Điều 71 Hiến pháp 1992 quy định “ Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm”. Bảo vệ con người luôn là một vấn đề được quan tâm hàng đầu đối với pháp luật Việt Nam nói chung và luật hình sự Việt Nam nói riêng. Bộ luật hình sự Việt Nam nước ta đã quy định một chương riêng dành cho các quy định liên quan đến việc bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của con người. Xuất phát từ nhận thức trên, với bài tập lớn học kỳ môn Luật Hình sự Việt Nam 1, em xin đi sâu tìm hiểu một tình huống cụ thể về hành vi xâm phạm tính mạng còn người nhằm hiểu sâu hơn về các quy định của luật hình sự Việt Nam đối với chế định này.
Đề bài số 6: Vì ghen tuông, A có ý định giết B. A rủ B đi chơi đến chổ vắng, A rút dao đâm B ba nhát. Tưởng rằng B đã chết, A bỏ đi. Do được phát hiện và cấp cứu kịp thời, B đã được cứu sống. Tòa án xác định A phạm tội giết người theo khoản 2 Điều 93 BLHS.
Câu hỏi:
1. Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS, hãy phân loại tội phạm đối với tội giết người.
2. Hành vi phạm tội của A thuộc giai đoạn phạm tội nào? Giải thích rõ tại sao?
3. Hãy chỉ ra đối tượng tác động của tội phạm và công cụ phạm tội trong vụ án?
4. Giả sử A mới đâm B một nhát, thấy B bị thương, máu ra nhiều, A sợ quá bỏ đi không tiếp tục đâm B đến chết. B bị thương tích với tỉ lệ thương tật là 21%. A có phải chịu trách nhiệm hình sự không? Giải thích rõ tại sao?
5. Giả sử A đâm B ba nhát, tưởng rằng B đã chết, A bỏ đi nhưng do được phát hiện và cấp cứu kịp thời, B đã được cứu sống. Tòa án áp dụng khoản 2 Điều 93 BLHS tuyên hình phạt đối với A là 13 năm tù thì hình phạt Tòa án quyết định đối với A có đúng không? Giải thích rõ tại sao?
6. Giả sử A là người nước ngoài đang là nhân viên làm thuê cho một công ty liên doanh ở Hà Nội. Hành vi nói trên của A xẩy ra ở Hà Nội thì A có bị xử lý theo Luật hình sự Việt Nam không? Giải thích rõ tại sao?
GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
1. Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS, hãy phân loại tội phạm đối với tội giết người
Theo khoản 3 Điều 8 BLHS, các nhóm tội phạm được định nghĩa:
“ Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 3 năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của hình phạt đối với tội ấy là đến 7 năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 15 năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.”
Các nhóm tội phạm được phân biệt với nhau bởi dấu hiệu về mặt nội dung chính trị, xã hội và dấu hiệu về mặt hậu quả pháp lí. Dấu hiệu về mặt nội dung chính trị, xã hội là tính nguy hiểm cho xã hội, dấu hiệu về mặt hậu quả pháp lí là tính phải chịu hình phạt. Tính nguy hiểm cho xã hội được cụ thể hoá ở tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng. Tương ứng và phù hợp với bốn mức độ nguy hiểm cho xã hội đã được phân hoá như vậy cũng có bốn mức độ cao nhất của khung hình phạt: Đến 3 năm tù; đến 7 năm tù; đến 15 năm tù và trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
Để xác định loại tội đó là loại tội phạm gì phải căn cứ vào mức cao nhất của khung hình phạt với tội đó. Căn cứ vào cách phân loại tội phạm theo khoản 3 Điều 8 BLHS có thể phân loại tội phạm của tội giết người theo Điều 93 BLHS như sau: Phạm tội vào khoản 1 Điều 93 BLHS “ Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình”. Mức cao nhất của khung hình phạt là tử hình. Phạm tội vào khoản 1 Điều 93 BLHS thuộc loại tội đặc biệt nghiêm trọng vì theo khoản 3 Điều 8 BLHS quy định “ tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình”. Phạm tội thuộc khoản 2 Điều 93 BLHS “ Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm”. Mức cao nhất của khung hình phạt là mười lăm năm tù. Phạm tội vào khoản 2 Điều 93 BLHS thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng vì theo khoản 3 Điều 8 BLHS “ tội phạm rất nghiêm trọng là tội gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù”.
Như vậy, căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS thì tội giết người theo Điều 93 BLHS thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng theo khoản 2 Điều 93 và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng theo khoản 1 Điều 93 BLHS. Qua đây có thể thấy tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi giết người gây ra.
