08/05/2014
Hình thức vốn góp, định giá vốn góp và chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn vào công ty - Bài tập học kỳ Thương mại 1
MỞ ĐẦU

Nước ta đang trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới, với một nền kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ đã kéo theo sự ra đời của hàng loạt các công ty với đủ các loại hình và các ngành nghề kinh doanh vô cùng đa dạng và phong phú. Đó là một trong những thành tựu của nền kinh tế thị trường đã làm thay đổi bộ mặt của đất nước một cách đáng kể. Song song với điều đó khi một công ty được thành lập thì vốn là yếu tố cực kì quan trọng không thể thiếu khi thành lập bất kì loại hình doanh nghiệp nào. Nó không những quyết định sự sống còn của công ty mà còn thể hiện khả năng gánh chịu nghĩa vụ pháp lí của công ty. Sau đây em xin được tìm hiểu đề tài: “Hình thức vốn góp, định giá vốn góp và chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn vào công ty”  để làm rõ hơn các quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề này.

NỘI DUNG

I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG TY VÀ VẤN ĐỀ GÓP VỐN VÀO CÔNG TY

1. Khái niệm công ty.


Công ty là một loại hình doanh nghiệp được xuất hiện trong nền kinh tế thị trường. Luật Doanh nghiệp nước ta hiện nay chưa có định nghĩa cụ thể nào về công ty, nhưng khái niệm về công ty có thể hiểu như sau: “Công ty là một thực thể pháp lý do hai hay nhiều người liên kết góp vốn thành lập để kinh doanh với mục đích là thu lợi nhuận”. Theo quy định của luật Doanh nghiệp 2005, thì hiện nay ở nước ta có ba loại hình công ty như sau: công ty hợp danh; công ty trách nhiệm hữu hạn (bao gồm công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên) và công ty cổ phần. Và cũng theo quy định của luật doanh nghiệp hiện hành thì tất cả các loại hình công ty đều có tư cách pháp nhân.


2. Góp vốn vào công ty. 

2.1 Khái niệm vốn. 

Vốn là điều kiện đầu tiên có ý nghĩa quyết định tới sự phát triển của hoạt động kinh doanh. Ở nước ta, khái niệm về vốn được hiểu theo nhiều góc độ khác nhau. Dưới góc độ pháp lý, thì vốn được hiểu là “Tiền, tài sản, quyền tài sản trị giá được thành tiền có thể sử dụng trong kinh doanh” (theo “Từ điển luật học”, Nxb Tư pháp, 2006). Từ định nghĩa trên có thể thấy rằng vốn được hình thành từ: tiền, tài sản, quyền tài sản trị giá được thành tiền và mục đích là để sử dụng trong kinh doanh, là tiền đề cho các hoạt động đầu tư, phát triển sản xuất. 

Theo quy định tại Khoản 4 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2005 thì góp vốn được định nghĩa là: “Việc đưa tài sản vào công ty để trở thành chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu chung của công ty”. Như vậy, ta có thể hiểu vốn góp là hoạt động nhằm xác định một cách cụ thể tổng giá trị của những tài sản mà nhà đầu tư nào đó đóng góp vào công ty và được định lượng bằng tiền. Cũng theo quy định tại Khoản 4 Điều 4: “Tài sản góp vốn có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác ghi trong Điều lệ của công ty do thành viên góp để tạo thành vốn của công ty”. Như vậy, hành vi góp vốn vào công ty là việc một chủ thể dịch chuyển tài sản của mình (biểu hiện bằng vật có thực, tiền, tài sản, tài sản giá trị bằng tiền và các quyền tài sản) theo một trình tự, thủ tục nhất định vào công ty mà theo đó chủ sở hữu tài sản đó được hưởng các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ việc góp vốn. 

2.2 Ý nghĩa của việc góp vốn.

Đối với một công ty, việc góp vốn là điều kiện quan trọng để thành lập công ty đó. Khi nhiều người cùng góp vốn để thành lập một doanh nghiệp nhằm tiến hành hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận thì có nghĩa họ đã thành lập một công ty. Đồng thời nó sẽ góp phần mở rộng quy mô công ty ở việc làm tăng vốn điều lệ, cũng như thúc đẩy khả năng đầu tư kinh doanh của công ty. 

