12/08/2014
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản - Bài tập học kỳ Luật Hình sự 2
ĐỀ BÀI:

A là chủ kiêm lái xe chở xăng dầu. A ký hợp đồng với công ty X vận chuyển dầu chạy máy cho công ty. Sau vài lần vận chuyển, A đã học được thủ đoạn lấy bớt dầu vẫn chuyển của công ty X như sau:

Khi nhận được dầu A chạy xe tới điểm thu mua dầu của B và nhanh chóng rút dầu ra bán cho B mỗi lần 200 lít. Sau đó A đổ đầy nước vào chiếc thùng phuy không mang sẵn đúng 200 lít. Đến địa điểm giao hàng, chiếc xe được cân đúng trọng lượng quy định nên được nhập dầu vào kho. Trong thời gian chờ đợi cân trọng lượng của xe sau khi giao dầu, A đã bí mật đổ hết số nước đã chất lên xe để khi cân chỉ còn đúng trọng lượng của xe. 

Bằng thủ đoạn trên A đã nhiều lần lấy dầu được thuê vận chuyển với tổng trị giá là 100 triệu đồng thì bị phát hiện.

a. Anh (chị) hãy xác định tội danh cho hành vi của A?


b. B có phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi tiêu thụ dầu của A không? Nếu có thì tội danh cho hành vi của B là gì?


BÀI LÀM

Căn cứ theo các dữ liệu đề bài đã ra, nhận định rằng hành vi phạm tội của A cấu thành nên tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại điều 140 BLHS. 

Hành vi phạm tội “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” là hành vi vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó, hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

Trong tình huống nêu trên, nhận thấy hành vi của A đã có đủ tất cả các yếu tố cấu thành tội phạm của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, thể hiện qua 4 yếu tố: Chủ thể, khách thể, mặt chủ quan, mặt khách quan của tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Về mặt khách thể của tội phạm:

Cũng giống như các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt khác, thì tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản mà A đã thực hiện xâm phạm tới quan hệ sở hữu được Luật hình sự bảo vệ, thực tế thì hành vi của A đã gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu xăng dầu của công ty X, sự gây thiệt hại này đã phản ánh được đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội từ hành vi phạm tội cụ thể của A bởi tổng giá trị tài sản chiếm đoạt được là 100 triệu đồng

+ Đối tượng tác động của tội phạm: hành vi xâm phạm sở hữu nói chung và hành vi xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nói riêng có đối tượng tác động cụ thể là tài sản, trong tình huống này đối tượng tác động của tội phạm chính là số lượng dầu mà A đã chiếm đoạt được có tổng giá trị là 100 triệu đồng.

Về mặt khách quan của tội phạm:

Hành vi khách quan: 

Hành vi phạm tội của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt toàn bộ hay một phần tài sản đã được giao trên cơ sở hợp đồng đã được ký kết giữa chủ tài sản và người có hành vi chiếm đoạt.

Hành vi chiếm đoạt ở đây là những hành vi không thực hiện đúng nghĩa vụ cam kết. 

Các giai đoạn thực hiện tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiến đoạt tài sản: Ban đầu, việc có được tài sản là hoàn toàn hợp pháp, thông qua hợp đồng hợp pháp. Sau khi có được tài sản mới xuất hiện ý định chiếm đoạt tài sản và cuối cùng là hành vi chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn:

+ Không trả lại tài sản bằng thủ đoạn bỏ trốn hoặc thủ đoạn gian dối (bị mất, đánh tráo...);

+ Không trả lại tài sản do không có khả năng hoàn trả vì đã sử dụng vào mục đích bất hợp pháp (đánh bạc, cầm đồ...).

Áp dụng vào tình huống này, ta thấy việc A được vận chuyển số dầu là do hợp đồng kí kết giữa A là chủ kiêm lái xe chở xăng dầu và công ty X. Ban đầu ý định phạm tội chưa có và phải sau vài lần vận chuyển, A mới có ý định chiếm đoạt lượng dầu nêu trên và A đã học được thủ đoạn lấy bớt dầu vẫn chuyển của công ty X, và hành vi chiếm đoạt đã xảy ra, phù hợp với các giai đoạn thực hiện tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đã kể trên.