2. Hành vi phạm tội của A thuộc giai đoạn phạm tội nào? Giải thích rõ tại sao?
Cũng như những hoạt động khác của con người trong xã hội, hành vi phạm tội diễn ra theo quá trình nhất định. Người cố ý phạm tội luôn muốn thực hiện được trọn vẹn quá trình đó để đạt được mục đích của mình nhưng trong thực tế, do những nguyên nhân ngoài ý muốn mà người phạm tội đã không thực hiện được toàn bộ quá trình đó mà phải dừng lại ở những thời điểm khác nhau. Để đánh giá mức độ thực hiện tội phạm, luật hình sự Việt Nam phân biệt 3 mức độ thực hiện tội phạm: Chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành (Điều 17, 18 BLHS)
Trong tình huống trên giai đoạn phạm tội của A thuộc giai đoạn phạm tội chưa đạt đã hoàn thành. Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành là trường hợp phạm tội chưa đạt nhưng người phạm tội đã thực hiện được hết những hành vi cho là cần thiết để gây ra hậu quả nhưng do nguyên nhân ngoài ý muốn hậu quả vẫn không xẩy ra. Căn cứ vào những dấu hiệu xác định trường hợp phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam thì hành vi của A đã thõa mãn hết các dấu hiệu đó.
Thứ nhất: người phạm tội đã bắt đầu thực hiện tội phạm. Trong tình huống trên A đã bắt đầu tực hiện tội phạm của mình đó là rủ B đến chổ vắng và rút dao đâm B ba nhát
Thứ hai: người phạm tội không thực hiện được tội phạm đến cùng nghĩa là hành vi của họ chưa thõa mãn hết các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm. Mặc dù A đã thực hiện hành vi khách quan là đâm B ba nhát tuy nhiên chưa gây ra hậu quả là làm cho B chết. Tội giết người theo Điều 93 BLHS là tội phạm thuộc cấu thành tội phạm vật chất. Trong cấu thành tội phạm vật chất yếu tố hậu quả là một yếu tố bắt buộc. Tội phạm chỉ hoàn thành khi có hậu quả xẩy ra. Như vậy, mặc dù đã thực hiện được hành vi khách quan của mình nhưng hành vi của A chưa thõa mãn hết các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm của tội giết người theo Điều 93 BLHS đó là làm cho B chết cho nên tội phạm của A vẫn chưa hoàn thành.
Thứ ba: người phạm tội không thực hiện được tội phạm đến cùng là do nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của họ. Bản thân A vẫn muốn tội phạm hoàn thành, muốn B chết để thõa mãn mục đích của mình. Tuy nhiên, do được cấp cứu kịp thời nên B không chết, việc B không chết là do nguyên nhân ngoài ý muốn của A.
Căn cứ vào khái niệm phạm tội chưa đạt theo Điều 18 BLHS, căn cứ vào những dấu hiệu xác định phạm tội chưa đạt và hành vi phạm tội của A có thể khẳng định giai đoạn phạm tội của A thuộc giai đoạn phạm tội chưa đạt đã hoàn thành.
3. Hãy chỉ ra đối tượng tác động của tội phạm và công cụ phạm tội trong vụ án?
Cũng giống như những hoạt động khác của con người hoạt động phạm tội cũng nhằm vào những khách thể cụ thể, tồn tại ngoài ý thức và độc lập với ý thức của chủ thể nhưng không phải là để cãi biến mà là gây thiệt hại cho chính những khách thể đó. Đối tượng tác động là một bộ phận của khách thể của tội phạm, bị hành vi phạm tội tác dộng đến để gây thiệt hại và đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Sự gây thiệt hại cho khách thể dù ở hình thức cụ thể nào cũng luôn luôn diễn ra trên cơ sở hành vi phạm tội làm biến đổi tình trạng của các đối tượng tác động – các bộ phận cấu thành của quan hệ xã hội có thể là con người, vật chất, hoạt động bình thường của con người,…
Trong tình huống trên, hành vi của A đã xâm phạm đến quyền được bảo vệ về sức khỏe, tính mạng của B, xâm phạm đến quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ. Tội giết người theo quy định tại điều 93 có đối tượng tác động là con người. Như vậy, đối tượng tác động của tội phạm trong tình huống trên là con người, cụ thể là con người B.
Nếu như đối tượng tác động là đối tượng mà tội phạm tác động lên để xâm hại các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ thì công cụ phạm tội là những đối tượng được người phạm tội sử dụng để tác dộng lên đối tượng tác động của tội phạm, gây thiệt hại cho khách thể. Trong tình huống trên công cụ phạm tội là con dao, A đã dùng con dao để tác dộng lên người B cụ thể ở đây là đâm B ba nhát.