Khi mới thành lập, việc huy động vốn của công ty thông qua các hình thức như vay tín dụng rất khó khăn, cần phải có uy tín lớn hoặc sự bảo lãnh của một chủ thể khác, còn việc phát hành trái phiếu không phải loại hình công ty nào cũng có quyền này. Nên góp vốn là hình thức duy nhất chi trả cho các dịch vụ và hoạt động mà công ty sử dụng và là công cụ để doanh nghiệp triển khai các hoạt động kinh doanh cụ thể.

Việc góp vốn còn thể hiện tiềm lực phát triển của công ty và cơ sở đảm bảo cho các khoản vay vốn ngân hàng và các khoản thanh toán đối với các chủ nợ khác và được dùng để đảm bảo cho các khoản nợ của công ty. Như vậy, việc góp vốn vào công ty có vai trò vô cùng quan trọng, nhất là đối với giai đoạn công ty mới được hình thành. Hơn nữa nó còn quyết định tới sự phát triển và tồn tại của công ty trong quá trình sản xuất và kinh doanh sau này.

II. CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ HÌNH THỨC VỐN GÓP, ĐỊNH GIÁ VỐN GÓP VÀ CHUYỂN QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN GÓP VỐN VÀO CÔNG TY.

1. Quy định về hình thức góp vốn.

Theo quy định tại Khoản 4 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2005 thì: “Góp vốn là việc đưa tài sản vào công ty để trở thành chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu chung của công ty”. Do đó, bản chất của quan hệ góp vốn là sự “đóng góp tài sản” của các thành viên. Khi thực hiện việc góp vốn, các chủ thể sở hữu vốn chuyển giao quyền sở hữu tài sản của mình cho công ty để trở thành thành viên của công ty và được nhận một phần quyền quản lý trong công ty. Như vậy, hành vi góp vốn đã làm thay đổi tình trạng pháp lý đối với tài sản của chủ sở hữu. Theo đó, tài sản thuộc sở hữu cá nhân hay tổ chức được góp vốn theo những phương thức nhất định đã được chuyển dịch thành tài sản thuộc sở hữu công ty. Cũng theo Khoản 4 Điều 4 Luật doanh Nghiệp năm 2005: “Tài sản đem góp vốn có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác ghi trong Điều lệ công ty”. Theo quy định trên thì tất cả các loại tài sản đều có thể sử dụng góp vốn vào công ty, chỉ cần đạt thỏa thuận nhất trí giữa các thành viên sáng lập của công ty. Theo đó, hình thức góp vốn vào công ty được thực hiện dưới với hình thức là góp tài sản, các tài sản đó được thể hiện dưới những dạng sau: Tiền Việt Nam; Ngoại tệ tự do chuyển đổi; Vàng; Giá trị quyền sử dụng đất; Giá trị quyền sở hữu trí tuệ; Công nghệ, bí quyết kỹ thuật; Các tài sản khác ghi trong Điều lệ công ty do thành viên góp vốn để tạo thành vốn của công ty. Khoản 3 Điều 4 Luật doanh nghiệp được xây dựng theo phương pháp liệt kê. Với phương pháp này làm cho nội dung điều luật thiếu tính khái quát, không thể hiện được sự đầy đủ, trọn vẹn những trường hợp pháp luật dự liệu. Do đó, khiến cho không ít người đọc hiểu sai tinh thần của điều luật và thường cho rằng ngoài tài sản mà điều luật đã liệt kê, các thỏa thuận những tài sản khác là đối tượng của hành vi góp vốn theo ý chí của nhà đầu tư chứ không phải theo pháp luật. Từ quy định trên của Luật doanh nghiệp chúng ta cũng thấy một vấn đề nữa đó là mọi phần vốn góp vào ng ty đều là tài sản nhưng ngược lại, mọi loại tài sản đều trở thành phần vốn góp của công ty. Trên thực tế, quy định này của Luật doanh nghiệp là quá thoáng khi cho phép các thành viên của công ty tự thỏa thuận về tài sản có thể trở thành vốn góp của công ty chỉ cần các thành viên sáng lập đều nhất trí đồng ý và được ghi trong Điều lệ của công ty. 

Bên cạnh các tài sản hữu hình thì các tài sản vô hình cũng được coi là tài sản góp vốn được vào công ty. Theo quy định của BLDS năm 2005 thì tài sản bao gồm: “Tiền, vật, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”: 

Tiền: Là giá trị đại diện cho giá trị thực của hoàng hóa và là phương tiện lưu thông trong giao lưu dân sự, đồng thời là phương tiện tích trữ của nhiều người.

