08/04/2014
Bài tập học kỳ Tố tụng Hình sự - Tạm giam trong Tố tụng Hình sự - Bài 2
Lời mở đầu

Tạm  giam  là  một  trong  những  biện  pháp  ngăn  chặn  có  tính  chất  nghiêm  khắc  nhất trong các biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự. Người bị áp dụng biện pháp tạm giam bị cách ly với xã hội trong một thời gian nhất định, bị hạn chế một số quyền của công dân. Việc áp dụng biện pháp tạm giam trong tố tụng hình sự là vô cùng cần thiết nhằm  ngăn chặn không cho bị can, bị cáo có điều kiện tiếp tục phạm tội hoặc có hành vi gây khó khăn cho  việc  giải  quyết  vụ  án  cũng  như  để  thực  hiện  tốt  chức  năng  tố  tụng  của  cơ  quan  áp dụng,  tuy  nhiên  trong  thực  tiễn  việc  áp  dụng  những  biện  pháp  này  còn  bộc  lộ  không  ít những bất cập trong quy định của pháp luật cũng như những vi phạm pháp luật trên thực tế. Để làm rõ vấn đề trên, trong bài viết em xin trình bày: Tạm giam trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này.

Nội dung chính đáng

I. BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TẠM GIAM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn.

Biện  pháp  ngăn  chặn  là  biện  pháp  cưỡng  chế  được  áp  dụng  đối  với  bị  can,  bị  cáo, người bị truy nã hoặc đối với những người chưa bị khởi tố (trong những trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang), nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành vi gây cản trở điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.

2. Khái niệm biện pháp ngăn chặn tạm giam.

Theo Khoản 1 Điều 88 BLTTHS và khoa học pháp lí TTHS chúng ta có khái niệm về biện pháp ngăn chặn tạm giam như sau: tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong TTHS do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can bị cáo Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng; hay bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.


3. Mục đích.

Tạm  giam  được  áp  dụng  đối  với  bị  can,  bị  cáo  trong  các  giai  đoạn  khác  nhau  của TTHS. Vì vậy, ngoài mục đích chung, thống nhất là ngăn chặn không để bị can, bị cáo có điều kiện tiếp tục phạm tội hay có hành vi gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án thì ở mỗi  giai  đoạn  tố  tụng  nhất  định,  việc  áp  dụng  biện  pháp  này  còn  có  mục  đích  riêng  là nhằm đảm bảo thực hiện tốt chức năng tố tụng của cơ quan áp dụng.

4. Đối tượng áp dụng.

Đối  tượng  áp  dụng  biện  pháp  tạm  giam  chỉ  có  thể  là  bị  can,  bị  cáo.  Những  người không phải là bị can bị cáo thì không bị áp dụng biện pháp tạm giam. Cụ thể, tại Khoản 1 Điều 88 BLTTHS đã quy định những trường hợp được áp dụng biện pháp tạm giam, đó là:

Trường hợp thứ nhất: Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng (điểm a). Đây là trường hợp bị can, bị cáo phạm tội mà theo quy định của Bộ luật hình  sự, mức  cao  nhất  của  khung hình phạt  áp  dụng đối  với tội  ấy  là  trên  15  năm  tù, tù chung thân hoặc tử hình (tội phạm đặc biệt nghiêm trọng)  hoặc phạm tội mà mức cao nhất của khung hình phạt đến 15 năm tù (tội phạm rất nghiêm trọng). Việc áp dụng biện pháp tạm giam trong trường hợp này cần hai điều kiện:

+ Người  thực  hiện  tội phạm  là  người đã  bị  khởi  tố  bị  can  hoặc  người đã  bị  Thẩm phán ra quyết định đưa vụ án ra xét xử với tư cách là bị cáo.

+ Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội rất nghiêm trọng.

Trường hợp thứ hai: Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng hoặc tội phạm ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ rằng người đó có thể  trốn  hoặc  cản  trở  điều  tra,  xét  xử  hoặc  có  thể  tiếp  tục  phạm  tội.  Để  tạm  giam  trong trường hợp này cần ba điều kiện:

+ Người thực hiện tội phạm là bị can, bị cáo;

+Bị  can,  bị  cáo  phạm  tội  nghiêm  trọng  hoặc  phạm  tội  ít  nghiêm  trọng  mà  Bộ  luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm. Trong một điều luật có thể có nhiều khoản thì phạm tội thuộc khoản có mức hình phạt trên hai năm tù có thể tạm giam, phạm tội thuộc khoản có mức hình phạt tù từ hai năm trở xuống thì không được tạm giam.

+ Có căn cứ cho rằng người phạm tội có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.

Để xác định điều kiện này cần căn cứ vào nhân thân bị can, bị cáo, thái độ của họ sau khi phạm tội hoặc những vi phạm nghĩa vụ của bị can, bị cáo khi được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác ít nghiêm khắc. Tuy vậy, theo Điều 88 thì đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ những trường hợp sau đây:

- Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã;

- Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử;

- Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.