Việc xác định đối tượng tác động và công cụ phạm tội có ý nghĩa trong việc đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và do vậy cũng có ý nghĩa trong việc định tội, quyết định hình phạt.
Như vậy, đối tượng tác động được xác định trong tình huống trên là con người, cụ thể là con người B và công cụ phạm tội là con dao
4. Giả sử A mới đâm B một nhát, thấy B bị thương máu ra nhiều, A sợ quá bỏ đi không tiếp tục đâm b đến chết. B bị thương tích với tỉ lệ thương tật là 12% A có phải chịu trách nhiệm hình sự không? giải thích rỏ tại sao?
Trong tình huống trên hành vi của A đã thõa mãn hết các dấu hiệu của việc tự ý nữa chừng chấm dứt việc phạm tội theo luật hình sự Việt Nam. Đó là việc tự ý nữa chừng chấm dứt không thực hiện tiếp tội phạm xẩy ra ở giai đoạn chưa đạt chưa hoàn thành. A chưa thực hiện được hết những hành vi khách quan được cho là cần thiết để làm cho B chết, cụ thể là A mới chỉ đâm B một nhát – chưa đủ để làm phát sinh hậu quả đó là làm cho B chết. Việc chấm dứt không thực hiện tội phạm phải là tự nguyện, dứt khoát. Trong tình huống trên, A đã chấm dứt việc phạm tội của mình một cách tự nguyện, dứt khoát, hoàn toàn không có một trở ngại khách quan nào cản trở A thực hiện tiếp hành vi của mình nhưng vì sợ quá nên A đã bỏ đi. Theo Điều 19 BLHS “ Tự ý nữa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự ý mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản. Người tự ý nữa chừng chấm dứt việc phạm tội được miến TNHS về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ dấu hiệu cấu thành một của một tội khác thì người đó phải chịu TNHS về tội này”.
Như vậy, trong tình huống trên A không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người, tuy nhiên hành vi khách quan đã làm cho B bị thương với tỉ lệ thương tật là 21%, hành vi của A đã cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác theo khoản 1 Điều 104 BLHS “ Người nào cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc các trường hợp sau đây thì bị phạt cãi tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm” nên A sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tội này.
Vậy, trong trường hợp trên A sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giềt người theo Điều 93 nhưng phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác theo Điều 104 BLHS
5. Giả sử A đâm B ba nhát, tưởng rằng B đã chết, A bỏ đi nhưng do phát hiện và cấp cứu kịp thời, B đã được cứu sống. Tòa án áp dụng khoản 2 Điều 93 BLHS tuyên hình phạt đối với A là mười ba năm tù thì hình phạt Tòa án quyết định đối với A có đúng không? Giải thích rỏ tại sao?
Cũng như các hoạt động khác của con người, hành vi phạm tội cũng diễn ra theo những giai đoạn nhất định. Việc xác định giai đoạn phạm tội có ý nghĩa rất lớn trong việc quyết định hình phạt đối với tội phạm ấy.
Trong tình huống trên, hành vi phạm tội của A thuộc giai đoạn tội phạm chưa đạt đã hoàn thành. “ Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành là trường hợp phạm tội chua đạt nhưng người phạm tội đã thực hiện được hết các hành vi cho là cần thiết để gây ra hậu quả nhưng do nguyên nhân ngoài ý muốn hậu quả vẫn không xẩy ra”. Trong tình huống trên A đã thực hiện được hết những hành vi được cho là cần thiết để làm cho B chết, A đã đâm B ba nhát và tưởng rằng B đã chết tuy nhiên do được cấp cứu kịp thời nên B không chết. Tội giết người theo Điều 93 BLHS thuộc loại cấu thành tội phạm vật chất, tội phạm chỉ hoàn thành khi có hậu quả xẩy ra. Như vậy, trong tình huống trên giai đoạn phạm tội của A thuộc giai đoạn phạm tôi chưa đạt đã hoàn thành. Mà theo khoản 3 Điều 52 BLHS “ Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là chung thân hoặc tử hình thì chỉ có thể áp dụng các hình phạt này trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định”. Phạm tội thuộc vào khoản 2 Điều 93 BLHS mức cao nhất của khung hình phạt là đến mười lăm năm tù, như vậy trong trường hợp tội phạm chưa đạt đã hoàn thành phạm vào khoản 2 Điều 93 BLHS thì mức cao nhất mà Tòa án có thể áp dụng đối với tội ấy là không quá ba phần tư mức phạt tù cao nhất, tức là không quá 11 năm 3 tháng tù giam.
