Bài tập học kỳ Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam có đáp án.
MỞ ĐẦU
Bước sang thế kỷ XI đất nước có sự thay đổi lớn khi Lý Công Uẩn lên ngôi vua năm 1010 cùng với sự ra đời của Chiếu Dời Đô ông đã dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La( Thăng Long) và bước vào công cuộc xây dựng đất nước theo lối chính quy, từng bước mở rộng quy mô. Bộ máy nhà nước từ thời Lý sang thời Trần được xây dựng và củng cố, nhìn chung có sự hoàn chỉnh hơn so với giai đoạn trước bộ máy nhà nước được thống nhất từ trung ương đến địa phương.
NỘI DUNG
Được áp dụng triệt để dưới thời Lí - Trần, nguyên tắc Liên kết dòng họ đóng vai trò to lớn trong việc xây dựng và hoàn thiện tổ chức bộ máy Nhà nước của hai triều đại Lý, Trần với bản chất: vua lấy hoàng tộc và quốc thích làm hậu thuẫn chính trị cho địa vị của mình.
I. Tổ chức bộ máy nhà nước.
1) Chính quyền trung ương
Trong thời kỳ Lý Trần, nhà vua là người đứng đầu nhà nước nhưng mức độ tập trung quyền lực chưa cao, quyền lực ấy bị hạn chế bởi Hoàng thân quốc thích và bộ phận trung khu (cơ quan Nhà nước và chức vụ Nhà nước trung gian trọng yếu) được trao quyền hành rất lớn, có vai trò hạn chế quyền lực Nhà vua như Tể tướng, Á tướng, các chức quan đại thần như Tam thái, Tam thiếu, Tam tư.
Các quan đại thần: gồm 9 quan văn và 3 quan võ, trong đó: Tam thái (Thái sư, Thái phó, Thái bảo), Tam thiếu (Thiếu sư, Thiếu phó, Thiếu bảo), Tam tư (Tư đồ, Tư mã, Tư không); Các quan võ: Thái úy, Thiếu úy, Binh chương sự.
Ngoài các chức quan này ở triều đình lúc bấy giờ còn có 2 chức quan Tả hữu gián nghị đại phu để can gián nhà vua và đàn hoặc các quan khác, cùng các chức Điện học sỹ và Hàn lâm học sỹ là các chức quan chuyên thảo chiếu biểu của nhà vua do các bậc danh Nho đảm nhiệm. Các cơ quan này có chức năng tư vấn cao cấp của nhà vua đồng thời trước những quyết định quan trọng nhà vua thường hỏi ý kiến các quan đại thần.
- Các bộ: Về cơ bản các bộ dưới thời Lý, Trần đều là những cơ quan thực thi quyền hành pháp do nhà vua giao trong từng lĩnh vực cụ thể đồng thời có chức năng tư vấn cho nhà vua trong lĩnh vực mà bộ quản lý. Đứng đầu mỗi bộ là Thượng thư, chức phó thị lang.
- Các cơ quan chuyên môn: các cơ quan này độc lập với các bộ và giúp nhà vua quản lý các lĩnh vực chuyên môn khác nhau gồm các đài, viện, giám, phủ (Hàn lâm viện, Khu mật viện, Đăng văn viện, Thẩm hình viện, Thái y viện, Ngự sử đài, Quốc sử viện, Tam tư viện, Quốc tử giám, Quốc học viện, Giảng võ đường)
2) Chính quyền địa phương
Bộ máy nhà nước dưới thời Lý được thiết lập từ trung ương đến địa phương. Năm 1010, Lý Thái Tổ đổi 10 đạo thành 24 bộ. Ở miền núi, các khu vực được chia thành trại, đứng đầu là chủ trại. Lộ, trại được chia thành các phủ (miền xuôi) và các Châu Ổ (miền núi), đứng đầu là các tri phủ, tri châu. Dưới cấp phủ, châu là cấp xã.
Năm 1242, chính quyền địa phương được chia thành 3 cấp. Cao nhất là Lộ, đứng đầu mỗi lộ là An phủ chánh sứ; dưới Lộ là các phủ, châu đứng đầu là các Tri phủ và chuyển vận sứ; dưới Phủ, Châu là các Xã, đứng đầu mỗi xã là Đại, Tiểu tư xã, xã chính.
Năm 1397, chính quyền địa phương thời nhà Trần được tổ chức: nước chia thành lộ, lộ chia thành phủ, đứng đầu phủ là Trấn phủ sứ, có phó Trấn phủ sứ giúp việc. Phủ chia thành các châu, đứng đầu là Thông Phán, chức phó là Thiêm phán. Châu được chia thành các huyện, đứng đầu huyện là Lệnh úy, có chủ bạ giúp việc. Huyện chia thành xã, đứng đầu xã là xã quan do triều đình bổ nhiệm gọi là xã Chính. Mỗi xã gồm nhiều “giáp”, nhưng cũng như ở triều Lý, giáp không phải là đơn vị chính của làng xã. Các liên xã và các chức quan đi kèm cũng được bãi bỏ. Đặc biệt, ở giai đoạn này nhiều lộ ở gần miền biên giới hay các địa điểm quan trọng đã được họp lại thành “hạt” và các quan văn đứng đầu mỗi hạt là tổng quản hay thái thú, các chức quan này được trao cho quyền hành rất rộng.
