1. Khái niệm hôn nhân gia đình theo luật La Mã.
Hôn nhân theo luật La Mã là “ liên minh suốt đời giữa người đàn ông và đàn bà cùng chung quyền của con người và Thượng đế”. Trong khi đó, ở bộ luật Hamurabi thì chưa khái quát hóa được thành khái niệm. Nội dung chủ yếu của chế định này tập trung điều chỉnh các vấn đề như: kết hôn, ly hôn; quan hệ thứ bậc trong gia đình; chế độ tài sản vợ chồng; quan hệ cha mẹ con cái; vấn đề con nuôi.
2. Những nội dung cơ bản trong lĩnh vực hôn nhân gia đình của bộ luật Hammurabi.
- Bộ luật Hammurabi thừa nhận hôn nhân trước pháp luật. Qua đó, kết hôn làm phát sinh quan hệ tài sản, nhân thân, và quyền thừa kế sau này.
- Bộ luật Hamurabi xác lập một chế độ hôn nhân bất bình đẳng, không dựa trên sự tự nguyện của hai bên. Người con trai có thể trực tiếp đến nhà bố cô gái để xin hỏi cưới hoặc bố của anh ta sẽ đi hỏi vợ cho con (điều 155, 156).
- Chế độ đa thê được thừa nhận ở bộ luật Hamurabi. Người chồng có thể lấy nhiều vợ trong trường hợp vợ của anh bị bệnh nặng, không có khả năng sinh con hoặc không chung thủy. Trong khi đó, người phụ nữ chỉ được lấy một chồng.
- Theo bộ luật Hammurabi, hôn thú là bắt buộc. Bộ luật còn quy định về tiền ăn hỏi, và tiền để phục vụ cưới.
- Bộ luật Hammurabi không quy định về thủ tục kết hôn.
- Bộ luật Hammurabi không quy định về điều kiện kết hôn.
- Bộ luật Hammurabi cho phép người chồng bỏ vợ trong các trường hợp: người vợ không sinh con; không chu đáo hoặc bị chồng cho là đã ngoại tình. Tuy nhiên, khi người vợ đang bị bệnh nặng, người chồng không được phép ly hôn. Người vợ có quyền ly hôn khi người chồng đi khỏi nhà không có lý do, chồng có quan hệ ngoại tình hay vu cáo vợ ngoại tình (điều 142, 136 và 132). Không những thế, nếu người vợ bị bệnh và không muốn tiếp tục sống ở nhà chồng, cô ta cũng được phép trả lại của hồi môn và ra đi (Điều 149).
- Về phân chia tài sản sau ly hôn: Theo luật Hammurabi, khi ly hôn, phần tài sản của ai vẫn thuộc về người đấy. Tài sản vợ chồng tạo dựng trong thời kì hôn nhân thuộc về người chồng, của hồi môn phải trả về cho người vợ. Ngoài ra, nếu việc ly hôn xuất phát từ lý do người vợ không sinh con, người chồng phải trả thêm cho vợ một khoản tiền nữa (Điều 138). Tuy nhiên, nếu việc ly hôn do người vợ hư hỏng, người vợ sẽ không được bất cứ tài sản gì (Điều 141).
- Về vấn đề nuôi con sau khi ly hôn: Theo luật Hammurabi,nếu như lý do và lỗi ly hôn đều từ phía người chồng, trong trường hợp này pháp luật trao quyền nuôi con cho người vợ. Người vợ còn
được hưởng lợi từ khối tài sản chung được chia một phân fkhoois tài sản chung khi người con trưởng thành. Đây là một hiện tượng hiếm gặp trong pháp luật phương Đông thời bấy giờ, quy định này mang nhiều điểm tiến bộ bởi nó đã bảo vệ được người quyền lợi của người phụ nữ vốn là bên yếu thế sau khi ly hôn trong xã hội.
- Vấn đề tái hôn:
Ở bộ luật Hammurabi, đối với người chống, việc tái hôn không chịu ràng buộc. Người vợ chỉ được tái hôn khi có sự chấp thuận của thẩm phán. Mục đích là bảo vệ quyền lợi cho các con chưa thành niên của người chồng đã chết hoặc được coi như đã chết (Điều 177). Tuy nhiên, khi người chồng cũ trở về, quan hệ hôn nhân trước phải được tái lập.
Như vậy, bộ luật Hammurabi có điểm tiến bộ là đã quy định cụ thể, chặt chẽ hơn, và bảo vệ quyền lợi phụ nữ khi ly hôn. Luật Hamurabi còn tiến bộ trong cả việc quan tâm đến con cái sau khi ly hôn, hay cho phép người vợ nuôi con sau khi ly hôn.
- Về quan hệ gia đình:
+ Quan hệ vợ chồng: Bộ luật Hamurabi thì xây dựng trên hình mẫu gia trưởng. Người chồng làm chủ trong gia đình. Quyền lực của họ rất lớn đến mức có thể đem vợ mình đi làm con tin để gán nợ (điều 117). Người Lưỡng Hà cổ đại còn thừa nhận chế độ đa thê, do đó mà pháp luật phải can thiệp để quy định sự trên dưới của các bà vợ. Người đàn ông có thể lấy vợ lẽ để có thêm con, có thể mang vợ lẽ về nhà nhưng không được đối xử với vợ lẽ như đối với vợ cả (điều 145).
