tra, giám sát của nhân dân, đẩy mạnh và không ngừng đấu tranh chống tệ quan liêu, cửa quyền, tham nhũng trong bộ máy nhà nước, xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật và không có ngoại lệ đối với bất cứ ai có hành vi vi phạm.
- Trong lĩnh vực tư tưởng văn hóa và xã hội, nhà nước thực hiện chủ trương tự do tư tưởng và giải phóng tinh thần, phát huy mọi khả năng của con người; quy định một cách toàn diện các quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, học hành, lao động, nghỉ ngơi, tự do tín ngưỡng, quyền bất khả xâm phạm thân thể, nhà ở, thư tín ... và bảo đảm cho mọi người được hưởng các quyền đó.
Tuy nhiên, dân chủ hóa trong lĩnh vực tư tưởng văn hóa và xã hội luôn phải đặt trên cơ sở và trong mối quan hệ mật thiết với quá trình dân chủ trong lĩnh vực chính trí và kinh tế. Hệ tư tưởng quán xuyến trong toàn bộ quá trình này là chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và hệ quan điểm đổi mới do Đảng cộng sản Việt Nam đề ra. Nguyên tắc cơ bản để thực hiện dân chủ, phát huy quyền lực nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân là bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị.
3.2. Nhà nước thông nhất của các dân tộc cùng sinh sông trên đất nước Việt Nam:
Nhìn lại toàn bộ quá trình từ sau Cách mạng tháng Tám (1945) đến nay, đặc điểm này luôn quán xuyến và ngày càng thể hiện một cách đậm nét hơn, cao hơn, cụ thể hơn. Với bản chất bao trùm là nhà nước của dân, do dân và vì dân thì đương nhiên trong đó đã hàm chứa tính bình đẳng giữa các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam. Vấn đề quan trọng là cơ sở pháp lý, hình thức tổ chức thực hiện và kết quả của việc triển khai thực hiện trên thực tế.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong tất cả các thời kỳ phát triển của mình đều coi "đại đoàn kết dân tộc" là một nguyên tắc cơ bản để thiết lập chế độ dân chủ, phát huy quyền lực nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội, đồng thời là cơ sở để tạo ra sức mạnh của một nhà nước thống nhất.
Chính sách đại đoàn kết dân tộc thể hiện dưới bốn hình thức cơ bản của Nhà nước Việt Nam:
Một là, xây dựng một cơ sở pháp lý vững vàng cho việc thiết lập và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, tạo điều kiện cho mỗi dân tộc đều có thể tham gia một cách tích cực nhất vào việc thiết lập, củng cố và phát huy sức mạnh và quyền lực nhà nước. Điều này được thể hiện rõ trong các Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và các văn bản pháp luật quan trọng khác.
Hai là, tổ chức thực hiện một cách mạnh mẽ, nhất quán trong các hoạt động cụ thể của nhà nước nói riêng và của toàn bộ hệ thống chính trị của nước ta nói chung. Tất cả các tổ chức Đảng, Công đoàn, Nhà nước, Mặt trận tổ quốc, Công đoàn, Đoàn thanh niên ... đều coi việc thực hiện chính sách đoàn kết dân tộc, xây dựng nhà nước Việt Nam thống nhất là mục tiêu chung, là nguyên tắc hoạt động của tổ chức mình.
Ba là, trong khi tổ chức thực hiện, nhà nước luôn chú trọng việc ưu tiên đối với các dân tộc ít người, các vùng núi, vùng sâu, vùng xa, tạo điều kiện để các dân tộc tương trợ giúp đỡ lẫn nhau, cùng tồn tại và phát triển trên cơ sở hòa hợp, đoàn kết, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Bốn là, chú ý tới điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mỗi dân tộc, mỗi địa phương, tôn trọng các giá trị văn hóa tinh thần, truyền thống của mỗi dân tộc, xây dựng bản sắc riêng của dân tộc Việt Nam với đầy đủ tính phong phú mà vẫn bảo đảm sự nhất quán và thống nhất.
3.3. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thể hiện tính xã hội rộng rãi:
Không giống với các nhà nước khác, nhà nước ta một mặt vẫn thể hiện rõ tính chất giai cấp của mình, là nhà nước mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhưng mặt khác nó lại thể hiện tính chất xã hội rất rộng rãi.
Với mục tiêu xây dựng một xã hội văn minh, nhân đạo, bảo đảm công hằng xã hội, Nhà nước Việt Nam đã quan tâm một cách đặc biệt và toàn diện tới việc giải quyết các vấn đề của toàn xã hội như: Xây dựng các công trình phúc lợi xã hội, đầu tư cho việc phòng chống thiên tai, giải quyết các vấn đề bức xúc như chăm sóc sức khỏe nhân dân, giải quyết việc làm, chống thất nghiệp, giúp đỡ người già cô đơn, trẻ mồ côi, chống tệ nạn xã hội ...