3) Tổ chức quân đội:
Tổ chức quân đội được quan tâm đặc biệt vì chiến tranh ngoại xâm là nguy cơ trực tiếp và thường xuyên diễn ra, nên quân đội được tổ chức rất chặt chẽ, trang bị đầy đủ và có tinh thần chiến đấu cao, gồm: quân cấm vệ và quân ở các lộ. Quân cấm vệ là quân tuyển chọn từ những thanh niên khỏe mạnh trong cả nước, có nhiệm vụ bảo vệ vua và kinh thành, đây là đội quân tinh nhuệ nhất được tuyển lựa cẩn thận và huấn luyện chu đáo.Quân ở các lộ được tuyển chọn trong số thanh niên trai tráng ở các làng xã đến tuổi thành đinh (18 tuổi) có chức năng canh phòng, bảo vệ phủ, lộ, châu. Ngoài quân đội của nhà vua, các vương hầu và tri phủ còn có lực lượng gia binh, lực lượng này được sử dụng khi cần thiết và dưới sự kiểm soát của Quân vương hầu.
Về phương thức tuyển quân, từ thời Lý, nghĩa vụ binh dịch đã được đặt ra với chế độ đăng ký hộ khẩu và tuyển lính chặt chẽ, chính sách “ngụ binh ư nông” được đặt ra nhưng không áp dụng với quân cấm vệ.
4. Quan chế
a) Tuyển dụng quan lại
- Tuyển cử và nhiệm cử vẫn được coi là hai phương thức tuyển dụng quan lại chủ yếu của các vương triều Lý – Trần. Việc tuyển dụng chủ yếu vẫn dựa vào hai tiêu chuẩn “thân” và “luân”, các trọng trách trong triều đình đều được giao cho những người trong hoàng tộc.
- Khoa cử: Năm 1075 Lý Nhân Tông mở khoa thi đầu tiên tuyển nhân tài đã mở ra một hướng mới trong cách tuyển dụng quan lại thể hiên sự quan tâm chú trọng nhân tài và phương thức ngày càng được mở rộng.
- Nộp tiền: Từ thời Lý phương pháp này được quy định rõ rằng người nộp tiền bắt đầu bổ làm lại, nộp lần thứ 2 thì được bổ nhiệm làm thừa tín lang.
b) Tước phẩm quan lại
Thời nhà Lý, lấy tước vương, tước công phong cho hoàng tộc thân thích hoàng tộc và người có công lớn. Thời Trần người tôn thất được phong tước vương hoặc tước quận vương còn phong cho các quan văn võ thì có các thứ bậc như quốc công, thượng hầu,..
c) Khảo khóa
Quy chế khảo khóa quay lại chưa được quy định chặt chẽ và cụ thể . Nhà Lý 9 năm khảo khóa quan lại một lần còn đời Trần thì 15 năm khỏa khóa quan lại một lần.
d) Lương bổng của quan lại
Các quan lại ở hai vương triều này ngoài ruộng đất được phong cấp còn được cấp cả lương bổng. Ơ thời Lý lại không có lương bổng thường xuyên nhưng cho đến năm 1067 Lý Thánh Tông đã định lệ cấp bổng hàng năm cho các quan làm việc tư pháp và ngục lạ bằng tiền và hiện vật. Sang đến thời Trần chế độ cấp lương bổng cho quan lại được quy định cụ thế và phổ cập hơn, tiền lương đó đều lấy vào thuế.
II. Đánh giá cách thức tổ chức bộ máy Nhà nước quân chủ quý tộc thời Lý – Trần dưới góc độ lịch sử nhà nước.
Điểm tích cực
- Cách thức tổ chức Nhà nước quân chủ quý tộc làm cho bộ máy Nhà nước Việt Nam thời Lý – Trần không hoàn toàn lệ thuộc vào mô hình Nhà nước quân chủ quý tộc các triều đại Trung Quốc cùng thời kỳ mà có những điểm độc đáo riêng của nó.
- Triều đình Lý – Trần có sự hòa đồng đã phát huy được cao nhất bộ máy chính quyền quý tộc trung ương, phát huy vai trò của bộ phận trung khu gắn kết và mở rộng quan hệ giữa triều đình với nhân dân, quân sĩ. Từ đó tập hợp được nội lực của cả dân tộc, phát huy sức mạnh dân tộc, sức mạnh đất nước trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông
Điểm hạn chế
- Mô hình Nhà nước Quân chủ quý tộc ngày càng bộc lộ những tiềm ẩn nguy cơ phân quyền cát cứ, ảnh hưởng tới sự xây dựng Nhà nước tập quyền.
- Phương thức tuyển dụng quan chức từ con cháu quan chức đã bộc lộ nhược điểm căn bản: xây dựng một đội ngũ quan chức gánh vác những trọng trách trong bộ máy Nhà nước nhưng lại không đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao về tri thức, năng lực quản lý và điều hành đất nước ngày càng cao.
Chính những hạn chế này đã dẫn đến sự khủng hoảng về mô hình Nhà nước quân chủ quý tộc vào cuối thời Trần.
KẾT LUẬN
Như vậy cách thức tổ chức bộ máy nhà nước dưới thời Lý-Trần đã có sự hoàn thiện hơn trước, nếu như ở thế kỷ X tổ chức bộ máy nhà nước còn đơn giản mang nặng tính quân sự với đội ngũ quan lại còn ít ỏi, bước đầu đã có sự phân nhiệm nhưng chưa rõ ràng thì đến dưới thời Lý - Trần bộ máy Nhà nước đã được mở rộng về quy mô và bắt đầu xây dựng theo lối chính quy.
No comments:
Post a Comment