+ Quan hệ cha mẹ và con cái:
Bộ luật Hammurabi đã gần như tuyệt đối hóa quyền lực của người cha trong gia đình. Người cha ở Lưỡng Hà cổ đại có quyền bán con mình hoặc đem đi làm tin (điều 117). Theo luật Hammurabi, tài sản của con cái trong gia đình đều thuộc về người cha.
Luật Hammurabi hạn chế việc chấm dứt quan hệ cha mẹ và con cái theo ý chí riêng của các bên (điều 168).
- Về việc nhận con nuôi:
Luật Hammurabi có một số những quy định hết sức tiến bộ về việc nhận con nuôi. Con nuôi phải kính trọng và biết ơn công lao nuôi dưỡng của cha mẹ nuôi (điều 185). Bố mẹ không được phân biệt đối xử giữa con đẻ và con nuôi, không được cưỡng đoạt con người khác về nuôi (điều 186 và 190). Quyền lợi của con nuôi được pháp luật bảo vệ (điều 191). Bên cạnh đó cũng đã có những quy định trong việc người con nuôi không được chấm dứt quan hệ với cha mẹ nuôi trong các trường hợp không có quan hệ họ hàng hay được nuôi dưỡng từ bé, quy định này đã bảo vệ được quyền lợi của cha mẹ nuôi.
3. Đánh giá:
- Bộ luật đã phản ánh và điều chỉnh rất nhiều những quan hệ xã hội thời bấy giờ, trong đó có quan hệ hôn nhân gia đình, một trong những nền tảng của xã hội.
- Tuy được hình thành trong một chế độ hà khắc với người phụ nữ nhưng bộ luật đã có những quy định thể hiện tính nhân đạo để bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ (Đ 142, Đ 136 – Hamurabi). Bên cạnh đó cũng có một số điều hạn chế quyền của người đàn ông trong gia đình (Đ 114 – Hamurabi) đưa ra những quy định hạn chế về việc đa thê của người đàn ông thời kì đó. Điểm tiến bộ này đã được pháp luật sau này kế thừa và tại thời điểm mà người phụ nữ chỉ có địa vị thấp kém trong xã hội thì những quy định trên thể hiện tính nhân đạo của bộ luật.
- Bộ luật Hammurabi đã xác lập chế độ gia đình gia trưởng phụ quyền. Người cha, người chồng có quyền hành gần như tuyệt đối trong gia đình. Vợ và các con đều ở địa phụ thuộc người cha. Người vợ phải chung thuỷ với chồng, có nhiệm vụ chăm sóc gia đình, sống trong nhà chồng. Con cái có nghĩa vụ phải kính trọng cha mẹ, nuôi dưỡng cha mẹ.
- Quy định về vấn đề trao quyền nuôi con cho người phụ nữ sau khi ly hôn của bộ luật Hammurabi đã mang nhiều điểm tiến bộ bởi nó đã bảo vệ được người quyền lợi của người phụ nữ vốn là bên yếu thế sau khi ly hôn trong xã hội.
- Bộ luật Hammurabi lại chứa đựng tư tưởng chủ đạo là bảo tồn tính bền vững của gia đình, đề cao đạo đức xã hội. Bộ luật này trừng trị nặng những hành vi trái luân thường đạo lý như việc con cái hành hung cha mẹ, vợ ngoại tình.
- Bộ luật đã phản ánh và điều chỉnh rất nhiều những quan hệ xã hội thời bấy giờ, trong đó có quan hệ hôn nhân gia đình, một trong những nền tảng của xã hội.
- Tuy được hình thành trong một chế độ hà khắc với người phụ nữ nhưng bộ luật đã có những quy định thể hiện tính nhân đạo để bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ (Đ 142, Đ 136 – Hamurabi). Bên cạnh đó cũng có một số điều hạn chế quyền của người đàn ông trong gia đình (Đ 114 – Hamurabi) đưa ra những quy định hạn chế về việc đa thê của người đàn ông thời kì đó. Điểm tiến bộ này đã được pháp luật sau này kế thừa và tại thời điểm mà người phụ nữ chỉ có địa vị thấp kém trong xã hội thì những quy định trên thể hiện tính nhân đạo của bộ luật.
- Bộ luật Hammurabi đã xác lập chế độ gia đình gia trưởng phụ quyền. Người cha, người chồng có quyền hành gần như tuyệt đối trong gia đình. Vợ và các con đều ở địa phụ thuộc người cha. Người vợ phải chung thuỷ với chồng, có nhiệm vụ chăm sóc gia đình, sống trong nhà chồng. Con cái có nghĩa vụ phải kính trọng cha mẹ, nuôi dưỡng cha mẹ.
- Quy định về vấn đề trao quyền nuôi con cho người phụ nữ sau khi ly hôn của bộ luật Hammurabi đã mang nhiều điểm tiến bộ bởi nó đã bảo vệ được người quyền lợi của người phụ nữ vốn là bên yếu thế sau khi ly hôn trong xã hội.
- Bộ luật Hammurabi lại chứa đựng tư tưởng chủ đạo là bảo tồn tính bền vững của gia đình, đề cao đạo đức xã hội. Bộ luật này trừng trị nặng những hành vi trái luân thường đạo lý như việc con cái hành hung cha mẹ, vợ ngoại tình.
No comments:
Post a Comment