Trong quá trình chuyên chở của mình, tức là mỗi khi A nhận được số dầu máy từ nơi cung cấp dầu máy để chuyển đến kho của công ty X, thì A đã có hành vi là không cho xe về ngay kho mà đã chạy xe tới điểm thu mua dầu của B và nhanh chóng rút bớt một số lượng dầu trên xe ra bán cho B, sau đó mới chuyển phần dầu còn lại về kho của công ty X, mỗi lần như vậy A đã bán cho B được 200 lít.

Thủ đoạn gian dối của A nhằm tránh bị phát hiện hành vi ăn bớt 200 lít dầu mỗi lần chở là việc thay dầu bằng nước đổ đầy vào chiếc thùng phuy không A đã dự trữ sẵn trên xe để có thể cân bằng lại trọng lượng xe như ban đầu trước khi bán dầu cho B. Đến địa điểm giao hàng, chiếc xe được cân đúng trọng lượng quy định nên được nhập dầu vào kho. Trong thời gian chờ đợi cân trọng lượng của xe sau khi giao dầu, A đã bí mật đổ hết số nước đã chất lên xe để khi cân chỉ còn đúng trọng lượng của xe.

Ở đây, ta thấy rằng A không phải là chủ sở hữu của số dầu máy, nhưng A đã có hành vi đem bán số tài sản không thuộc sở hữu của A. A không có quyền quyết định đối với số tài sản đó.

Hậu quả:

Hậu quả của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là thiệt hại về tài sản mà cụ thể trong đề bài đã cho thì hậu quả của hành vi chiếm đoạt phi pháp của A là số dầu có tổng giá trị là 100 triệu đồng.

Về mặt chủ thể:

Theo như đề bài đưa ra thì A là chủ thể thường, A là chủ kiêm lái xe chở xăng dầu, A không có chức vụ, quyền hạn trong công ty X mà chỉ là người chở thuê theo hợp đồng cho công ty X. A được công ty X giao cho tài sản để vận chuyển dựa trên sự tín nhiệm của công ty X đối với A.

Ở đây ta khẳng định rằng A đã có giấy phép lái xe theo quy định của pháp luật. Hơn nữa đã đủ điều kiện độ tuổi cũng như năng lực trách nhiệm hình sự, bởi lẽ, A đủ tuổi để được cấp bằng lái xe ô tô chở xăng dầu theo luật định và được hành nghề lái xe, đã kí kết hợp đồng vẫn chuyển hợp pháp với công ty X điều đó chứng tỏ A cũng có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. A đã được công ty X tín nhiệm giao cho việc chuyên chở dầu máy từ nơi nhận dầu chuyển đến kho của công ty. Tức là, A đã được giao cho chiếm hữu và quản lý một số lượng nhất định tài sản thuộc sở hữu của công ty X trong một khoảng thời gian nhất định. Cơ sở pháp lý của việc giao nhận dầu máy ở đây chính là hợp đồng dịch vụ vận chuyển. Việc giao và nhận dầu máy là hoàn toàn hợp pháp.

Về mặt chủ quan của tội phạm:

Lỗi của A là lỗi cố ý trực tiếp, A nhận thức được rằng hành vi dùng thủ đoạn gian dối để ăn cắp dầu là xâm phạm đến quan hệ sở hữu của công ty X đối với số dầu này, có tính nguy hiểm cho xã hội nhưng A vẫn cố ý thực hiện thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản không phải 1 lần mà là nhiều lần và tất nhiên A mong muốn cho hậu quả xảy ra là A ăn cắp được càng nhiều dầu càng tốt.

Kết luận: hành vi phạm tội của A có đầy đủ yếu tố cấu thành nên tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 140 BLHS.

2. B có phải chịu trách nhiệm về hành vi tiêu thụ dầu của A không? Nếu có thì tội danh cho hành vi của B là gì?

Để xác định trách nhiệm hình sự của B trong tình huống này ta chia làm 3 trường hợp sau:

Th.1: A và B có hứa hẹn trước việc A phạm tội và chiếm đoạt được 200 lít dầu trong mỗi lần vận chuyển là sẽ mua lại số dầu đó.

Trường hợp này, ta xác định A phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì hành vi của B cấu thành Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Điều 140 – BLHS với vai trò đồng phạm của A.

B là đồng phạm do: Đồng phạm đòi hỏi có ít nhất 2 người tham gia thực hiện tội phạm và họ có đủ điều kiện chủ thể của tội phạm, cả A và B đều đủ điều kiện chủ thể. Về mặt khách quan B có hành vi hứa hẹn mua và đã mua dầu do A phạm tội mà có, B là người giúp sức về tinh thần (hứa hẹn), tạo điều kiện cho A phạm tội.