Nhà nước không những chỉ đặt ra cơ sở pháp lý mà còn thực hiện việc đầu tư thỏa đáng cho việc giải quyết các vấn đề xã hội. Đồng thời coi việc giải quyết các vấn đề này là nhiệm vụ của mọi cấp, mọi ngành và của Nhà nước nói chung.
3.4. Nhà nước thực hiện đường lối đối ngoại hòa bình, hợp tác và hữu nghị:
Bản chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam không chỉ được phản ánh trong các chính sách, đường lối đối nội, mà còn thể hiện trong chính sách đối ngoại. Chính sách và hoạt động đối ngoại của Nhà nước ta thể hiện khát vọng hòa bình của nhân dân ta, thể hiện mong muốn hợp tác trên tinh thần hòa bình, hữu nghị, cùng có lợi với tất cả các quốc gia. Phương châm "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thê giới" thể hiện một đường lối ngoại giao cởi mở của nhà nước ta. Điều 14 Hiến pháp 1992 đã khẳng định: "Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chính sách hòa bình hữu nghị, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thê' giới, không phân biệt chế độ chính trị và xã hội khác nhau, trên cơ sở tôn trọng độc lập chí quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi , tăng cường đoàn kết hữu nghị và quan hệ hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng, tích cực ủng hộ và góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiên bộ xã hội".
Những đặc điểm có tính bản chất nêu trên của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong các điều kiện hiện tại đã được thể hiện cụ thể trong các nhiệm vụ, chức năng của nhà nước và được pháp luật quy đính một cách chặt chẽ, đồng thời được phản ánh trong tổ chức và hoạt động thực tiễn của Nhà nước ta. Đương nhiên, để có thể đáp ứng đầy đủ các nhu cầu, đòi hỏi để bảo đảm giữ vững và phát huy bản chất của "nhà nước của dân, do dân và vì dân", Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn cần phải tiếp tục đổi mới nhiều mặt, cải tổ sâu sắc từ cơ cấu tổ chức đến hình thức và phương pháp hoạt động phù hợp với các quy định của luật pháp để từng bước xây dựng và phát triển thành nhà nước pháp quyền Vìệt Nam.
Có thể nêu khái quát những đặc điểm cơ bản nhất của Nhà nước pháp quyền Việt Nam như sau:
- Nhà nước có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, trong đó các đạo luật giữ vai trò quan trọng; mọi cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, người có chức vụ và công dân đều phải tôn trọng và nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật.
- Nhà nước trong đó không chỉ có công dân có trách nhiệm đối với nhà nước, mà nhà nước cũng phải có trách nhiệm đầy đủ đối với công dân; khái niệm trách nhiệm ở đây được dùng theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp, nghĩa là quan hệ giữa công dân và nhà nước là quan hệ bình đẳng về quyền và nghĩa vụ.
- Nhà nước trong đó các quyền dân chủ tự do và lợi ích chính đáng của con người được pháp luật bảo đảm và bảo vệ toàn vẹn; mọi hành vi lộng quyền của bất kỳ cơ quan nhà nước và người có chức vụ nào, cũng như mọi hành vi phạm pháp khác xâm phạm quyền tự do, lợi ích chính đáng của công dân đều bị nghiêm trị.
- Nhà nước trong đó ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp được phân định rõ ràng và hợp lý cho các hệ thống cơ quan tương ứng trong mối quan hệ cân bằng, phối hợp và chế ước lẫn nhau tạo thành cơ chế đồng bộ bảo đảm sự thống nhất của quyền lực nhà nước, thực hiện quyền lực nhân dân.
Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam là xây dựng một nhà nước với lý tưởng dân chủ, nhân đạo và công bằng nhất, là nhà nước mà nhân dân nói chung cũng như mỗi công dân nói riêng không chỉ là khách thể của quyền lực, mà còn là chủ thể tối cao của quyền lực đó. Ở Nhà nước pháp quyền Việt Nam quy định "mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân" trở thành hiện thực sinh động của đời sống chính trị xã hội, pháp luật thực sự bắt nguồn từ nhân dân, của nhân dân và phục vụ cho dân; là chế độ nhà nước mà công dân là trung tâm, nhà nước được tổ chức văn minh, trật tự, có cơ chế an toàn và hiệu quả, ngăn chặn mọi sự lạm quyền, vi phạm quyền công dân, mọi mặt tổ chức và hoạt động của nhà nước đều đặt trên cơ sở pháp luật, chịu sự chi phối thống nhất của pháp luật, là một cơ thể phức tạp nhưng vận động một cách hài hòa, đồng bộ bảo đảm sự thống nhất cao độ trong tổ chức quản lý xã hội.
No comments:
Post a Comment