Giấy tờ có giá trị bằng tiền: Không phải mọi giấy tờ giá trị đều được coi là tài sản mà phải là những giấy tờ giá trị được bằng tiền, đáp ứng được yêu cầu có thể trở thành đối tượng của các giao dịch dân sự và khi góp vốn vẫn còn trong thời hạn được lưu thông. Ví dụ: trái phiếu, cổ phiếu, tín phiếu, công trái, séc,…

Các quyền tài sản: Là các quyền gắn liền với tài sản và khi thực hiện các quyền đó, lợi ích vật chất sẽ phát sinh đối với chủ sở hữu đối với các sáng chế các quyền này có thể định giá được và do vậy có thể chuyển giao trong các giao dịch dân sự.

Tài sản vô hình: Là những tài sản thể hiện ra bằng những lợi ích kinh tế. Chúng không có cấu tạo vật chất mà tạo ra những quyền và ưu thế đối với người sở hữu và thường sinh ra thu nhập cho người sở hữu chúng. Tài sản vô hình không thể sờ thấy được nhưng lại mang lại những giá trị thặng dư được tính thành tiền như: quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất, các yếu tố vô hình của sản nghiệp thương mại (biểu hiện như: nhãn hiệu, mạng lưới tiêu thụ hàng hóa, quyền chủ nợ). Ta có thể thấy rõ với quy định thông thoáng của Luật doanh nghiệp thì đương nhiên các loại tài sản này cũng là một trong những hình thức vốn góp của công ty “các tài sản khác ghi trong Điều lệ của công ty”. Thực tế ở nước ta, việc góp vốn bằng tài sản nói chung và nhãn hiệu nói riêng đã được quy định trong BLDS năm 2005, Luật sở hữu trí tuệ 2005, Luật doanh nghiệp 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Nhờ những quy định cụ thể như vậy nên việc góp vốn vào các công ty được diễn ra dưới rất nhiều hình thức vốn góp khác nhau, rất đa dạng và phong phú. Hiện nay, nhiều tập đoàn, tổng công ty nhà nước như VINACONEX, VIGLACERA, đã sử dụng nhãn hiệu để góp vốn kinh doanh. Tuy nhiên, giữa Luật doanh nghiệp và BLDS năm 2005 trong khái niệm về tài sản góp vốn đang tồn tại những mâu thuẫn chồng chéo. Không chỉ mâu thuẫn với BLDS định nghĩa về tài sản góp vốn của Luật doanh nghiệp còn nảy sinh một số vấn đề liên quan đến Luật sở hữu trí tuệ, khoản 4 Điều 4 Luật doanh nghiệp chỉ liệt kê các loại tài sản. Như vậy, Luật doanh nghiệp có đề cập tới giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ và bí quyết kỹ thuật trong khi Luật sở hữu trí tuệ 2005 đã đưa ra hệ thống các đối tượng thuộc quyền sở hữu công nghiệp rất rõ ràng bao gồm: sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế, bố trí mạch kín hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý. Ngoài ra, pháp luật cũng có những quy định về hình thức vốn góp vào công ty đối với tổ chức cá nhân nước ngoài được quy định tại khoản 1 Điều 4 Nghị quyết số 88/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ về việc ban hành quy chế góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam:

“a) Nhà đầu tư nước ngoài mua lại phần vốn góp của thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn, góp vốn vào công ty trách nhiệm hữu hạn để trở thành thành viên mới của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên hoặc mua lại toàn bộ số vốn điều lệ của chủ sở hữu trong công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên để trở thành chủ sở hữu mới của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên;
b) Nhà đầu tư nước ngoài mua lại phần vốn góp của thành viên góp vốn trong công ty hợp danh hoặc góp vốn vào công ty hợp danh để trở thành thành viên góp vốn mới.Nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân mua lại phần vốn góp của thành viên hợp danh trong công ty hợp danh hoặc góp vốn vào công ty hợp danh để trở thành thành viên hợp danh mới, sau khi được sự chấp thuận của các thành viên hợp danh còn lại;
c) Nhà đầu tư nước ngoài mua lại một phần vốn của chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc góp vốn với chủ doanh nghiệp tư nhân để chuyển đổi doanh nghiệp tư nhân thành công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên và trở thành thành viên của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên”. Quy định này bao hàm toàn bộ những hình thức góp vốn mà nhà đầu tư nước ngoài muốn góp vào các công ty ở Việt Nam.