Về mặt chủ quan, B có hứa hẹn với A sẽ mua dầu khi A phạm tội mà có, đây là lỗi cố ý trức tiếp, B nhận thức rõ được hành vi hứa hẹn mua bán tài sản do phạm tội mà có là trái pháp luật nhưng mong muốn cho hậu quả xảy ra và đã hứa hẹn mua dầu của A.

- Về lý trí, A biết rõ hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt dầu máy là trái pháp luật, gây nguy hiểm cho xã hội, B cũng biết rõ hành vi tiêu thụ dầu của mình là gây nguy hiểm cho xã hội. Hai người cũng biết rõ hành vi cố ý của người kia.

- Về ý chí, tất nhiên cả hai người này mong muốn có hoạt động chung, và cùng mong muốn để cho hậu quả phát sinh, bởi vì nếu A chiếm đoạt được dầu thì rất cần có nơi tiêu thụ, B cũng muốn kiếm được thêm tiền vì hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, tuy nguy hiểm nhưng chắc chắn đem lại lợi nhuận cao hơn so với bình thường.

B là đồng phạm của A về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có thể với vai trò là người tổ chức hoặc người giúp sức.

Th.2: A và B không có hứa hẹn trước nhưng B biết rằng A có được lượng dầu trên là do phạm tội mà có nhưng vẫn mua bán tài sản bất hợp pháp.

Trường hợp này ta xác định B phạm tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo Điều 250 BLHS. Hành vi phạm tội được biểu hiện B tuy không có hứa hẹn trước nhưng có hành vi mua bán tài sản do A phạm tội mà có, B không cần thiết phái biết A đã phạm tội gì để có được lượng dầu trên, chỉ cần có hành vi mua bán tài sản mà biết rõ là A phạm tội mà có là B phải chịu TNHS về tội mua bán tài sản do người khác phạm tội mà có theo Điều 250 BLHS

- Về mặt khách quan của tội phạm, hành vi của B là hành vi tiêu thụ dầu máy mà biết được đó là lượng dầu A chiếm được do phạm tội, tuy nhiên giữa A và B không có bất kỳ sự thỏa thuận nào.

- Về mặt chủ quan, B nhận thức rõ hành vi tiêu thụ dầu máy mà A chiếm đoạt được một cách phi pháp là nguy hiểm cho xã hội, lượng dầu rất lớn ( 200 lít dầu mỗi lần) nhưng do ham lợi nhuận, B vẫn cố tình tiêu thụ số dầu đó, B nhận thức được rõ ràng hậu quả của hành vi của mình. Lỗi của B là lỗi cố ý.

Th.3: B không hề biết lượng dầu A bán cho B là tài sản do phạm tội mà có.

Trường hợp này TNHS không được đặt ra đối với B do B là người ngay tình, B không hề có lỗi trong việc tiêu thụ dầu do A bán lại, B chỉ thực hiện hành vi kinh doanh hợp pháp của mình, hành vi mua bán dầu nhưng ngay tình của B không thể hiện sự nguy hiểm cho xã hội, thái độ tâm lý của B không thể hiện sự âm mưu, gian dối hay bất hợp pháp nào và B cũng không hề cố ý, không hề biết rằng tài sản A có được là do phạm tội mà có. Vì thế B không bi truy cứu TNHS.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ luật hình sự nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1999 ( sửa đổi, bổ sung năm 2009)
2. Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, Trường đại học luật Hà Nội, tập 1, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2007.
3. Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, Trường đại học luật Hà Nội, tập 2, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2007.
4. Bình luận khoa học bộ luật hình sự Việt Nam, tập 2, Thạc sĩ Đinh Văn Quế, Nxb TP. Hồ Chí Minh.

Nếu muốn download, xin vui lòng điền vào form tại đây và gửi tối thiểu 01 bài tập của 4 kì gần nhất đạt trên 7 điểm và chưa từng đăng tại blog này vào email baitapluat@gmail.com hoặc inbox facebook Diệp Hân Đặng. Những bạn nào không gửi bài tập, mình xin phép không gửi link download tài liệu lại. Cảm ơn đã ghé thăm blog và xin lỗi vì đã làm phiền các bạn!

No comments:

Post a Comment