5. Căn cứ áp dụng.

Về mặt khái niệm, có thể hiểu rằng căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam  là những căn cứ luật định theo đó chủ thể có thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam. BLTTHS năm 2003 không trực tiếp quy định các căn cứ áp dụng  biện pháp ngăn chặn tạm giam, tuy nhiên, căn cứ vào Điều 79 BLTTHS quy định về Các biện pháp và căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn đồng thời dựa vào tính chất của biện pháp ngăn chặn tạm giam,  chúng ta có thể thấy rằng căn cứ đề áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam nhưkhi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử; khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội và bảo đảm cho việc thi hành án.

6. Thẩm quyền áp dụng.

Có thể hiểu rằng thẩm quyền áp dụng BPNC tạm giam là khả năng của chủ thể được nhà nước trao quyền được quyết định việc tạm giam đối với đối tượng nhất định.

Tại  Khoản 3  Điều  88  BLTTHS  quy  định  Những  người  có  thẩm  quyền  ra  lệnh  bắt được quy định tại Điều 80 của Bộ luật này có quyền ra lệnh tạm giam. Lệnh tạm giam của những người được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 80 thì những người sau đây có thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam:

a) Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND và VKSQS các cấp.
b) Chánh án, phó chánh án TAND và TAQS các cấp.
c) Thẩm phán giữ các chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa phúc thẩm TANDTC, Hội đồng xét xử.
d) Thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp. Trong trường hợp này, lệnh tạm giam phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.

Tuy nhiên, trong mỗi giai đoạn tố tụng khác nhau thì chủ thể có thẩm quyền áp dụng BPNC tạm giam cũng khác nhau, cụ thể:

Trong  giai  đoạn  điều  tra:  Việc  áp  dụng,  thay  đổi,  hủy  bỏ  BPNC  tạm  giam  sẽ  do những chủ thể quy định tại điểm d khoản 1 Điểu 80 BLTTHS quyết định. Lệnh tạm giam của những người này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.

Trong  giai  đoạn  truy  tố:  Thẩm  quyết  quyết  định  việc  áp  dụng,  thay  đổi,  hủy  bỏ BPNC tạm giam sẽ do các chủ thể quy định tại điểm a khoản 1 Điều 80 BLTTHS quyết định.

Trong  giai  đoạn  xét  xử:    Thẩm  quyết  quyết  định  việc  áp  dụng,  thay  đổi,  hủy  bỏ BPNC tạm giam sẽ do các chủ thể quy định tại điểm b, điểm khoản 1 Điều 80 BLTTHS quyết định.

Ngoài ra, theo quy định tại Điều 228 BLTTHS thì Hội đồng xét xử có quyền quyết định tạm giam đối với bị cáo theo thủ tục luật định.

7. Thủ tục áp dụng.

Thủ tục tạm giam là trình tự luật định mà chủ thể có thẩm quyền khi áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam phải tuân thủ một cách triệt để.  Có thể nói rằng thủ tục của BPNC tạm giam được quy định khá chặt chẽ, cụ thể là:

Theo quy định của BLTTHS, việc tạm giam bị can, bị  cáo phải có lệnh tạm giam. Lệnh này phải do những người có thẩm quyền kí. Lệnh tạm giam phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của người bị tạm giam; lí do tạm giam,  thời  hạn  tạm  giam  và  giao  cho  người  bị  tạm  giam  một  bản.  Sau  khi  ra  lệnh  tạm giam, cơ quan ra lệnh tạm giam phải kiểm tra căn cước của người bị tạm giam nhằm xác định đúng đối tượng cần tạm giam, tránh trường hợp nhầm lẫn. Đồng thời cơ quan đã ra lệnh tạm giam phải thong báo ngay cho gia đình người bị tạm giam và cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị tạm giam cư trú hoặc làm việc biết để gia đình họ cũng như cơ quan tổ chức biết được sự việc và không phải tiến hành những thủ tục tìm kiếm cần thiết, gây tốn kém.

8. Thời hạn áp dụng.

Thời hạn tạm giam để điều tra: Theoquy định tại điều 120 của BLTTHS, cụ thể: Thời hạn  tạm  giam  bị  can  để  điều  tra  không  quá  hai  tháng  đối  với  tội  phạm  ít  nghiêm  trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. 

Việc gia hạn tạm giam được quy định như sau:

a) Đối với tội ít nghiêm trọng có thể ra hạn tạm giam một lần không quá một tháng;

b) Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể ra hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất không quá hai tháng và lần thứ hai không quá một tháng;

c) Đối với tội rất nghiêm trọng có thể ra hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất không quá ba tháng, lần thứ hai không quá hai tháng; 

d) Đối với tội đặc biệt nghiêm trọng có thể ra hạn tạm giam không quá ba lần, mỗi lần không quá bốn tháng

Như  vậy,  nếu  tính  cả  thời  gian  ra  hạn,  thì  thời  hạn  tạm  giam  đối  với  tội  phạm  ít nghiêm trọng là không quá 3 tháng; đối với tội nghiêm trọng là không quá 6 tháng; đối với tội rất nghiêm trọng là không quá 9 tháng; và đối với tội đặc biệt nghiêm trọng là không quá 16 tháng.