2. Quy định về định giá vốn góp.

Định giá tài sản đem góp vốn có ý nghĩa hết sức quan trọng và được tiến hành trước khi chuyển quyền sở hữu, vì xác định giá trị tài sản đem góp vốn sẽ giải quyết tỷ lệ phần vốn góp, quyền thành viên cũng như xác định tổng tài sản của công ty. Đối với chủ thể góp vốn, nó là chìa khóa để phân chia quyền lực và lợi ích tài chính trong công ty và quy định các quyền của các chủ thể góp vốn tương ứng với tài sản họ góp vốn. Đối với các chủ nợ của công ty, tài sản khi được đem góp vốn sẽ thuộc về sản nghiệp của công ty. Nếu tài sản được định giá cao hơn giá trị thực tế, các chủ nợ sẽ bị thiệt hại do giá trị của tài sản đảm bảo không tương xứng với giá trị của nghĩa vụ mà công ty phải thực hiện. Theo quy định tại Điều 29 Luật doanh nghiệp năm 2005 thì: “Tài sản góp vốn không phải tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng phải được các thành viên, cổ đông sáng lập hoặc tổ chức định giá chuyên nghiệp định giá”. Theo quy định này thì những tài sản phải được định giá là: giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác ghi trong Điều lệ công ty do thành viên góp vốn để tạo thành vốn của công ty. 

2.1 Nguyên tắc định giá.

Căn cứ vào khoản 2 Điều 30 Luật doanh nghiệp năm 2005: “Tài sản đem góp vốn khi thành lập doanh nghiệp phải được các thành viên định giá theo nguyên tắc nhất trí; nếu tài sản đem góp vốn được định giá cao hơn so với gia trị thực tế tại thời điểm góp vốn thì các thành viên sáng lập liên đới chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty bằng số chênh lệch giữa giá trị được định giá và giá trị thực của tài sản góp vốn tại thời điểm kết thúc định giá”. Theo quy định tại NĐ 102/ 2010/NĐ-CP thì Bộ Tài chính là chủ thể có chức năng định giá, hướng dẫn việc định giá góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ. Theo quy định này thì pháp luật đã gắn trách nhiệm của các thành viên, cổ đông sáng lập định giá. Việc gắn trách nhiệm được thể hiện ở chỗ nếu tài sản góp vốn được định giá cao hơn so với giá trị thực tế tại thời điểm góp vốn thì các thành viên, cổ đông sáng lập liên đới chịu trách nhiệm về phần giá trị chênh lệch. 

Luật Doanh nghiệp năm 2005 không có quy định nào về thỏa thuận định giá vô hiệu nên khi việc định giá rõ ràng là cao hơn giá trị thực của tài sản là nhiều lần thì việc định giá đó vẫn không bị coi là một thỏa thuận vô hiệu. Theo quy định của luật thì việc định giá là do các nhà đầu tư và doanh nghiệp tiến hành và tự chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác về việc định giá đó. Việc định giá này không bắt buộc phải có xác nhận của cơ quan nhà nước hoặc công chứng.

Một điểm cần lưu ý đó là phần giá trị chênh lệch giữa giá trị được định giá và giá trị thực tế của tài sản góp vốn tại thời điểm kết thúc định giá rất khó xác định. Trường hợp này pháp luật không quy định cụ thể, trên thực tế thì phần giá trị của tài sản được đem góp vốn tại thời điểm góp vốn là rất khó xác định nếu không được thống nhất định giá ngay từ đầu. Ví dụ như tài sản góp vốn vào công ty là một chiếc ô tô trị giá 2 tỷ đồng nhưng chủ sở hữu đã sử dụng được nhiều năm nên phần giá trị thật khi góp vốn của chiếc ô tô này không còn nguyên giá trị là 2 tỷ đồng như lúc ban đầu. Rất khó có thể giá trị thực của chiếc xe hiệu tại thời điểm định giá vốn góp là bao nhiêu nếu sau này có tranh chấp xảy ra liên đến tài sản của công ty để các thành viên, cổ đông sáng lập liên đới chịu trách nhiệm về phần giá trị chênh lệch.