Như vậy, căn cứ vào giai đoạn phạm tội của A, căn cứ vào khoản 2 Điều 93, khoản 3 Điều 52 BLHS thì việc Tòa án tuyên hình phạt đối với A là mười ba năm tù là sai.
6. Giả sử A là người nước ngoài đang là nhân viên làm thuê cho một công ty liên doanh ở Hà Nội. Hành vi nói trên của A xẩy ra ở Hà Nội thì A có bị xử lý theo luật hình sự Việt Nam không? Giải thích rỏ tại sao?
Khoản 1 Điều 5 Bộ luật Hình sự quy định: “Bộ luật Hình sự được áp dụng đối với mọi hành vi phạm tội thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” Như vậy, theo nguyên tắc lãnh thổ thì luật hình sự Việt Nam có hiệu lực tuyệt đối với mọi hành vi phạm tội được thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, dù người thực hiện tội phạm là công dân Việt Nam, người nước ngoài hay người không quốc tịch. Khi người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam thì cơ quan chức năng địa phương phải tiến hành thủ tục điều tra theo đúng quy định của bộ luật Tố tụng hình sự (Điều 2 bộ luật TTHS)
- Nếu người nước ngoài không nói được tiêng Việt thì phải có phiên dịch tham gia quá trình điều tra và khởi tố. Người phiên dịch phải ký vào các biên bản của quá trình điều tra.
- Thông bào ngay cho Bộ ngoại giao những thông tin cần thiết như: Họ tên, năm sinh, quốc tịch, giớ tính, nghề nghiệp, hàm ngoại giao, lãnh sự (nếu có), địa điểm, thời gian phạm tội, hành vi phạm tội, mức độ nghiêm trọng, thiệt hại và dự tính xử lý của cơ quan.
Tuy nhiên, Khoản 2 Điều 5 BLHS cũng quy định: “ Đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc đối tượng được hưởng các quyền miễn trừ ngoại giao hoặc quyền ưu đãi và miễn trừ về lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo các điều ước quốc tế mà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia theo tập quán quốc tế, thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao”. Như vậy, việc xử lý người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam được quy định nếu là người nước ngoài không thuộc vào khoản 2 Điều 5 BLHS thì bị xử lý như công dân Việt Nam phạm tội, nhưng nếu người nước ngoài thuộc vào các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 5 thì áp dụng khoản 2 Điều 52 là xử lý bằng con đường ngoại giao.
Căn cứ vào những dữ kiện từ tình huống, A là người nước ngoài đang làm thuê cho một công ty liên doanh tại Hà Nội, vậy A không phải là đối tượng được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao, miễn trừ về lãnh sự theo quy định tại khoản 2 Điều 5 BLHS. Như vậy, A vẫn bị xử lý theo luật hình sự Việt Nam vi hành vi của mình gây ra
Tóm lại, nếu A là người nước ngoài đang làm thuê cho một công ty kinh doanh ở Hà Nội phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam, thì A sẽ bị xử lý theo luật hình sự Việt Nam
KẾT LUẬN
Tội phạm giết người đang ngày một gia tăng trong xã hội, gây thiệt hại lớn đến sức khẻ, tính mạng con người, xâm phạm nghiêm trọng đến các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ. Việc xác định chính xác và nhanh chóng loại tội phạm, loại cấu thành tội phạm, trách nhiệm hình sự của chủ thể là rất quan trọng, quyết định đến việc xét xử, áp dụng mức hình phạt đối với tội phạm.
Qua việc tìm hiểu tình huống trên, chúng ta hiểu hơn về việc xác định các giai đoạn phạm tội và mức hình phạt mà Tòa án có thể áp dụng đối với từng giai đoạn phạm tội cụ thể. Cách phân loại tội phạm theo mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và trách nhiệm hình sự của người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam.
Trên đây là toàn bộ bài tập lớn học kỳ môn Luật Hình sự 1 của em. Vì khuôn khổ bài làm và kiến thức còn hạn chế nên có thể bài làm của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự quan tâm, góp ý từ các thầy, các cô để bài làm được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, tập 1, NXB CAND, Hà Nội 2010
2. GS.TS.Nguyễn Ngọc Hòa, Tội phạm và Cấu thành tội phạm, NXB CAND, Hà Nội 2010
3. GS.TS.Nguyễn Ngọc Hòa, Mô hình Luật hình sự Việt Nam, NXB CAND, Hà Nội 2010
4. Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1999, sửa đổi bổ sung 2009
5. Các website:
http://diendanphapluat.vn
http://chinhphu.vn
http://sinhvienluat.vn
http://luatvietnam.vn
http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com
Cảm ơn bạn Nguyễn Thu Hà - ĐH Luật HN đã chia sẻ tài liệu này!
No comments:
Post a Comment