Thời hạn tạm giam để truy tố: Theo khoản 2 Điều 166 BLTTHS 2003, Thời hạn tạm giam để truy tố đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng tối đa là 30 ngày; đối với tội rất nghiêm trọng tối đa là 45 ngày; đối với tội đặc biệt nghiêm trọng tối đa là 60 ngày ( đã tính cả thời hạn ra hạn). 

Thời hạn tạm giam để xét xử sơ thẩm: Điều 177 BLTTHS quy định: “Thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại Điều 176 của bộ luật này”. Cụ thể, thời hạn tạm giam để xét xử sơ thẩm (tính cả thời hạn ra hạn) tối đa là 75 ngày đối với tội ít nghiêm trọng; 90 ngày đối với tội nghiêm trọng; 120 ngày đối với tội rất nghiêm trọng; và 150 ngày đối với tội đặc biệt nghiêm trọng.

Thời  hạn  tạm  giam  để  xét  xử  phúc  thẩm:  Theo  Điều  243  BLTTHS  quy  định:  Thời hạn  tạm  giam  để  xét  xử  phúc  thẩm  không  được  quá  thời  hạn  xét xử  phúc  thẩm. Cụ  thể, thời hạn tạm giam để xét xử phúc thẩm ở TAND cấp tỉnh, TAQS cấp quân khu là 60 ngày; thời hạn tạm giam để xét xử phúc thẩm ở TANDTC, TAQS cấp Trung Ương là 90 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án. 

Thời hạn tạm giam để đảm bảo thi hành án: Sau khi xét xử sơ thẩm hoặc xét xử phúc thẩm, Hội đồng xét xử có thể quyết định tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Đối với giai đoạn xét xử sơ thẩm, theo quy định tại Điều 228 BLTTHS, với bị cáo đang bị tạm giam mà bị phạt tù nhưng đến ngày kết thúc phiên Tòa thời hạn tạm giam đã hết thì HĐXX ra quyết định tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án. Trong trường hợp bị cáo không bị tạm giam nhưng bị phạt tù thì họ chỉ bị bắt tạm giam để chấp hành hình phạt khi bản án có hiệu lực pháp luật. Hội đồng xét xử có thể ra quyết định tạm giam ngay bị cáo nếu có căn cứ cho rằng họ có thể bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội. Thời hạn tạm giam trong trường hợp này là 45 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Tại  phiên  tòa  phúc  thẩm,  theo  quy  định  tại  Điều  243  BLTTHS,  nếu  bị  cáo  đang  bị tạm giam, bị xử phạt tù mà đến ngày kết thúc phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết, HĐXX ra quyết định tạm giam bị cáo để đảm bảo việc thi hành án, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 227 Bộ luật này. Thời hạn tạm giam là 45 ngày kể từ ngày tuyên án.

9. Một số quy định khác về tạm giam 

9.1. Chế độ tạm giam.

Như chúng ta đã biết tạm giam không phải là hình phạt mà là một biện pháp ngăn chặn  trong  TTHS.  Việc  áp  dụng  biện  pháp  tạm  giam  không  phải  nhằm  trừng  trị  người phạm tội mà là để ngăn chặn tội phạm và hành vi trốn tránh pháp luật, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án của người phạm tội. Xuất phát từ quan điểm ấy nên chế độ tạm giam có  nội  dung  được  quy  định  tại  Điều  89  BLTTHS,  cụ  thể  là:  Chế  độ  tạm  giữ,  tạm  giam khác với chế độ đối với người đang chấp hành hình phạt tù. Và nơi tạm giữ, tạm giam, chế độ sinh hoạt, nhận quà, liên hệ với gia đình và các chế độ khác được thực hiện theo quy định của Chính phủ. Ngoài ra pháp luật còn quy định người bị tạm giam không phải chấp hành chế độ của người thi hành phạt tù mà chỉ chấp hành các quy định của Chính Phủ về chế độ đi lại, sinh hoạt, nhận quà, liên hệ với gia đình trong thời gian tạm giam.


Link download Bài tập học kỳ Tố tụng Hình sự - Tạm giam trong Tố tụng Hình sự - Bài 2 (có tính phí)

Nếu muốn download không mất phí, xin vui lòng điền vào form tại đây và gửi tối thiểu 01 bài tập của 4 kì gần nhất đạt trên 7 điểm vào email baitapluat@gmail.com. Những bạn nào không gửi bài tập, mình xin phép không gửi link download tài liệu lại. Cảm ơn đã ghé thăm blog và xin lỗi vì đã làm phiền các bạn!

No comments:

Post a Comment