2.2 Phương thức định giá.

Việc định giá được thực hiện theo thỏa thuận giữa các bên hoặc định giá bởi một người thứ ba. Các bên có thể thỏa thuận xác định giá trị của tài sản góp vốn bằng con số cụ thể và phải được thể hiện thông qua nguyên tắc nhất trí. Tài sản góp vốn cũng có thể được định giá bởi người thứ ba do các bên nhất trí chỉ định. Người thứ ba ở đây, thông thường là các tổ chức định giá chuyên nghiệp (các công ty tài chính, ngân hàng, ) được các bên ủy quyền để định giá. Người thứ ba phải thực hiện công việc một cách độc lập, không chịu sự chi phối của bất ký bên định góp vốn nào trong việc định giá.

2.3 Chủ thể có thẩm quyền định giá.

Là người thực hiện việc định giá tài sản góp vốn như: các thành viên, cổ đông sáng lập hoặc tổ chức định giá chuyên nghiệp định giá. Căn cứ vào quy định tại Luật doanh nghiệp năm 2005 và dựa vào thời điểm góp vốn vào công ti của thành viên, có thể phân chia hai trường hợp định giá tài sản: 

- Tài sản góp vốn khi thành lập doanh nghiệp phải được thành viên, cổ đông sáng lập định giá theo nguyên tắc nhất trí. 
- Tài sản góp vốn trong quá trình hoạt động do doanh nghiệp và người góp vốn thỏa thuận định giá hoặc do một tổ chức chuyên nghiệp định giá. Trường hợp tổ chức chuyên nghiệp định giá thì giá trị tài sản góp vốn phải được người góp vốn và doanh nghiệp chấp thuận. 

Quy định trên phù hợp với thực tế, tuy nhiên vẫn còn tồn tại hai vấn đề: 

Thứ nhất, trong quá trình góp vốn thành lập doanh nghiệp, nếu như gặp khó khăn trong việc tự định giá, các thành viên sáng lập có thể thuê tổ chức định giá chuyên nghiệp thực hiện việc định giá nhưng khoản 2 điều 30 luật Doanh nghiệp lại không tính đến khả năng này.

Thứ hai, trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp, nếu có sự góp vốn thì  “doanh nghiệp và người góp vốn thỏa thuận định giá”, đây là quy định phù hợp nhưng đại diện cho doanh nghiệp để thực hiện quyền hạn này là ai thì Luật Doanh nghiệp 2005 không quy định cụ thể. Mà bản chất của quan hệ góp vốn là sự “đóng góp tài sản” giữa các thành viên với nhau và nó dẫn tới sự chi phối, chia sẻ lợi ích giữa những người cùng cùng góp vốn. Do vậy, thay mặt doanh nghiệp thực hiện việc định giá phần vốn góp của thành viên mới sẽ không thể là giám đốc, chủ tịch hội đồng thành viên hay phòng ban nghiệp vụ nào đó của công ti mà phải do một cơ quan đại diện cho các thành viên công ti thực hiện.

3. Chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn vào công ty.

Việc chuyển quyền sở hữu tài sản cho công ty của người góp vốn được thực hiện thông qua việc chuyển giao vật chất và chuyển giao pháp lý. 

Chuyển giao về vật chất:  Đối với tài sản thuộc loại không phải đăng ký sở hữu, nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu được thực hiện bằng cách giao tài sản theo quy định tại điểm 1 khoản 1 Điều 29 Luật doanh nghiệp. Nghĩa vụ chuyển giao tài sản được coi là hoàn thành khi tài sản được giao đúng tình trạng, đúng số lượng, đúng chất lượng như đã thỏa thuận trong hợp đồng góp vốn. Việc giao và nhận phải được xác nhận bằng văn bản. Với quy định này, tài sản đem góp vốn chính thức ra đi khỏi sản nghiệp của người góp vốn và gia nhập vào sản nghiệp của công ty. Với tư cách là chủ sở hữu, công ty có quyền khai thác công dụng và định đối với tài sản ấy. Với tư cách là chủ nợ của công ty, các tài sản đó có thể bị kê biên bảo đảm cho việc thực hiện các nghĩa vụ của công ty đối với họ. Như vậy, tài sản không còn thuộc về sản nghiệp của người góp vốn nữa khi mang đi góp vốn vào công ty có tư cách pháp nhân.

