30/08/2014
Tội cướp tài sản gây hậu quả nghiêm trọng - Bài tập Luật Hình sự 2
Bài tập tình huống Luật Hình sự 2 có đáp án.

Đề bài: Đoạn đường từ thị trấn Đ đến xã V vắng vẻ, lợi dụng đêm tối ít người qua lại , với ý định chiếm đoạt tài sản của người đi đường, A dùng dây thép căng ngang đường. Hai đầu dây đều cột chặt vào cây ven đường. Chị N đi xe máy qua đoạn đường này bị dây thép hất ngược trở lại, nằm ngất xỉu. A từ chỗ nấp ở bụi cây ven đường chạy ra tháo dây chuyền, nhẫn, đồng hồ, túi sách của N. Tổng tài sản có trị giá 4.800.000 đồng. Sau đó N được người đi qua thấy và đưa đi cấp cứu kịp thời nên không chết. Tổng số tiền viện phí là 2.700.000 đồng, tổn hại sức khỏe của chị N không đáng kể. Xe máy của chị N bị hỏng, tiền sửa chữa là 800.000 đồng.

HỎI:

1. Xác định tội danh và định khung hình phạt cho hành vi của A?

2. Giả sử N bị thương tích với tỉ lệ thương tật là 61 % Thì trách nhiệm hình sự của A được xác định như thế nào?


BÀI LÀM

Theo khoản 1 Điều 8 BLHS qui định: “ Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được qui định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ Quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nềnvăn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của Tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.”

1.  Như vậy, căn cứ vào khái niệm trên, ta thấy hành vi của A trong tình huống trên là hành vi nguy hiểm cho xã hội và hành vi đó bị coi là phạm tội. Và nó mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm mà cụ thể trong tình huống này là cấu thành tội phạm của tội cướp tài sản.

* Chủ thể phạm tội: A;

* Khách thể: Xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của công dân ( chị N ), ngoài ra còn xâm phạm trực tiếp đến sức khỏe của chị N;

* Mặt khách quan của tội phạm bao gồm:

+ Hành vi khách quan của tội cướp tài sản là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản. Cụ thể trong tình huống là A đã dùng thủ đoạn nguy hiểm để cướp tài sản. A đã lợi dụng lúc đêm tối căng dây thép căng ngang đường, hai đầu dây đều cột chặt vào cây ven đường, hành vi này rất nguy hiểm, bởi nếu người điều khiển phương tiện đi với tốc độ nhanh hoặc dây được căng ngang tầm cổ của người điều khiển phương tiện thì có thể gây thương tích rất nặng hoặc sẽ dẫn đến cái chết cho người điều khiển phương tiện giao thông. Và hành vi này được thực hiện bằng hành động: A đã căng dây thép ra ngang đường, lợi dụng chị N bị ngất xỉu, A chạy ra chiếm đoạt các tài sản của chị N.

+ Đối tượng tác động: Tài sản của công dân ( chị N);

+ Hậu quả của tội phạm: Thiệt hại về tài sản đối với chị N, bao gồm:

4.800.000 đồng mà A đã chiếm đoạt và số tiền viện phí là 2.700.000 đồng cộng với 800.000 đồng tiền sửa chữa chiếc xe máy bị hỏng;

* Mặt chủ quan của tội phạm: Là hành vi cố ý chiếm đoạt tài sản của người khác một cách trái pháp luật:

+ Lỗi: Cố ý trực tiếp; 

Xét về mặt ý chí: A đã có ý định chiếm đoạt tài sản của người đi đường và mong muốn cho người đi đường vướng vào sợi dây dẫn đến bị ngã để có thể chiếm đoạt được tài sản.

Xét về mặt lý trí: A nhận thức rõ hành vi căng dây thép ngang đường là hành vi rất nguy hiểm cho xã hội. A cũng thấy trước được hậu quả ( gây thương tích, gây tổn hại đối với sức khỏe; đến tính mạng của người đi đường vướng phải sợi dây).

+ Mục đích: chiếm đoạt tài sản;

Theo khoản 2 Điều 133 BLHS năm 1999: “ Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến  mười lăm năm:

a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;
đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%;
e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
g) Gây hậu quả nghiêm trọng.”

Như vậy, căn cứ vào nhận định trên, căn cứ vào khoản 2 Điều 133 BLHS năm 1999 thì tội danh mà A phạm phải là tội cướp tài sản được quy định tại khoản 2 Điều 133. BLHS năm 1999 mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội danh của A là đến mười lăm năm tù.

Ngoài ra A còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng theo khoản 5 Điều 133 BLHS năm 1999. Và phải hoàn trả lại tài sản cho chị N (trị giá tài sản 4.800.000 đồng) và bồi thường thiệt hại (gồm 2.700.000 đồng tiền viện phí, 800.000 đồng tiền sửa chữa xe hỏng) theo Điều 42 BLHS năm 1999.

2. Giả sử chị N bị thương tích với tỷ lệ thương tật là 61%.

Theo khoản 4 Điều 133 BLHS năm 1999: “ Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười tám năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật  từ 61% trở lên hoặc làm chết người;

b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

c) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng .”

Trong trường hợp này, hành vi của A vẫn cấu thành tội cướp tài sản nhưng với hậu quả nghiêm trọng hơn. Căn cứ vào khoản 4 Điều 133 BLHS năm 1999, thì đây là trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, nên A bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 4 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1999 mà mức cao nhất của khung hình phạt là đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.

Hành vi của A còn phải bị áp dụng hình phạt bổ sung: “có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản …” theo khoản 5 Điều 133 BLHS. 

Theo Điều 42 BLHS về trách nhiệm trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi.

“1. Người phạm tội phải trả lại tài sản đã chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, phải sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại vật chất đã được xác định do hành vi phạm tội gây ra.

2. Trong trường hợp phạm tội gây thiệt hại về tinh thần, Tòa án buộc người phạm tội phải bồi thường về vật chất, công khai xin lỗi người bị hại.”

Trong trường hợp này A phải trả lại toàn bộ số tài sản đã chiếm đoạt của chị N ( tổng trị giá 4.800.000 đồng), và phải bồi thường thiệt hại về vật chất cho thiệt hại của chị N ( gồm thiệt hại về sức khỏe, tiền viện phí và chi phí sửa chữa xe bị hỏng) ngoài ra còn phải bồi thường thiệt hại về tinh thần.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Giáo trình luật hình sự Việt Nam, tập , Trường Đại Học Luật Hà Nội, Nxb. CAND, Hà Nội, 2009.

2. Bộ Luật Hình Sự Việt Nam 1999.


3. Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam (bình luận chuyên sâu), tập2, Nxb. TP. Hồ Chí Minh.

No comments:

Post a Comment