* Thời hạn chuyển giao quyền sở hữu tài sản góp vốn vào công ti: Điều 29 luật doanh nghiệp năm 2005 không quy định cụ thể về vấn đề này mà chỉ quy định “ thành viên phải góp đầy đủ và đúng hạn bằng loại tài sản như đã cam kết”. Thời hạn cam kết góp vốn vào công ty do thành viên góp vốn và các thành viên khác của công ty thỏa thuận nên thông thường thời gian này rất dài, trường hợp này còn dẫn đến tranh chấp giữa thành viên góp vốn và doanh nghiệp do giá trị tài sản góp vốn thay đổi khiến cho quy định về việc chuyển giao quyền sở hữu chưa đạt được hiệu quả chưa mang lại nhiều ý nghĩa thực tiễn. Khắc phục hạn chế đó, Nghị định 102/2005/NĐ-CP đã quy định về thời hạn chuyển giao quyền sở hữu vốn góp vào công ty như sau: “Thành viên phải góp vốn đầy đủ, đúng tiến độ đã cam kết trong Danh sách thành viên. Nếu việc góp vốn được thực hiện nhiều hơn một lần, thời hạn góp vốn lần cuối của mỗi thành viên không vượt quá 36 tháng, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc Giấy chứng nhận đăng ký bổ sung, thay đổi thành viên và mỗi lần góp vốn thành viên được cấp một giấy xác nhận số vốn đã góp của lần góp vốn đó” (khoản 1 Điều 18 Nghị định 102/2005/NĐ-CP). Từ quy định trên có thể hiểu rằng thời hạn tối đa mà một thành viên có thể cam kết góp vốn vào công ti là 36 tháng, kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh. Trong thời hạn này các thành viên phải hoàn thành việc chuyển giao quyền sở hữu tài sản góp vốn cho công ty. Quy định này góp phần hạn chế những tranh chấp có thể phát sinh trong quá trình góp vốn thành lập công ti hiện nay khi bắt đầu có hiệu lực từ ngày 15/11/2010.

* Xử lí trong trường hợp thành viên góp vốn không thực hiện đúng nghĩa vụ chuyển giao quyền sở hữu tài sản góp vốn vào công ty: Căn cứ vào quy định tại khoản 2 điều 39 luật doanh nghiệp năm 2005, thì trong trường hợp thành viên không chuyển giao đúng hạn và đủ số tài sản góp vốn cho công ty như đã cam kết mà gây thiệt hại cho công ty thì thành viên này sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho công ty. “Sau thời hạn cam kết góp lần cuối mà vẫn có thành viên chưa góp vốn đã cam kết góp, thành viên chưa góp vốn vào công ty theo cam kết đương nhiên không còn là thành viên của công ty và không có quyền chuyển nhượng quyền góp vốn đó cho người khác .” (theo quy định tại khoản 4 Điều 18 nghị định 102/2005/NĐ-CP). Theo quy định này thì sau thời hạn cam kết góp lần cuối mà thành viên chưa chuyển giao quyền sở hữu tài sản góp vốn cho công ty thì sẽ mất tư cách thành viên của công ty.

Chuyển giao pháp lý: Căn cứ vào quy định tại Điều 29 Luật doanh nghiệp năm 2005 thì thành viên công ty TNHH, công ty hợp danh và công ty cổ phần phải chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn theo quy định sau: 

Thứ nhất: “Đối với tài sản có đăng ký hoặc giá trị quyền sử dụng đất thì người góp vốn phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản đó hoặc quyền sử dụng đất cho công ty tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền sở hữu tài sản đó hoặc quyền sử dụng đất cho công ty tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc chuyển quyền sở hữu đối với tài sản góp vốn không phải chịu lệ phí trước bạ”. Quy định này chỉ nhấn mạnh tới nghĩa vụ tiến hành các thủ tục sang tên của người góp vốn, tuy nhiên đối với việc chuyển giao quyền sở hữu, vấn đề quan trọng đặt ra là thời điểm chuyển giao quyền chứ không phải ai là người thực hiện các thủ tục. Vì thời điểm chuyển giao quyền liên quan tới thời điểm chịu rủi ro đối với tài sản. Hợp đồng góp vốn vào công ty và hợp đồng mua bán đều là các hợp đồng có tác dụng chuyển quyền sở hữu một tài sản (tài sản góp vốn; tài sản bán) và xác lập quyền sở hữu đối với một tài sản khác. Vì vậy, cũng giống như hợp đồng mua bán, hợp đồng góp vốn vào công ty là một hợp đồng chuyển nhượng tài sản có đền bù. Nói cách khác, có thể áp dụng các quy định về thời điểm chuyển quyền sở hữu và chịu rủi ro đối với tài sản của hợp đồng mua bán cho trường hợp góp vốn vào công ty. Qua đó, có thể thấy rằng quyền sở hữu hoặc chuyển quyền sử dụng đối với tài sản góp vốn được chuyển giao cho công ty kể từ thời điểm hoàn thành thủ tục đăng ký quyền sở hữu hoặc sử dụng đối với tài sản đó (theo quy định tại Điều 432, Điều 696 BLDS). Tùy thuộc vào thỏa thuận của các bên, mà việc giao và nhận tài sản góp vốn có thể thực hiện trước hoặc sau khi hoàn tất thủ tục sang tên. Tuy nhiên trong mọi trường hợp, công ty chỉ trở thành chủ sở hữu đối với tài sản góp vốn kể từ ngày giấy chứng nhận quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng được cấp.

Thứ hai: “Đối với tài sản không đăng ký quyền sở hữu, việc góp vốn phải được thực hiện bằng việc giao nhận tài sản góp vốn có xác nhận bằng biên bản. Biên bản giao nhận phải ghi rõ tên và địa chỉ trụ sở chính của công ty; họ, tên, địa chỉ thường trú, số Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác, số quyết định thành lập hoặc đăng ký của người góp vốn; loại tài sản và số đơn vị tài sản góp vốn và tỷ lệ tổng giá trị tài sản đó trong vốn điều lệ của công ty; ngày giao nhận; chữ ký của người góp vốn hoặc đại diện theo ủy quyền của người góp vốn và người đại diện theo pháp luật của công ty”. Các tài sản này có thể được thể hiện dưới hai trạng thái: các tài sản hữu hình những vật thể mà con người có thể nhận biết bằng các giác quan tiếp xúc: cầm, nắm Ví dụ: máy móc, thiết bị, xe hơi, căn nhà…. Những tài sản mà chỉ nhận biết được thông qua các công cụ của tư duy, ví dụ tác phẩm văn học, hội hoạ, tác phẩm âm nhạc, sáng chế, quyền chủ nợ được gọi là các tài sản vô hình, hay các giá trị tài sản phi vật thể. Nghĩa vụ giao tài sản được coi là hoàn thành khi tài sản được giao đúng số lượng, đúng chất lượng như đã thoả thuận trong hợp đồng góp vốn và tài sản ở trong tư thế hoàn toàn sẵn sàng để người nhận chiếm hữu. Việc giao và nhận phải được xác nhận bằng văn bản. Như vậy, với quy định chuyển quyền sở hữu, tài sản đem góp vốn chính thức ra đi khỏi sản nghiệp của người góp vốn và gia nhập vào sản nghiệp của công ty nhận vốn góp. Với tư cách là chủ sở hữu, công ty có quyền khai thác công dụng và định đoạt đối với tài sản đó. 

III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT.

Pháp luật nước ta hiện nay chưa quy định về vấn đề: khi công ty phá sản, nếu tài sản góp vốn định giá sai thì lúc này quyền lợi của các chủ nợ sẽ giải quyết như thế nào và đồng nghĩa với việc này thì ai sẽ là người đứng ra chịu về phần định giá sai này? Vì vậy, hệ thống pháp luật cần phải có quy định cụ thể những đối tượng nào có thể định giá được đối với những loại tài sản vô hình. Vì những loại tài sản này nó đòi hỏi trình độ chuyên môn cao để có thể định giá một cách chính xác tránh tình trạng làm ảnh hưởng 
tới quyền lợi của các bên.

Một điều rất quan trọng đó là cần có văn bản hướng dẫn quy định về phần tài sản góp vốn, và quy định chi tiết những loại tài sản nào được gọi là tài sản góp vốn, đồng thời tránh sự đối lập chồng chéo đối với các quy định tài sản tại Bộ luật dân sự năm 2005 và Luật sở hữu trí tuệ.

Cần có những cách quy định cụ thể hơn để không bị chồng chéo của Luật doanh nghiệp đối với Luật đất đai khi quy định chuyển giao quyền sở hữu tài sản đối với những tài sản là bất động sản đặc biệt là về phần nhà ở và đất đai. Trên thực tế có nhiều cá nhân chỉ chuyển quyền sử dụng về phần đất mà không chuyển quyền sở hữu về phần nhà ở trên đất cũng như chỉ chuyển quyền sở hữu nhà mà không chuyển quyền sử dụng đất hoặc là những tài sản nằm trên phần đất đó không thuộc quyền sở hữu của người đó. Khi mà công ty cần phải bán mảnh đất đó thì lúc đó quyền lợi của các bên sẽ khó giải quyết.

Cần thiết lập quy chế riêng, đảm bảo sự chặt chẽ đối với việc định giá tài sản góp vốn của chủ thể thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. “Công ty TNHH một thành viên là loại hình doanh nghiệp chỉ do một cá nhân hoặc một tổ chức bỏ tài sản để thành lập, tự quản lý và hưởng toàn bộ lợi nhuận, trong khi đó lại chịu trách nhiệm trong phạm vi vốn điều lệ của doanh nghiệp”. Với các đặc điểm trên, nếu không được kiểm soát chặt chẽ thì rất dễ dẫn đến việc chủ sở hữu loại hình công ty này tùy tiện định giá tài sản đưa vào góp vốn, sử dụng tài sản góp vốn, làm ảnh hưởng tới lợi ích của các chủ thể khác khi quan hệ với nó, đặc biệt là trong lĩnh vực góp vốn. Việc định giá tài sản góp vốn được pháp luật cho phép thành viên sáng lập định giá theo nguyên tắc nhất trí, là bởi cơ chế tự kiểm soát và bởi mối quan hệ chặt chẽ về quyền lợi giữa các thành viên buộc họ phải định giá đúng. Đồng thời khi đánh giá sai thì trách nhiệm cũng là trách nhiệm liên đới, do đó có thể giảm bớt rủi ro cho các chủ thể khác. Tuy nhiên, ở công ty TNHH một thành viên, sẽ không thấy được sự đảm bảo ở cả hai điều kiện này, do đó sẽ không có sự liên đới chịu trách nhiệm, quyền lợi của các chủ nợ chỉ trông chờ vào việc thực hiện nghĩa vụ của một người. Vì vậy, cần phải có một cơ chế riêng chặt chẽ đối với việc định giá tài sản góp vốn của công ty TNHH một thành viên.

KẾT LUẬN

Từ các phân tích ở trên, có thể thấy rằng các quy định của pháp luật hiện hành về hình thức vốn góp, định giá vốn góp và chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn vào công ty còn khá nhiều điểm hạn chế, bất cập. Không chỉ việc quy định thiếu sót của Luật doanh nghiệp về vấn đề này mà còn có sự chồng chéo với Luật Dân sự, Luật sở hữu trí tuệ gây khó khăn cho các chủ thể áp dụng. Vì thế pháp luật cần hoàn thiện hơn về những vấn đề này nói riêng và các vấn đề về doanh nghiệp nói chung để tạo hành lang pháp lý cho các loại hình doanh nghiệp ở nước ta ngày càng phát triển.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Luật doanh nghiệp năm 2005;
2. Bộ luật dân sự năm 2005;
3. Luật đất đai năm 2003;
4. Luật sở hữu trí tuệ năm 2004;
5. Giáo trình luật thương mại tập 1, trường Đại học Luật Hà Nội Nxb.CAND, Hà Nội, 2006;
6. NĐ 102/2010/NĐ-CP ngày 1/10/2010 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật doanh nghiệp;
7. Quyết định số 88/2009/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ : Về việc ban hành Quy chế góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam;
8. Một số vấn đề lý luận về cơ chế huy động vốn của công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp 2005, Nguyễn Thị Minh Thúy, Khóa luận tốt nghiệp, Hà Nội, 2012;
9. Chế độ pháp lý vốn của công ty cổ phần theo Luật doanh nghiệp, Nguyễn Thị Minh Thu, Khóa luận tốt nghiệp, Hà Nội, 2001; 
10. Một số vấn đề pháp lý về vốn của công ty cổ phần, Khóa luận tốt nghiệp, Phạm Phương Thảo, Hà Nội, 2010;
Các website:
www.diendansinhvienluat.vn
www.wikipedia.vn

Nếu muốn download, xin vui lòng điền vào form tại đây và gửi tối thiểu 01 bài tập của 4 kì gần nhất đạt trên 7 điểm và chưa từng đăng tại blog này vào email baitapluat@gmail.com hoặc inbox facebook Diệp Hân Đặng. Những bạn nào không gửi bài tập, mình xin phép không gửi link download tài liệu lại. Cảm ơn đã ghé thăm blog và xin lỗi vì đã làm phiền các bạn!

No comments:

Post a Comment